Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học 777 khái niệm ngôn ngữ học Nguyễn Thiện Giáp...

Tài liệu 777 khái niệm ngôn ngữ học Nguyễn Thiện Giáp

.PDF
336
94
58

Mô tả:

NGUYỄN HÙNG VĨ               NHỮNG KHẢO CỨU tõ VĂN hãa TRUYỀN THỐNG                       NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 2       MỤC LỤC   ™ "LĨNH NAM CHÍCH QUÁI" - TỪ ĐIỂM NHÌN VĂN HÓA..................................... 5 ™ “DI TÍCH ĐÀN Xà TẮC” CHÍNH LÀ NƠI THỜ HẬU TẮC, THỦY TỔ NHÀ CHU ........................................................................................ 25 ™ VỀ HAI LẦN LẬP Xà ĐÀN VÀ THỜ Xà THẦN DƯỚI ĐỜI VUA LÝ CÔNG UẨN ....................................................................... 34 ™ TẤM BIA "HOA LÂM TAM BẢO THỊ" (1656) THÊM MỘT TƯ LIỆU ĐÁNG TIN CẬY VỀ LÝ CÔNG UẨN VÀ VÙNG MAI LÂM ................................................ 40 ™ VẤN ĐỀ MỘ TỔ NHÀ LÝ - TÌM HIỂU LẠI QUA “THIỀN UYỂN TẬP ANH” ..... 52 ™ THÂN MẪU LÝ CÔNG UẨN LÀ NGƯỜI BẮC NINH ........................................ 64 ™ ĐỂ HIỂU RÕ HƠN BÀI “QUỐC TỘ” CỦA THIỀN SƯ PHÁP THUẬN .............. 71 ™ TRẦM TÍCH PHẬT GIÁO TRONG TRUYỆN HÀ Ô LÔI ................................... 86 ™ NHỮNG GHI CHÉP CHỮ NGHĨA KHI ĐỌC “QUỐC ÂM THI TẬP” CỦA NGUYỄN TRÃI (Phần 1) ....................................................................... 101 ™ NHỮNG GHI CHÉP CHỮ NGHĨA KHI ĐỌC "QUỐC ÂM THI TẬP" CỦA NGUYỄN TRÃI (Phần 2) ................................................................................ 154 ™ NGUYỄN TRÃI VÀ SEX................................................................................. 182 ™ XEM XÉT BỘ VÁN KHẮC “THIỀN UYỂN TẬP ANH” NĂM VĨNH THỊNH 11 (1715) ......................................................................... 195 ™ TRIỀU ĐẠI NHÀ ĐINH, TĂNG LỤC TRƯƠNG MA NI VÀ MA NI GIÁO............ 203 ™ HAI CHỮ QUAN HỌ TRONG THƯ TỊCH CŨ ................................................. 212 ™ HÁT QUAN HỌ - GIẢI THÍCH NGUỒN GỐC TỪ KÍ ỨC BẢN QUÁN ............ 220 ™ GỐC TÍCH MÂM NGŨ QUẢ NGÀY TẾT........................................................ 231 ™ ÔNG BA MƯƠI VÀ ĐÊM BA MƯƠI ................................................................ 235 ™ TÊN HIỆU ĐỨC THÁNH CHÈM VÀ THÁNH GIÓNG ..................................... 240   3 4 ™ CHỐN THỜ TỰ NÊN TRANG TRÍ LOẠI CHỮ GÌ? ......................................... 243 ™ “CON CÒ MÀ ĐI ĂN ĐÊM” NÓI NGƯỢC - NGỤ NGÔN - TRỮ TÌNH ............ 248 ™ VỀ BÀI THƠ “VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ” TRONG SÁCH GIÁO KHOA .......... 256 ™ KHẢO VỀ CHẰM VÀ TRẢI TRONG TIẾNG VIỆT CỔ QUA “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ” CỦA TRẦN NHÂN TÔNG ............................................................ 264 ™ QUAN SÁT CỘT ĐÁ CHÙA MỘT CỘT Ở NÚI DẠM...................................... 275 ™ TIẾP TỤC QUAN SÁT CỘT ĐÁ CHÙA DẠM ................................................. 288 ™ "LÁ TRÚC CHE NGANG MẶT CHỮ ĐIỀN".................................................... 296 ™ NHỮNG ĐIỀU CHƯA MẤY AI CHÚ Ý KỸ ...................................................... 296 ™ MANG THAI GIẢ QUA THƯ TỊCH CŨ ........................................................... 319 ™ KHÚC KHẢI HOÀN TRÊN ĐẤT THĂNG LONG............................................. 332     "LĨNH NAM CHÍCH QUÁI" TỪ ĐIỂM NHÌN VĂN HÓA Có  những  tác  phẩm  nghệ  thuật  mà  giá  trị  của  nó  vượt  ra  ngoài chất liệu,  vượt ra  ngoài  những  cấu  tạo  hình  thức,  vượt  ra  ngoài  những  quy  phạm  nghệ  thuật  đã  sáng  tạo  ra  nó.  Nó  như  một kết tinh đặc biệt của một văn hóa, của một thời đại lịch sử,  nó có một sứ mạng đặc biệt trong đời sống của một dân tộc, của  một  quốc  gia.  Hào  hùng,  thiêng  liêng  và  đầy  xúc  động  khi quốc  thiều vang lên, quốc kì tung bay, quốc huy hiển hiện. Mọi phân tích  về âm nhạc, về hội họa, về điêu khắc trước các tác phẩm đó đều  trở  nên  phiến  diện  và  nông  cạn.  Cho  dù,  chúng  ta  biết  rằng  đó  cũng  là  những  tác  phẩm  nghệ  thuật  do  con  người  sáng  tạo  ra.  Trong  tiến  trình  văn  học  Việt Nam, Lĩnh  Nam  chích  quái  cũng  là  một  tác  phẩm  nghệ  thuật  có  tính  chất  như  thế.  Tri  thức  về  cội  nguồn dân tộc đã trở thành như máu thịt trong ta, như khí trời ta  hít thở. Những biểu tượng Hồng Bàng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Bọc  trăm  trứng, Mười  tám  đời  các  vua  Hùng…  đã  trở  thành  vốn  văn  hóa  hiển  nhiên  của  nhiều  thế  hệ  nhân  dân  nước  Việt.  Tất  cả  những  điều  đó  có  trong  một  tác  phẩm  cội  nguồn  của  văn  chương: Lĩnh Nam chích quái. Tiếp cận nó, dù đứng dưới ngọn cờ  của bất cứ lí thuyết văn học nào cũng khó có thể hình dung được  ý nghĩa và giá trị của nó. Định vị nó trong tiến trình văn học, tiến  trình văn hóa của dân tộc luôn luôn là công việc của tương lai.   I. SỐ PHẬN Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, Lĩnh Nam chích  quái là  một  tác  phẩm  thiêng  liêng.  Các  bậc  đại  nho  tài  cao  học    5 rộng,  tràn  trề  tinh  thần  ái  quốc,  tấm  lòng  hiếu  cổ  (yêu  truyền  thống  văn  hóa  dân  tộc)  từ  Trần  Thế  Pháp  qua  Vũ  Quỳnh,  Kiều  Phú,  Đặng  Minh  Khiêm  đến  Đoàn  Vĩnh  Phúc,  và  sau  này  là  Lê  Quý Đôn, Phan Huy Chú… đều tiếp cận tác phẩm với một thái độ  thành  kính,  ngưỡng  vọng.  Số  phận  tác  phẩm Lĩnh  Nam  chích  quái dường như tương đồng với số phận của nền văn hóa Đại Việt,  nền  văn  hóa  dân  tộc:  thăng  trầm,  chìm  nổi,  đối  diện  với  những  thử thách sống còn của thiên tai nhân họa, nhưng vẫn mang trong  mình một sức sống mãnh liệt, một khả năng tạo sinh ghê gớm và  cuối cùng sẽ vĩnh viễn trường tồn với non sông đất nước này. Đọc  những dòng cảm thán của nhà sử học, nhà thơ Đặng Minh Khiêm  trong bài Tựa ở sách Vịnh sử thi tập của ông đề vào mùa xuân năm  Quang  Thiệu  thứ  5  (1520),  ta  phần  nào  hiểu  được  điều  đó:  “Vào  khoảng  năm  Hồng  Thuận,  tôi  vào  sử  quán,  trộm  có  ý  thuật  lại  chuyện  xưa,  hiềm  vì  sách  chứa  trong  Bí  thư  qua  nhiều  cơn  binh  hỏa,  đa  phần  mất  mát.  Chỉ  còn  thấy  có  sách Đại  Việt  sử  kí  toàn  thư của Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí của Phan Phu Tiên, Việt Điện u  linh tập lục của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế  Pháp mà thôi… ”.   Kho sách quý của triều đình mà năm thế kỉ thư tịch văn hiến  chỉ còn lại có vậy, thật xót xa. Văn chương vô mệnh lụy phần dư, câu  thơ sau này của thi hào Nguyễn Du đâu chỉ dành cho một trường  hợp  cụ  thể  nào,  nó  là  định  đề  cho  cả  số  phận  văn  chương  trung  đại phương Đông, trong đó có Việt Nam.   Nhưng  rồi  những  gì  may  mắn  sót  lại  qua  binh  hỏa  đã  có  một sức tạo sinh mãnh liệt, Lĩnh Nam chích quái được quốc sử dùng  làm tài liệu, được ghi chép, trùng bổ, khảo đính dưới các dạng lục,  tập,  liệt  truyện,  tân  đính,  ngoại  truyện,  phụ  bản một  thời  trung  đại,  được  biên  dịch,  khảo  sát,  nghiên  cứu  cho  đến  tận  ngày  nay.  Với  nhà nghiên cứu văn bản học tầm nguyên, Lĩnh Nam chích quái trở  thành  một  đối  tượng  kì  thú,  nhưng  cũng  đầy  rẫy  phức  tạp  và  6   khiếm khuyết. Nhưng với nhà nghiên cứu văn học, Lĩnh Nam chích  quái với sự phát triển phồn vinh không ngơi nghỉ của nó, qua các  dị  bản,  có  thể  nhìn  thấy  ở  đây  một  hiện  tượng  đầy  sức  sống  và  đầy  năng lực  trường  tồn.  Từ  một  cốt  lõi 22 truyện  (có xuất nhập  tên  truyện)  trong  văn  bản  cổ  truyền,  được  Vũ  Quỳnh,  Kiều  Phú  biên soạn lại, được Đoàn Vĩnh Phúc, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú  xác nhận, có khi Lĩnh Nam chích quái được tục biên đến con số gần  80 truyện trong khoảng 15 văn bản hiện còn. Cái lí do sâu xa nào  để tác phẩm không ngừng phát triển qua thời gian như vậy?  II. TƯ TƯỞNG Bất  luận  những  người  biên  soạn  đầu  tiên Lĩnh  Nam  chích  quái theo  một  triết  thuyết  tôn  giáo  hay  đạo  đức  xã  hội  nào.  Bất  luận những người sao chép, tăng bổ, bình luận sau này suốt thời  kì trung đại theo chính kiến nào, quy thức văn chương nào, thì tư  tưởng thống soái của họ khi xây dựng, tiếp cận tác phẩm này đó là  tư  tưởng  ÁI  QUỐC.  Trong  sự  tồn  tại  tổng  thể  của  nó, Lĩnh  Nam  chích  quái là  một  tượng  đài  kì  diệu  cho  tư  tưởng  ái  quốc.  Chính  điều này sẽ là kim chỉ nam cho mọi học giả, dù tiếp cận tác phẩm  dưới  bất  cứ  phương  pháp  khoa  học  ngữ  văn  nào,  thì  vẫn  phải  đứng ở tư cách, ở nhân cách một người ái quốc.   Trong  lời Tựa cho  việc  biên  soạn  của  mình,  Vũ  Quỳnh  từ  năm 1492 đã cho thấy: “Chính các bậc tài cao học rộng thời Lý –  Trần  khởi  thảo,  được  các  bậc  quân  tử  uyên  bác,  hiếu  cổ  đời  nay  nhuận  sắc  thêm”,  và  ông  cũng  nói  thêm  “đó  là  sử  trong  truyện  chăng?”. Lĩnh Nam chích quái ra đời như là sự kết tụ của tinh thần  độc lập dân tộc chặng đầu của kỉ nguyên Đại Việt hào hùng. Trải  qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, tư tưởng độc lập dân tộc được  khởi  phát  từ  khởi  nghĩa  Hai  Bà  Trưng  (thế  kỉ  I),  Bà  Triệu  (thế  kỉ  III) bắt đầu có thành quả bởi Lí Bôn (thế kỉ VI) và đã là hiện thực  lịch sử chắc chắn với Ngô Quyền (thế kỉ X), đất nước ta bước vào    7 kỉ  nguyên  Đại Việt với nhiệm  vụ xây  dựng  và  bảo  vệ vững  chắc  quốc gia  phong kiến  độc lập, lần lượt  chiến thắng  những thế  lực  xâm lược lớn nhất thời đại là Tống, Nguyên, Minh. Một đất nước  có văn hiến, một nhân dân tự ý thức được quyền độc lập dân tộc  đó là nhiệm vụ tư tưởng quan trọng bậc nhất của thời đại bấy giờ.  Thắng lợi của các cuộc kháng chiến và các cuộc khởi nghĩa vừa là  điều  kiện  vừa  là  hệ  quả  của  tư  tưởng  đó.  Không  có  lịch  sử  thì  không  có  dân  tộc.  Nói Lĩnh  Nam  chích  quái là  “sử  trong  truyện”  chính là bao hàm ý nghĩa đó.   Với 22 cốt truyện cơ bản, dù sắp xếp theo trình tự nào thì Lĩnh  Nam  chích  quái cũng  trình  diễn  trước  chúng  ta  ý  thức  về  truyền  thống  lịch  sử  riêng  của  đất  nước  từ  buổi  hồng  hoang  đến  những  câu  chuyện  xảy  ra  ở  thời  đại  nhà  Trần.  Sau  này,  các  bậc  túc  nho  giàu nhiệt huyết có bổ sung thêm bao nhiêu đi nữa thì vẫn theo tư  tưởng đó: đây là những câu chuyện được truyền ở cõi Lĩnh Nam,  khác với Trung Hoa. Họ không thôi khẳng định một nền văn hiến  của một dân tộc độc lập như Nguyễn Trãi từng nói trong Bình Ngô  đại cáo: Sơn xuyên chi phong vực kí thù, Bắc Nam chi phong tục diệc dị.  Nói lại: Một tượng đài tinh thần thiêng liêng và kì diệu, đó là Lĩnh  Nam chích quái. Không dễ gì để lí giải tường tận nó.   III. CẤU TẠO Với 15 văn bản Lĩnh Nam chích quái đến nay còn lưu giữ được  và  được  giới  thiệu  trong  những  chuyên  luận,  báo  cáo,  luận  văn  khoa  học  thì  có  một  bộ  phận  khá  ổn  định  được  thừa  nhận  là  có  sớm  gồm  22  truyện,  gần  với  văn  bản  khởi  nguyên  hơn  cả.  Dù  ở  các  ghi  chép  khác  nhau,  thứ  tự,  tên  truyện,  có  xuất  nhập  chút  ít  nhưng bớt đi những tiểu dị, dựa vào cái đại đồng, chúng ta có một  trình tự đại để văn bản như sau:  ‐  Quyển  1  gồm:  1) Truyện  Hồng  Bàng;  2) Truyện  Ngư  tinh;  3) Truyện Hồ tinh; 4) Truyện Mộc tinh; 5) Truyện Trầu cau; 6) Truyện  8   Nhất Dạ Trạch; 7) Truyện Đổng Thiên Vương; 8) Truyện Bánh chưng;  9) Truyện Dưa hấu; 10) Truyện Bạch trĩ.   ‐ Quyển 2 gồm: 1) Truyện Lý Ông Trọng; 2) Truyện Giếng Việt;  3) Truyện  Rùa  Vàng;  4) Truyện  Man  Nương;  5) Truyện  Nam  Chiếu;  6) Truyện thần sông Tô Lịch; 7) Truyện thần núi Tản Viên; 8) Truyện hai  vị thần Long Nhãn – Như Nguyệt (hoặc Truyện Hai Bà Trưng thay cho  truyện  này);  9) Truyện  Từ  Đạo  Hạnh;  10) Truyện  Dương  Không  Lộ  ‐  Nguyễn Giác Hải; 11) Truyện Hà Ô Lôi; 12) Truyện Dạ Thoa Vương.   Với  một  trình  tự  chung  như  vậy,  không  khó  gì  chúng  ta  phát  hiện  được  ý  đồ  lịch  sử  chung  của  những  người  làm  sách:  sắp xếp về cơ bản theo trình tự thời gian: những chuyện đầu là  thời tiền sử, những chuyện sau cùng thuộc về thời Trần. Nhưng  không  nhất  quán  cho  tất  cả.  Truyện  thần  núi  Tản  Viên lại  đứng  tận thứ 17 sau những truyện khác ở thời Bắc thuộc. Truyện Rùa  Vàng lại sau Truyện Lý Ông Trọng… Một kiểu cấu trúc ngầm ẩn  nào  chăng?  Ta  chưa  tường  được.  Trong  điều  kiện  hiện  nay,  đành  tạm  cho  rằng,  quá  trình  các  bản  sưu  tập  cho  đến  Vũ  Quỳnh, Kiều Phú đã có sự xáo trộn nào đó nhất định và từ đó,  các  nhà  biên  soạn  tiếp  theo  cứ  tôn  trọng  bản  cổ  hơn  mà  làm.  Tuy  nhiên,  cũng  trừ  đi  những  phần  xáo  trộn  ít  ỏi  đó,  nếu  ta  nhìn theo cách nhìn dân gian, đặc biệt với quyển một, Lĩnh Nam  chích  quái không  khỏi  gợi  ý  cho  chúng  ta  một  cấu  trúc  quen  thuộc của thần thoại hoặc sử thi dân gian cổ đại:  ‐ Chủ đề Khởi nguyên: Truyện họ Hồng Bàng.   ‐ Chủ đề Chinh phục tự nhiên, ổn định địa bàn quốc gia cổ  đại: Truyện Ngư tinh, Truyện Hồ tinh, Truyện Mộc tinh.   ‐  Chủ  đề  Sự  ra  đời  của  hôn  nhân: Truyện  Trầu  cau,  Truyện  Nhất Dạ Trạch.   ‐ Chủ đề Chiến tranh bộ lạc (biến thái thành chiến tranh dân  tộc): Truyện Đổng Thiên Vương.     9 ‐ Chủ đề Sự ra đời của văn hóa vật chất: Truyện Bánh chưng,  Truyện Dưa hấu, Truyện Bạch trĩ.   Chúng  ta  biết,  các  tác  giả Lĩnh  Nam  chích  quái chưa  phải  là  những nhà văn học dân gian hiện đại, nhưng vang bóng của một cấu  trúc thông thường của sử thi thần thoại có trong đó không thể không  khiến  ta  quan  tâm.  Đó  là  một  cấu  trúc,  dù  còn  có  chỗ  xộc  xệch,  nhưng rõ ràng là có mô hình và có chủ ý. Nếu so sánh với Việt điện u  linh có  cấu  trúc  ba  phần  là Lịch  đại  nhân  quân (vua  các  đời), Lịch  đại  phụ thần (bầy tôi các đời) và Hạo khí anh linh (sự tích linh thiêng) thì ta  thấy  rõ  ràng,  về  cấu  trúc, Lĩnh  Nam  chích  quái đã  hướng  hẳn  về  cội  nguồn dân tộc, về phía nhân dân và văn hóa bản địa.   IV. NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT Như  đã  nói,  càng  ngắm  kĩ,  ta  càng  thấy Lĩnh  Nam  chích  quái là  một  tượng  đài  tinh  thần  cổ  kính  vừa  thiêng  liêng  vừa  kì  diệu.  Đó  là  một  kì  quan  văn  hóa  kết  tụ  qua  thăng  trầm  của  một  lịch  sử  phức  tạp  nhưng  đầy  quyết  tâm  cho  độc  lập  dân  tộc,  cho  văn hiến bản địa. Nó là văn xuôi nhưng không chỉ là nghệ thuật  ngôn  từ,  nó  là  tự  sự  nhưng  đâu  chỉ  là  các  thiên  truyện  cổ.  Đó  là  một khối đa diện  chứa đựng những yếu  tố  vừa hiện thực vừa kì  ảo và mãi mãi kêu gọi chúng ta tiếp cận, lí giải. Trước nó, không  chỉ  người  nay  mà  người  xưa  đã  từng  không  khỏi  băn  khoăn.  Sử  thần  Ngô  Sĩ  Liên  khi  bàn  về  kỉ Hồng  Bàng  thị trong Đại  Việt  sử  kí  toàn thư (cũng tương tự Truyện Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích  quái) nói: “Trong buổi trời đất mới mở mang, có người do khí hóa  ra rồi mới có hình hóa, đều là hai khí âm và dương cả. Kinh Dịch  nói: “Trời đất hợp khí, vạn vật hóa thần, đực cái hợp tinh, vạn vật  hóa sinh”… Nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra nhà Thương,  giẫm  vết  chân  khổng  lồ  mà  dấy  lên  nhà Chu,  đều  là  ghi  sự  thực  như thế. Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên  mà  sinh  ra  Kinh  Dương  Vương,  tức  là  thủy  tổ  Bách  Việt.  Vương  10    lấy con gái Thần Long mà sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân  lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh ra trăm con trai. Đó chẳng  là  cái  đã  gây  nên  cơ  nghiệp  của  nước  Việt  ta  hay  sao?  Xét  sách  Thông giảm ngoại kỉ nói: Đế Lai là con Đế Nghi, cứ theo sự ghi chép  ấy  thì  Kinh Dương  Vương là em ruột Đế  Nghi,  thế  mà có sự  kết  hôn với  nhau, có lẽ  vì đời ấy còn hoang sơ,  lễ nhạc  chưa đặt mà  như thế chăng?”.   Vũ Quỳnh thì biện luận: “Sự việc tuy kì quái mà không đến  nỗi nhảm nhí, nhân vật tuy kì lạ mà không trở thành yêu tinh”.   Đoàn Vĩnh Phúc khuyên: “Chớ vì Khổng Tử nói mà đâm ra  hiểu nhầm”.   Thái độ người xưa trước Lĩnh Nam chích quái khiến chúng ta  phải suy nghĩ. Rõ ràng, họ là những nhà nho tài cao học rộng, họ  theo lời Khổng Tử: “Bất ngữ quái lực loạn thần”. Tuy nhiên, họ đã  vượt  qua  chính  kiến,  một  lòng  tôn  trọng  cổ  nhân,  lưu  giữ  cho  chúng  ta  những  chi  tiết  quý  giá  đến  tận  ngày  nay.  Nếu  cứ  khác  chính kiến là đập bỏ thì tương lai còn biết bấu víu vào đâu?!  Về  mặt  nội  dung, Lĩnh  Nam  chích  quái,  trên  mặt  bằng  tự  sự,  với những nhân vật, cốt truyện, mối quan hệ, các chi tiết, tác phẩm  trình  diễn  trước  chúng  ta  một  nội  dung  hiển  minh  không  lấy  gì  làm khó hiểu. Thậm chí, có thể đánh giá nó như một loại tự sự sơ  khai  và đơn  giản, một loại văn  xuôi  mở  màn  cho văn xuôi  trung  đại.  Trình  bày  nội  dung  hiển  minh  này  ra,  dẫu  chúng  ta  có  xem  xét kĩ hơn theo lí thuyết thể loại này nọ, xưa nay, thì thật cũng khó  qua khỏi những đánh giá súc tích cách đây hơn năm trăm năm của  Vũ Quỳnh, người có công đầu phát hiện và biên soạn lại nó: “Quế  Hải  tuy  nằm  ở  Lĩnh  ngoại,  nhưng  sông  núi  kì  lạ,  đất  đai  linh  thiêng, người hào kiệt, vật tinh hoa thường vẫn có. Từ thời Xuân  Thu,  Chiến  Quốc  trở  về  trước  cách  thời  cổ  chưa  xa,  phong  tục  phương Nam còn  giản  dị,  chưa  có  sử  sách  để  ghi  chép,  nhiều  chuyện do đó bị mất đi. Truyện nào may mà còn được, ấy là nhờ    11  nhân dân truyền khẩu. Từ Lưỡng Hán, Tam Quốc, Đông Tây Tấn,  Nam Bắc triều đến Đường, Tống, Nguyên mới có sử truyện để ghi  chép các việc…, sự tích có thể kê cứu rõ ràng. Nhưng nước Việt ta  vốn  là  miền  đất  hoang  thời  cổ  nên  ghi  chép  vẫn  còn  sơ  lược.  Người Việt ta dựng nước từ thuở Hùng Vương, văn minh dần qua  các đời Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, đến nay đã bắt đầu kết tụ,  cho  nên  quốc  sử  ghi  chép  đặc  biệt  tường  tận.  Thế  thì  tập  truyện  này làm ra, có lẽ là sử trong truyện chăng? Không biết sách soạn  vào thời nào, do ai hoàn thành? Người khởi thảo là các nhà nho tài  cao học rộng thời Lý – Trần, còn nhuận sắc thì do các bậc quân tử  hiếu nhã bác cổ ngày nay. Ngu tôi sau đây xin lần lượt khảo sát và  trình bày đầu đuôi các truyện, đồng thời nêu lên ý tưởng của tác  giả. Như Truyện Hồng Bàng nói rõ quá trình khai sáng nước Hoàng  Việt; Truyện  Dạ  Thoa  Vương tóm  lược  sự  manh  nha  của  Chiêm  thành; Truyện Chim Trĩ trắng là để chép về họ Việt Thường; Truyện  Rùa  Vàng là  để  viết  sự  tích  An  Dương  Vương.  Theo  phong  tục  phương Nam, đồ sính lễ không gì quan trọng bằng trầu cau; đưa  ra  biểu  dương  cùng  là  nhằm  làm  cho  nghĩa  vợ  chồng,  tình  cảm  anh  em  được  tỏ  rõ.  Vào  mùa  hè,  hoa  quả  phương Nam không  gì  quý bằng quả dưa hấu; nêu lên để nói, là nhằm phê phán thái độ  cậy  vào  mình  mà  coi  thường  ơn  chúa.  Truyện  Bánh  chưng ngợi  khen  lòng  hiếu  thảo;  Truyện  Ô  Lôi răn  dạy  thói  dâm  bôn.  Đổng  Thiên  Vương  phá  giặc  Ân,  Lý  Ông  Trọng  diệt  Hung  Nô,  qua  đó  biết nước Nam có người tài giỏi. Chử Đồng Tử tình cờ mà lấy Tiên  Dung, Thôi Vĩ không hẹn mà gặp tiên khách, qua đó thấy âm đức  của việc thiện. Truyện Đạo Hạnh, Không Lộ đáng khích lệ ở chỗ báo  được  thù  cha,  mà  sự  tích  hai  vị  thiền  sư  qua  đó  cũng  không  thể  nào mai một. Truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh đáng ngợi khen ở chỗ trừ  được  yêu  quái,  mà  ân  đức  của  Long  Vương  qua  đó  cũng  không  thể nào quên. Hai vị họ Trương sống trung nghĩa, chết thành thổ  thần, nêu lên để biểu dương, ai bảo là không được? Thần Tản Viên  linh thiêng, có khả năng diệt loại thủy tộc, làm rõ để soi sáng, ai  12    nói  là  không  phải?  Còn  như  Nam  Chiếu  là  con  cháu  Triệu  Vũ,  nước  mắt mà có thể phục  thù; Man Nương là mẹ  Mộc Phật  năm  hạn có thể làm mưa; Tô Lịch là thần đất Long Đỗ; Xương Cuồng là  tinh cây chiên đàn; một đằng thì lập đền miếu để thờ cúng, khiến  dân được hưởng phúc, một đằng thì dùng phép thuật để diệt trừ,  khiến  dân  khỏi  tai  họa,  sự  việc  tuy  kì  quái  mà  không  đến  nỗi  nhảm nhí, nhân vật tuy khác lạ mà không trở thành yêu tinh; câu  chuyện  tuy  hoang  đường,  có  vẻ  không  chính  đáng,  nhưng  dấu  tích vẫn còn đó, khả dĩ làm bằng chứng được. Chung quy, tất cả  đều  nhằm  khuyến  khích  việc  thiện,  răn  đe  điều  ác,  từ  bỏ  sự  giả  dối,  tìm  đến  cái  chân  thực,  cốt  khích  lệ  phong  tục  mà  thôi!  So  với Sưu thần kí đời Tấn và Địa quái lục đời Đường cũng cùng một  tính chất.   Ôi!  Việc  lạ  ở  Lĩnh Nam nhiều  lắm!  Các  câu  chuyện  xảy  ra  không  chờ  khắc  vào đá,  in vào sách mà  đã  gắn  ghi  vào  lòng  dân,  lưu truyền bia miệng; từ em bé đầu xanh đến cụ già đầu bạc đều ca  tụng  hoặc  mến  mộ,  hoặc  lấy  đó  làm  răn.  Thế  thì  chúng  cũng  liên  quan đến cương thường, mở mang phong hóa đâu phải là ít!...”.   Trích dẫn tuy hơi dài, nhưng là điều không thể không làm vì  đoạn văn đạt đến độ mẫu mực kinh điển của phê bình tác phẩm ở  một  bậc  đại  nho;  vì  sự  gần  gũi  của  nó  với  hôm  nay,  nếu  ta  đọc  theo nghĩa hiển minh mà các truyện muốn trình diễn.   Trên mặt bằng kĩ thuật tự sự, ta thấy các truyện có một cấu  trúc khá đồng dạng theo kiểu Chí quái, một thể loại văn học Trung  Hoa thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, thi thoảng có truyện viết theo  kiểu Truyền kì, một thể loại thịnh hành thời Đường.   Câu chuyện kết cấu theo mạch thẳng của trình tự thời gian,  thường bắt đầu giới thiệu thời điểm sự kiện từng bắt đầu xảy ra.  Lai lịch của nhân vật được trình bày rõ ràng, sáng sủa ngắn gọn.  Tiếp tục là diễn biến cốt truyện theo hành trạng và các mối quan  hệ, các sự kiện, chi tiết của nhân vật chính. Kết thúc truyện nhằm    13  giải  thích  một  hiện  tượng,  một  hoạt  động  thờ  cúng,  một  tập  tục  hay  một  dấu  tích  để  lại,  một  sự  ghi  nhận  phong  tặng  của  triều  đình,  một  hành  vi  âm  phù.  Phần  kết  thường  bắt  đầu  từ  hai  chữ  “Từ  đấy…” như  kết  thúc  của  truyện  cổ  dân  gian.  Nói  chung,  cốt  truyện,  cấu  tạo  truyện  đã  tự  do  hơn  nhiều  so  với Việt  điện  u  linh  của Lý Tế Xuyên. Điều đáng lạ là dù truyện mang tên là Lĩnh Nam  chích  quái (Sưu  tập,  lượm  lặt  những  sự  lạ  trong  cõi  Lĩnh  Nam)  song hành trình truyện dường như không lấy cái kì ảo cái quái dị  hay kinh dị làm mục tiêu mà một ý đồ rõ ràng trái lại: mọi yếu tố  được coi là quái lại được trình bày minh bạch và duy lí. Tất cả đều  sáng  sủa,  rõ  ràng.  Nếu  ai  muốn  chờ  đợi  ở  đây  một  thế  giới  như  Chí  quái thời  Ngụy  Tấn  Nam  Bắc  triều, truyền  kì đời  Đường,  Liêu  trai chí dị đời Thanh thì sẽ thất vọng. Truyện đọc dễ hiểu. Mọi chi  tiết  đều  sắp  xếp  có  logic  giữa  nguyên  nhân  và  kết  quả,  thật  đơn  giản  và  mạch  lạc,  không  hướng  đến  cái kì như  một  mục  đích  tự  thân. Nó là sử trong truyện, là sử hóa các thần thoại và truyền thuyết  dân gian. Với những người được đào tạo theo lí thuyết tự sự châu  Âu, sẽ không có ai sau khi đọc Lĩnh Nam chích quái mà lại kêu lên  rằng là truyện khó hiểu.   Vậy  thì  kiểu  tự  sự  nào  khiến  các  thế  hệ  tri  thức  trung  đại  ngưỡng  vọng  nó  và  khiến chúng  ta không  khỏi  băn khoăn.  Một  vài  tranh  luận  rằng  đó  là  một  tác  phẩm  sáng  tạo  của  văn  học  thành văn, rằng đó thuần túy là một sưu tập dân gian; rằng đó là  một  loại  hình  đặc  biệt  của  truyện  cổ  tích  bác  học  kiểu  như  của  Puskin  hay  Anđecxen  ở  châu  Âu,  liệu  làm  chúng  ta  hài  lòng  chưa? Cái đặc sắc của Lĩnh Nam chích quái, tầm quan trọng của nó  nằm ở đâu?  Chúng  ta  sẽ  bắt  đầu  bằng  những  định  đề  tưởng  như  bình  thường nhưng hết sức quan trọng: Dân tộc và quốc gia là hai phạm  trù lịch sử, hai phạm trù văn hóa. Nó nảy sinh trong lịch sử như  kết  quả  phát  triển  lâu  dài  của  nhân  loại  cả  ở  phương  diện  thực  14    tiễn, cả về phương diện tinh thần. Đến bây giờ, ta có thể vững tin  ở sự tồn tại lâu bền của nó cùng nhân loại  tương lai.  Không một  nhà  văn  hóa  nào  lại  tưởng  tượng  được  không  gian  văn  hóa  dân  tộc, không gian văn hóa quốc gia một ngày nào đó sẽ mất đi. Sự  mất đi của nó sẽ đồng nghĩa với sự tàn lụi của bản sắc văn hóa ở  cấp cộng đồng cơ bản nhất. Là một phạm trù lịch sử, tư tưởng độc  lập của dân  tộc,  tư  tưởng ái  quốc cũng  hình thành dần  theo  thời  gian và không ngừng được thức nhận ngày càng sâu sắc, được bồi  đắp ngày càng phong phú ngay cả trong thời đại hiện nay. Chặng  đầu của kỉ nguyên Đại Việt chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc  của  những  tư  tưởng  đó.  Cùng  với Việt  điện  u  linh,  Đại  Việt  sử  kí  toàn  thư,  Lĩnh  Nam  chích  quái là  một  tượng  đài  tinh  thần  của  độc  lập  dân  tộc  và  nó  mang  tầm  quan  trọng  của  một  tác  phẩm  khởi  nguyên có giá trị tổng kết lịch sử sâu sắc, và tự phát sáng giá trị  của mình. Để hiểu về nó, chúng ta hãy tự đặt mình với tư cách là  một trí thức ái quốc trong thực tế lịch sử buổi đầu Đại Việt. Hãy  bắt đầu từ Truyện họ Hồng Bàng.   “Hồng – Bàng – Thị”, ba chữ đó đối với chúng ta ngày nay  quen thuộc và hiển nhiên như một danh từ riêng chỉ về một thời  đại  đầu  tiên,  thời  đại  cội  nguồn  của  dân  tộc  Việt Nam.  Một  lúc  nào  đó,  chợt  chúng  ta  tự  hỏi  đó  là  gì  nhỉ?  Ai  phát  hiện  ra  nó?  Hồng chữ  Hán  so  nghĩa  là  to  lớn,  cũng  có  nghĩa  là  trận  lụt  lớn  bao trùm toàn cầu, đồng nghĩa với hồng thủy (theo Hán – Việt tự  điển của  Thiều  Chửu).  Bàng chữ  Hán  có  nghĩa  là  to  lớn  mênh  mông, rộng trùm vũ trụ. Đồng âm với những chữ Bàng chỉ mưa  to lụt lớn. Điều gì đã xảy ra khi hai chữ Hồng và Bàng này kết hợp  lại  để  chỉ  thời  kì  khởi  nguyên  của  dân  tộc.  Không  gì  khác  hơn  đó  chính  là  biểu  tượng  thần  thoại  phổ  biến  toàn  thế  giới:  Vũ  trụ  Khaox: Vũ trụ khởi nguyên mênh mông mù mịt và hỗn mang, bắt  đầu của mọi bắt đầu. Ở các cộng đồng khác nhau trên thế giới, ở  các cộng đồng khác nhau trong khối Bách Việt, phía nam Dương  Tử,  đều  có  biểu  tượng  này,  nằm  dưới  cách  diễn  đạt  vừa  trực    15  quan sinh động vừa khái quát. Mọi thần thoại đều hướng về hỗn  mang  theo  tư  duy  suy  nguyên.  Mọi  lịch  sử  đều  bắt  đầu  bằng  thần  thoại.  Trước  mắt  các  trí  thức  Lý  –  Trần  là  kho  tàng  thần  thoại phong phú của miền Lĩnh ngoại khác Hán. Trong tim họ là  tấm  lòng  yêu  nước  thiết  tha.  Trong  óc  họ  là  yêu  cầu  khái  quát  lịch  sử.  Trong  tay  họ  lúc  đó  là  những  quy  thức  từ  chương  học  chữ  Hán. Một phát kiến không thể súc tích hơn:  ba  chữ  Hồng  –  Bàng  –  Thị.  Nó  tích  lũy  như  một  symbol,  một  biểu  tượng,  một  phù  hiệu  cao  quý  mãi  mãi  theo  trang  trọng  đầu  nguồn  lịch  sử  dân tộc, mà không một thế lực nào từ đó có thể hạ xuống. Trong  lòng  nó,  tích  lũy  cả  một  kho  tàng  thần  thoại.  Nó  chính  là  phát  kiến của Đại Việt, dù là được viết bằng chữ Hán nhưng tuyệt đối  là khác Trung Hoa. Một khẩu hiệu vĩnh hằng về độc lập dân tộc.  Phát  kiến  này  đã  đưa  thẳng  Đại  Việt  thành  một  quốc  gia  bình  đẳng  với  các  quốc  gia  khác  trong  khu  vực  lúc  đó.  Hồ  Chủ  tịch  cũng nói: “Hồng Bàng là Tổ nước ta”.   Điều  đáng  nói  ở  đây  là,  ba  chữ Hồng  Bàng  thị chắc  chắn  không  phải  là  một  phát  ngôn  tự  sự  thông  thường  ở  cấp  độ  từ  vựng.  Đây  là  một  kiểu  tự  sự  khác, tự  sự  trầm  tích,  tự  sự  ẩn  dụ.  Nhận xét nó đơn giản như một tên truyện là một nhận xét thô sơ.  Hãy  đặt  nó  trong  một  hệ  thần  thoại  Mường,  Thái,  Kinh,  Tày  và  thậm chí là Ê đê, Gia rai, Mơ nông,… thì sẽ thấy rằng, nó đang tự  sự với chúng ta những thông tin trầm tích cực kì quan trọng. Và ta  hãy thử tiếp tục đọc kiểu tự sự này.   Từ  đầu,  truyện cho hay: Cháu ba đời  của Viêm đế  họ  Thần  Nông  là  Đế  Minh  sinh  ra  Đế  Nghi,  sau  Đế  Minh  nhân  đi  tuần  phương  Nam  lấy  con  gái  Vụ  Tiên  sinh  ra  Kinh  Dương  Vương.  Kinh  Dương  Vương  tài  trí  thông  minh  được  Đế  Minh  yêu  mến  định trao ngôi báu nhưng vua không nhận, nhường nước cho anh  là  Đế  Nghi.  Đế  Minh  phong  cho  Kinh  Dương  Vương  làm  vua  phương Nam, nước gọi là nước Xích Quỷ.   16    Chúng  ta  tạm  dừng  ở  đây  để  xem  đoạn  văn  thông  báo  những  nội  dung  trầm  tích  nào.  Bắt  đầu  từ  Thần  Nông  Viêm  Đế.  Thần Nông là tên chòm sao phương Nam của địa cầu. Trong Ngũ  đế Trung Hoa, Thần Nông là đế phương Nam. Thần Nông còn có  đế  hiệu  là  Viêm  Đế,  với  nghĩa  là  đế  ở  xứ  nóng,  xứ  Mặt  trời.  Cội  nguồn dân tộc ta là ở phương Nam, xứ nóng, chúng ta là con cháu  Mặt  trời.  Lại  một  tích  hợp  thần  thoại  khởi  nguyên  của  cư  dân  phương  Nam.  Người  phương Nam nghĩ  gì  khi  khắc  khuôn  mặt  trống đồng trên bàn xoay: bắt đầu bằng mặt trời và cuộc sống sẽ  xoay quanh, sẽ lan tỏa từ mặt trời. Sử thi Mường, Thái kể sau buổi  hồng hoang sẽ là gì nếu không là sự ra đời của trời, đất, mặt trời,  mặt trăng. Nếu người Việt nói “Vua mặt trời”, người Mường nói  “Mặt trời mặt sáng” thì kí tự chữ Hán sẽ là gì nếu không lựa chọn  Viêm  Đế  ‐  Thần  Nông.  Lại  một  sự  lựa  chọn  biểu  tượng  nữa.  Chúng ta vốn dân phương Nam, ở đó có Bách Việt mà hai Việt đại  biểu trong đó là Việt của Đế Nghi (Bắc của phương Nam) và Việt  của  Kinh  Dương  Vương  (Nam  của  phương Nam).  Kinh  Dương  Vương là vua của đất Kinh đất Dương vùng hồ Động Đình. Vấn  đề Đông Nam Á phía Nam sông Dương Tử không chỉ bây giờ mới  có  mà  các  bậc  túc  nho  đầu  thời  Đại  Việt  đã  từng  đặt  ra.  Chỉ  có  điều  họ  kí  tải  một  cách  súc  tích  dưới  dạng  biểu  tượng  mà  thôi.  Dòng dõi Mặt Trời sẽ sản sinh Mặt Trời. Đế Minh: vị đế của ánh  sáng không gì khác hơn là một phân thân của Mặt Trời. Trong một  văn  hóa,  ở  cấp  độ  biểu  tượng  hoa  văn  hình  học,  mặt  trời  tồn  tại  dưới nhiều hình vẽ khác nhau thì trong ngôn ngữ (hiện thực trực  tiếp  của  tư  duy)  cũng  vậy  (hiện  tượng  đồng  nghĩa  thường  thấy  trong bất cứ ngôn ngữ nào). Đế Minh cũng là Mặt Trời. Đế Minh  lấy Vụ Tiên mà sinh ra Kinh Dương Vương. Vụ Tiên là tên chòm  sao  vẫn  gọi  là  sao  Vụ  Nữ  nằm  ngay  đỉnh  bầu  trời  Bắc  Bộ  Việt Nam.  Vua  lấy  Sao  để  sản  sinh  ra  các  bậc  kế  nghiệp.  Ta  hãy  thử so sánh với sử thi thần thoại người Mường Đẻ đất đẻ nước thì  thấy sự trùng hợp lạ lùng. Đó là các chương về lang Cun Cần lấy    17  vợ. Là Lang nên Cun Cần có quyền lấy nhiều vợ. Đầu tiên là nàng  Đất nhưng  rồi  đất  lại  thành  đất,  lần  hai  là nàng  Nước nhưng  rồi  nước  thành  sương  mù,  lần  ba  (quá  tam  ba  bận)  là nàng  Sao  ả  Sáng ở tận Mường Trời mới sinh ra Lang Cun Khương nối nghiệp  trị vì. Sau đó lang lấy em gái là Dạ Kịt (loạn luân) sinh ra sâu bọ,  muỗi  vắt.  Lại  lấy  nàng  ử  Tuội  Vạn  sinh  ra  đứa  ăn  người  làm,  cuông nhốc. Lần nữa, ta lại thấy một thần thoại Việt ‐ Mường khác  Hán, được tích lũy dưới dạng biểu tượng súc tích. Tên riêng đâu  chỉ  là  tên  riêng  của  sự  thông  thường.  Hôn  nhân  Đế  Minh  –  Vụ  Tiên sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, con của  Đế Lai là chú lấy cháu. Một vụ án loạn luân trong sử kí trung đại  Việt Nam không ngừng được dị nghị. Song đây cũng là một biểu  tượng  thần  thoại,  phổ  biến  thế  giới  và  phổ  biến  vùng  Bách  Việt,  mà sử thi Mường cũng như truyện Quả bầu mẹ phổ biến vùng này  là  một  minh  chứng.  Trong  sự  hồ  nghi  của  tư  tưởng  Nho  giáo,  chúng ta  lại gặp một  kiểu phản  ánh ẩn dụ  của câu chuyện. Cuối  cùng là bọc trăm trứng, một biểu tượng quen thuộc như quả bầu  (Thái), trứng chim (Mường), bọc thịt (Mèo) sản sinh ra con người.  Chưa  kể  tên  riêng  Lạc  Long  Quân  (Rắn,  Vua  Khú  của  người  Mường), Âu Cơ (chim của Mường, tôtem trên trống đồng) v.v… ta  thấy lại trong một tự sự ngắn gọn, rất ít chữ, hàm chứa trong đó  một kho tàng thần thoại phương Nam phong phú. Câu chuyện đã  vượt hẳn khỏi lí thuyết tự sự thông thường. Không một quy thức  tự sự nào lại thúc bách người sáng tạo văn chương phải dồn nén  đến  nhường  vậy.  Trong  một  dung  lượng  chật  hẹp  số  chữ,  tầng  tầng  lớp  lớp  những  biểu  tượng  thần  thoại,  biểu  tượng  văn  hóa.  Nếu  xếp  thể  loại  cho  câu  chuyện  này,  mọi  lí  lẽ  sẽ  có  nguy  cơ  phiến  diện,  thô  sơ.  Tác  giả  không  chỉ  là  người  sáng  tác  nghệ  thuật  ngôn  từ.  Trường  hợp  đặc  biệt  của  lịch  sử  biến  họ  thành  những người luyện đan. Sản phẩm của họ sẽ trường tồn và luôn  luôn  kêu  gọi  sự  khám  phá  vì  trong  đó  còn  nhiều  quy  luật  sáng  tạo chưa được phát hiện.   18    Đưa  ra  một  truyện  là  để  minh  họa,  nhưng  không  chỉ  một  Hồng  Bàng  thị mà  thôi.  Ta  thử  tiếp  cận  một  truyện  ở  quyển  II:  Truyện  thần  núi  Tản  Viên.  Câu  chuyện  là  sự  tích  hợp  cả  một  hệ  thống  thần  thoại,  truyện  cổ  tích,  truyền  thuyết  trên  một  địa  bàn  văn hóa rộng lớn xung quanh núi Tản Viên, Tam Đảo, Hi Cương.  Những sưu tầm hồi cố  văn học dân gian  trên  các tỉnh Vĩnh Phú,  Hà Tây, Hòa Bình trước đây cho ta sự phong phú kì lạ của các dị  bản,  biến  thể  câu chuyện  này.  Ngay  theo  dõi  các  dị  bản  của Lĩnh  Nam chích quái cũng cho ta thấy điều đó. Có hai cốt lõi thần thoại  chủ yếu của câu chuyện: thần thoại về thần núi Ba Vì và thần thoại  giải  thích  nạn  lụt  định  kì  trên  không  gian  vùng  quanh  chân  núi.  Người Mường, cư dân chủ thể vùng chân núi Ba Vì trước đây, dù  cho  đã  di  chuyển  đi  các  nơi  vẫn  thường  nhờ  thần  Tản  Viên  làm  Thành hoàng. Giáo sư Nguyễn Từ Chi, nhà nghiên cứu Mường số  một của Việt Nam, qua thời kì lâu dài điều tra dân tộc học, cung  cấp cho chúng ta hai cốt truyện cơ bản:  ‐  Cốt  truyện  giải  thích  nạn  lũ  lụt  định  kì:  Bên  cạnh  thế  giới  Đất  (Mường  Bằng)  của  người  ở,  có  thế  giới  Nước  của  Long  Vương. Long  Vương  (còn gọi là Vua Khú) là  một  loại rắn  lớn  có  mào đỏ. Tuy là hai thế giới nhưng vẫn có quan hệ giao lưu. Công  tử con Vua Khú thường biến thành các chàng trai tuấn tú lên hỏi  vợ  ở  Mường  Bằng.  Mỗi  năm  một  lần,  mỗi  khi  đưa  đồ  sính  lễ  là  dâng nước lên tận sàn nhà của dân. Có nạn lụt là vì thế.   ‐  Cốt  truyện  trực  tiếp  liên  quan  đến  Thành  hoàng  là  Tản  Viên:  Tản  Viên  là  con  Bố  Trượng  (một  nhân  vật  làm  nhiệm  vụ  cúng  vía,  chữa  bệnh  trong  xã  hội  Mường  trước  đây).  Bố  Trượng  xuống Long cung chữa bệnh cho Vua Khú. Chữa được bệnh, được  Vua Khú tặng con dao ước với lời dặn bao giờ chết sẽ phải trả lại.  Có  dao  ước  (vật  báu)  Bố  Trượng  trở  nên  giàu  có.  Khi  chết,  Tản  Viên  chôn  cất  bố  và  chôn  luôn  cả  con  dao  ước,  vì  Bố  Trượng  không dặn lại. Vua Khú cho người lên hỏi không được liền dâng    19  nước  để  đòi  vật  quý.  Dâng  gần  đến  đỉnh  Ba  Vì  thì  không  dâng  thêm được đành rút nước. Tuy vậy, hằng năm vẫn dâng nước làm  lụt để đòi dao.   Những  sưu  tầm  khác  trên  địa  bàn  người  Kinh  ở  Hà  Tây,  Vĩnh Phúc (trước đây) có nhiều chi tiết tương đồng (dao ước, gậy  thần,  sách  ước,  cứu  rắn,  chữa  bệnh,  hôn  nhân  v.v…).  Trong  các  bản Lĩnh Nam chích quái muộn, các chi tiết này vẫn xuất nhập (Tân  đính Lĩnh Nam chích quái).   Điều  đáng  nói  ở  đây  là,  trong  truyện  của  người  Mường,  không  xuất  hiện  vua  Hùng,  Âu  Cơ,  Mị  Nương,  vua  Thục  cũng  như tên các con sông, các địa danh thời Đại Việt. Một tích tụ thần  thoại với Lĩnh Nam chích quái cho ta những thông tin quan trọng về  việc khẳng định, việc nhận thức về cội nguồn dân tộc, về địa bàn  quốc  gia  thời  đó.  Ở  đây,  thần  thoại  đã  được  cải  biến  trước  một  nhu cầu nhận thức, nhu cầu tư tưởng mới. Tuy nhiên, trong cốt lõi  của nó vẫn giữ được những biểu tượng cơ bản nhất theo kiểu tự  sự trầm tích.   Sự phân chia Việt – Mường và các tộc người khác chắc chắn  đã rõ nét vào đầu thời Đại Việt. Cũng theo một dị bản Lĩnh Nam  chích  quái ghi  lại,  cư  dân  vùng  Tản  Viên  sơn  là  người  “Bạch  Y  Man” (Man áo trắng). Vấn đề là tại sao các tác giả thời đó lại vượt  qua kì thị, gộp thần Tản Viên vào điện thờ Đại Việt. Và Tản Viên  có vai trò như thế nào với tư cách là một biểu tượng trong lịch sử  cội  nguồn.  Địa  linh  nhân  kiệt.  Một  quốc  gia  độc  lập,  có  truyền  thống  thì  phải  có  sông  núi  linh  thiêng.  Trung  Hoa  có  Thái  Sơn,  Ngũ Nhạc. Nhật Bản có Đại  Phú Sĩ thì Đại Việt đã lựa chọn Tản  Viên  sơn,  phía  Tây  kinh  thành  làm  tổ  sơn,  chứa  đựng  “linh  khí  phương Nam, vượng khí… sao có thể diệt được” như lời từ miệng  nhân  vật  Cao  Biền.  Tản  Viên  sơn  trở  thành  đệ  nhất  linh  sơn  của  cõi Lĩnh Nam. Thần Tản Viên vốn được cư dân bản địa thờ cúng  đã được nhận thức như dòng dõi của Lạc Long Quân – Âu Cơ về  20   
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan