Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật A 17 tuổi bị b và c đánh gây thương tích, tỉ lệ thương tật là 29%. chỉ có ông h ...

Tài liệu A 17 tuổi bị b và c đánh gây thương tích, tỉ lệ thương tật là 29%. chỉ có ông h là bố của a làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án. cơ quan điều tra đã khởi tố

.DOC
14
100
117

Mô tả:

I.ĐỀ BÀI A 17 tuổi bị B và C đánh gây thương tích, tỉ lệ thương tật là 29%. Chỉ có ông H là bố của A làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với B và C về tội cố ý gây thương tích. Sau khi nhận hồ sơ điều tra và đề nghị truy tố của cơ quan điều tra, viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố B và C về tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự. (Trong quá trình giải quyết vụ án này, B và C đều trên 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi). Câu hỏi: 1. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thẩm phán phát hiện trong giai đoạn điều tra bị can C không có người bào chữa. Thẩm phán phải giải quyết như thế nào? Tại sao? [tr. 1] 2. Khi nghiên cứu hồ sơ, thẩm phán còn phát hiện trước khi thực hiện hành vi gây thương tích cho A thì B đã cùng với D thực hiện hành vi lừa dảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Thẩm phán phải giải quyết thế nào? Tại sao? [tr. 2] 3. Trước khi mở phiên tòa, C yêu cầu thay đổi thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa với lý do thẩm phán là người thân thích của A. Tòa án giải quyết yêu cầu này như thế nào? Tại sao? [tr. 3] 4. Giả sử trong giai đoạn điều tra, B và C đều nhờ người bào chữa nhưng đến ngày mở phiên tòa, chỉ có người bào chữa của B có mặt còn người bào chữa cho C vắng mặt và cũng không gửi bản bảo chữa cho tòa án. Hội đồng xét xử sẽ giải quyết như thế nào? Tại sao? [tr. 4] 5. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, tòa án nhận được đơn của bà L là mẹ của A xin không đưa B và C ra xét xử. Tòa án phải giải quyết như thế nào? Tại sao? [tr. 4] 6. Giả sử tại phiên tòa sơ thẩm, người bào chữa của B xuất trình một tài liệu khẳng định khi thực hiện hành vi gây thương tích cho A thì B chưa đủ 16 tuổi. Tài liệu này chưa thể xác minh tại phiên tòa được. Hội động xét xử sơ thẩm phải giải quyết như thế nào? Tại sao? [tr. 5] 7. Giả sử hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng khoản 1 điều 104 Bộ luật hình sự tuyên phạt tù các bị cáo. Ông H kháng cáo yêu cầu chuyển khung hình phạt nặng hơn đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm phải giải quyết như thế nào và tại sao, nếu: [tr. 6] a. Có căn cứ chuyển khung hình phạt khác nặng hơn. b. Không có căn cứ để chuyển khung hình phạt nặng hơn nhưng có căn cứ giảm nhẹ hình phạt với B và C. 8. Giả sử tại phiên tòa phúc thẩm, C cung cấp tài liệu xác định thẩm phán tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm là người thân thích của người bị hại. Hội đồng xét xử phải giải quyết như thế nào nếu chứng minh tài liệu mà C cung cấp là chính xác. [tr. 8] 9. Giả sử chỉ có C kháng cáo bản án sơ thẩm, ngoài ra không còn có kháng cáo kháng nghị nào khác. Tại phiên tòa phúc thẩm, C rút toàn bộ kháng cáo của mình. Tòa án ấp phúc thẩm phải giải quyết thế nào nếu thấy bản án sơ thẩm đối với C là quá nhẹ? Tại sao? [tr. 9] 10. Nếu bản án phúc thẩm bị kháng nghị, tòa án có thẩm quyền xét lại bản án đó có thể sửa bản án này theo hướng tăng nặng hình phạt đối với C hay không nếu thấy yêu cầu của kháng nghị là có căn cứ? Tại sao? [tr. 10] II. NỘI DUNG 1. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thẩm phán phát hiện trong giai đoạn điều tra bị can C không có người bào chữa. Thẩm phán phải giải quyết như thế nào? Tại sao? Trong trường hợp này, thẩm phán có thể giải quyết theo một trong hai hướng sau: - Thứ nhất, thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Thẩm phán giải quyết theo hướng này khi cơ quan điều tra không cử người bào chữa cho C dựa vào việc có hay không có văn bản yêu cầu hoặc đề nghị cử người bào chữa của cơ quan điều tra[8]. Bởi vì khi giải quyết vụ án này, C trên 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi nên C là người chưa thành niên. Theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Như vậy, C cần phải có người bào chữa. Nếu C hoặc người đại diện hợp pháp của C không mời người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải cử người bào chữa cho C, đây là nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, cơ quan điều tra lại không cử người bào chữa cho C. Do đó, cơ quan điều tra đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đối chiếu với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự thì thẩm phán phải ra quyết định trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung. - Thứ hai, thẩm phán tiếp tục các thủ tục tố tụng tiếp theo. Thẩm phán giải quyết theo hướng này khi có căn cứ cơ quan điều tra đã cử người bào chữa cho C nhưng C, người đại diện của C đã yêu cầu từ chối người bào chữa. Căn cứ ở đây chính là văn bản của người có yêu cầu từ chối người bào chữa. Nếu cơ quan điều tra đã giải thích quyền được cử người bào chữa cho C nhưng C vẫn không đồng ý thì phải lập biên bản ghi nhận ý kiến này và quá trình tố tụng sẽ được tiếp tục thực hiện. Vì theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự thì C và người đại diện hợp pháp của C vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. 2. Khi nghiên cứu hồ sơ, thẩm phán còn phát hiện trước khi thực hiện hành vi gây thương tích cho A thì B đã cùng với D thực hiện hành vi lừa dảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Thẩm phán phải giải quyết thế nào? Tại sao? Trong trường hợp này, nhóm xin chia làm 2 trường hợp. Theo quy định tại thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC, thẩm phán cần phải xem xét xem có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 117 hay không thì mới được ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung[9]. Theo khoản 2 Điều 117 Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong trường hợp thật cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án. Như vậy, nếu không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm, hành vi lừa đảo chiểm đoạt tài sản của B không có liên quan đến hành vi gây thương tích cho A thì tòa án vẫn tiến hành xét xử bình thường. Vì đây là hai vụ án riêng biệt, việc giải quyết hai vụ án này không ảnh hưởng đến nhau. Nếu có thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của B có liên quan đến hành vi gây thương tích cho A thì thẩm phán phải ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Vì đây là căn cứ được quy định tại điểm b) khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự: “Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong những trường hợp sau: a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; b) Khi có những căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.” 3. Trước khi mở phiên tòa, C yêu cầu thay đổi thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa với lý do thẩm phán là người thân thích của A. Tòa án giải quyết yêu cầu này như thế nào? Tại sao? C yêu cầu thay đổi thẩm phán trước khi mở phiên tòa nên quyết định thay đổi hay không thay đổi này thuộc thẩm quyền của Chánh án tòa án có thẩm quyền xét xử, nếu thẩm phán bị thay đổi là Chánh án thì Chánh án tòa án cấp trên trực tiếp quyết định. Dựa trên lý do yêu cầu thay đổi thẩm phán của C, chánh án tòa án xem xét và đối chiếu với quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thay đổi thẩm phán quy định tại điều 46: “1. Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi, nếu: a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 42 của Bộ luật này; b) Họ cùng trong một Hội đồng xét xử là người thân thích với nhau; c) Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký tòa án. 2. Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm trước khi mở phiên tòa do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án thì do Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp quyết định…” Yêu cầu thay đổi thẩm phán của C dựa trên lý do được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 46 Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa là người thân thích của A (người bị hại). Do vậy, chánh án tòa án phải xác minh lý do này. Nếu thẩm phán chủ tọa phiên tòa đúng là người thân thích của A thì Chánh án tòa án có thẩm quyền xét xử ra quyết định thay đổi thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa và cử thẩm phán mới tham gia xét xử (theo điểm b, điểm c khoản 1 Điều 38). Nếu lý do yêu cầu thay đổi đó không có căn cứ thì Chánh án ra quyết định không chấp nhận yêu cầu và giữ nguyên thành phần hội đồng xét xử ban đầu. Tuy nhiên, nếu qua quá trình xác minh chánh án phát hiện thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa không phải là người thân thích của A nhưng lại thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 46 thì chánh án tòa án vẫn phải ra quyết định thay đổi thẩm phán. 4. Giả sử trong giai đoạn điều tra, B và C đều nhờ người bào chữa nhưng đến ngày mở phiên tòa, chỉ có người bào chữa của B có mặt còn người bào chữa cho C vắng mặt và cũng không gửi bản bào chữa nào cho tòa án. Hội đồng xét xử sẽ giải quyết thế nào? Tại sao? Trong trường hợp này, hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Bởi vì: - C là người chưa thành niên nên bắt buộc phải có người bào chữa theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự. Thực tế, C đã nhờ người bào chữa cho mình từ giai đoạn điều tra chứ không phải do cơ quan tiến hành tố tụng cử người bào chữa. - Theo quy định tại điều 190 thì người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho tòa án. Nếu người bào chữa vắng mặt tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Đồng thời, trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt thì hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Như vậy, C thuộc quy định tại khoản 2 Điều 57 nên sự có mặt của người bào chữa là yếu tố bắt buộc, không thể dùng hình thức gửi bản bào chữa đến cho tòa án. Do đó, nếu không có sự tham gia của người bào chữa cho C tại phiên tòa, hội đồng xét xử phải ra quyết định hoãn phiên tòa. 5. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, tòa án nhận được đơn của bà L là mẹ của A xin không đưa B và C ra xét xử. Tòa án phải giải quyết như thế nào? Tại sao? Trong trường hợp này, tòa án phải ra quyết định không chấp nhận yêu cầu của bà L và vẫn đưa B, C ra xét xử. Bởi vì: Theo đề bài, chỉ có ông H là bố A đã làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với B và C. B và C bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: “1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”. Như vậy, đây là trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Vụ án chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. A 17 tuổi nên A là người chưa thành niên. Ông H là bố của A nên ông H là người đại diện hợp pháp của A. Vì vậy, ông H có quyền yêu cầu khởi tố vụ án. Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự, trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ. Có thể thấy người có quyền rút yêu cầu khởi tố phải là người đã yêu cầu khởi tố. Ông H đã yêu cầu khởi tố nên chỉ ông mới có quyền rút yêu cầu này. Bà L là mẹ của A nên cũng là người đại diện hợp pháp của A nhưng bà L không có quyền rút yêu cầu. Vì thế, tòa án phải ra quyết định không chấp nhận yêu cầu của bà L. Vụ án không bị đình chỉ mà vẫn tiến hành các thủ tục tố tụng tiếp theo để đưa vụ án ra xét xử. 6. Giả sử tại phiên tòa sơ thẩm, người bảo chữa của B xuất trình một tài liệu khẳng định khi thực hiện hành vi gây thương tích cho A thì B chưa đủ 16 tuổi. Tài liệu này chưa thể xác minh tại phiên tòa được. Hội động xét xử sơ thẩm phải giải quyết như thế nào? Tại sao? Hội đồng xét xử phải ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và hoãn phiên tòa. Bởi vì: - Người bào chữa của B có quyền đưa ra tài liệu theo khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Tài liệu mà người bào chữa của B đưa ra là chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được. Bởi chứng cứ quan trọng là chứng cứ không thể thiếu được trong quá trình giải quyết vụ án, là chứng cứ làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh được quy định tại điều 63 bộ luật tố tụng hình sự và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong trường hợp này, tuổi của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội là yếu tố quan trọng để xác định năng lực trách nhiệm hình sự. Theo điều 12 bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm mà B thực hiện trong tình huống này là tội ít nghiêm trọng, bởi hành vi của B gây nguy hại không lớn cho xã hội và hình phạt cao nhất đối với hành vi ấy là 3 năm tù (theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự). Như vậy, nếu B chưa đủ 16 tuổi thì B sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Còn nếu B đã đủ 16 tuổi thì B sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. Do đó, việc B đủ hay chưa đủ 16 tuổi là một chúng cứ quan trọng. Nó sẽ quyết định việc B có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. - Theo quy định tại khoản 2 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự thì tòa án phải ra quyết định trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung với lý do khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được và hoãn phiên tòa. 7. Giả sử hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng khoản 1 điều 104 Bộ luật hình sự tuyên phạt tù các bị cáo. Ông H kháng cáo yêu cầu chuyển khung hình phạt nặng hơn đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm phải giải quyết như thế nào và tại sao, nếu: a. Có căn cứ chuyển khung hình phạt khác nặng hơn. Nếu có căn cứ chuyển khung hình phạt khác nặng hơn thì hội đồng xét xử phúc thẩm phải giải quyết theo trình tự sau: Thứ nhất, hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm theo điểm c) khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự. Bởi theo khoản 3 Điều 249 thì trong trường hợp viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản bộ luật hình sự về tội nặng hơn. Như vậy, chỉ có A kháng cáo yêu cầu thì hội đồng xét xử mới có quyền sửa bản án theo hướng chuyển khung hình phạt khác nặng hơn (áp dụng điều khoản bộ luật hình sự về tội năng hơn) đối với B và C. Tuy nhiên, trong trường hợp này ông H (người đại diện hợp pháp của A) kháng cáo yêu cầu chuyển khung hình phạt nặng hơn đối với B và C. Do đó, hội đồng xét xử không thể chấp nhận kháng cáo này và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Thứ hai, hội đồng xét xử phúc thẩm đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm đã ra quyết định không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bản án sơ thẩm có hiệu lực khi hội đồng xét xử ra quyết định này. Mặt khác, bản án sơ thẩm đã có vi phạm pháp luật. Đó là việc áp dụng không đúng quy định của bộ luật hình sự đối với B và C, vì có căn cứ chuyển khung hình phạt khác nặng hơn. Mà theo quy định tại điều 274 Bộ luật hình sự thì trong trường hợp phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì viện kiểm sát, tòa án phải thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị theo quy định tại điều 175. b. Không có căn cứ để chuyển khung hình phạt nặng hơn nhưng có căn cứ giảm nhẹ hình phạt đối với B và C Trong trường hợp này, hội đồng xét xử phúc thẩm phải sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho B và C. Vì theo quy định tại điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự thì tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định sửa bản án sơ thẩm. Điều 249 về sửa bản án sơ thẩm cũng cũng quy định: “Tòa án cấp sơ thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: a) miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; b) áp dụng điều khoản của bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; c) giảm hình phạt cho bị cáo; d) giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; e) chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.” Ở đây, tòa án cấp sơ thẩm áp dụng không đúng các quy định của bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt nặng hơn so với tính chất và mức độ trong hành vi phạm tội của B và C. Theo khoản 3 Điều 249, khi có căn cứ thì tòa án cấp phúc thẩm có quyền giảm nhẹ hình phạt cho B và C (sửa bản án theo hướng có lợi cho bị cáo) mặc dù kháng cáo yêu cầu chuyển khung hình phạt khác nặng hơn đối với bị cáo. Bởi việc sủa bản án trong trường hợp này không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. 8. Giả sử tại phiên tòa phúc thẩm, C cung cấp tài liê ụi xác định thẩm phán tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm là người thân thích của người bị hại. Hô ̣ii đồng xét xử phải giải quyết thế nào nếu chứng minh tài liê ụi mà C cung cấp là chính xác. Nếu chứng minh tài liệu mà C cung cấp là chính xác thì hội đồng xét xử phải hủy bản án sơ thẩm để xé xử lại với thành phần hội đồng xét xử mới. Bởi vì: Theo quy định tại khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự thì tòa án cấp phúc thẩm có thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để xét xử lại: “2. Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định: a) không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị va giữ nguyên bản án sơ thẩm. b) sửa bản án sơ thẩm. c) hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại. d) hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.” Trong trường hợp này, hội đồng xét xử phúc thẩm phải hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo căn cứ tại điểm a khoản 2 Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự: thành phần hồi đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc đã có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. Ở đây là đã có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. Bởi vì thẩm phán tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm là người thân thích của A (người bị hại). Do đó, thẩm phán này phải được thay đổi theo quy định tại điều 42, 46 Bộ luật tố tụng hình sự. Nhưng tòa án cấp sơ thẩm đã không thay đổi thẩm phán. Tức là tòa án cấp sơ thẩm đã không thực hiện thủ tục phải thực hiện, ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án. Vì vậy, tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. 9. Giả sử chỉ có C kháng cáo bản án sơ thẩm, ngoài ra không còn có kháng cáo kháng nghị gì nào khác. Tại phiên tòa phúc thẩm, C rút toàn bộ kháng cáo của mình. Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết như thế nào nếu thấy bản án sơ thẩm đối với C là quá nhẹ? Tại sao? Trong trường hợp này, tòa án cấp phúc thẩm phải giải quyết theo trình tự sau: Thứ nhất, tòa án cấp phúc thẩm sẽ phải đình chỉ vụ án. Bởi vì: Theo quy định tại khoản 2 Điều 238 Bộ luật tố tụng hình sự thì “Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ”. Theo đề bài thì chỉ có C kháng cáo bản án sơ thẩm, ngoài ra không có kháng nghị nào khác. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm C rút toàn bộ kháng cáo của mình nên tòa án cấp phúc thẩm sẽ phải đình chỉ vụ án. Thứ hai, nếu thấy bản án cấp sơ thẩm là quá nhẹ so với bị cáo thì hội đồng xét xử phúc thẩm đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Khoản 2 Điều 238 cũng quy định: “Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm”. Vì vậy, bản án sơ thẩm đó đã có hiệu lực pháp luật. Mặt khác, bản án sơ thẩm đã có vi phạm pháp luật. Đó là việc áp dụng không đúng quy định của bộ luật hình sự đối với C, hình phạt trong bản án sơ thẩm đối với C là quá nhẹ. Mà theo quy định tại điều 274 thì trong trường hợp phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì viện kiểm sát, tòa án phải thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị theo quy định tại điều 175. 10. Nếu bản án phúc thẩm bị kháng nghị, Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án đó có thể sửa bản án này theo hướng tăng nặng hình phạt đối với C hay không nếu thấy yêu cầu của kháng nghị là có căn cứ? Tại sao? Nếu bản án phúc thẩm bị kháng nghị, tòa án có thẩm quyền xét lại bản án không thể sửa bản án này theo hướng tăng nặng hình phạt đối với C dù thấy yêu cầu kháng nghị là có căn cứ. Bởi vì: Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án phúc thẩm bị kháng nghị ở đây là hội đồng giám đốc thẩm. Điều 272 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lí vụ án”. Theo Điều 285 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thẩm quyền của Hội đồng Giám đốc thẩm thì “Hội đồng giám đốc thẩm có quyền ra quyết định: 1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; 2. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án; 3. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại”. Như vậy, có thể thấy hội đồng giám đốc thẩm không có quyền sửa lại bản án theo hướng tăng nặng đối với C. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì nhóm có đề xuất như sau: Ở đây nếu thấy yêu cầu của kháng nghị là có căn cứ thì hội đồng giám đốc thẩm có thể hủy bản án phúc thẩm đối với C để xét xử lại theo điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ ở đây là có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng bộ luật hình sự, vì cần phải tăng nặng hình phạt đối với C. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008. 2. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001. 3. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. 4. Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2003). 5. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2004/NQHĐTP ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của bộ luật tố tụng hình sự 2003. 6. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 04/2004/NQHĐTP ngày 05/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của bộ luật tố tụng hình sự 2003. 7. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 05/2005/NQHĐTP ngày 08/12/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của bộ luật tố tụng hình sự 2003. 8. Thông tư của Bộ Công an số 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 quy định chi tiết thi hành các quy định của bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 9. Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định của bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan