Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học tự nhiên Sinh học 23_sinhhoc_dangthithanhthuy_thcs hoa phong_mh...

Tài liệu 23_sinhhoc_dangthithanhthuy_thcs hoa phong_mh

.DOC
55
346
141

Mô tả:

phßng gi¸o dôc & ®µo t¹O MỸ HÀO TRƯỜNG THCS HOA PHONG ----------  ---------- SANG KIẾN KINH NGHIÊM MỘT SỐ́ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH NHỚ NHANH VÀ NHỚ LÂU KHI GIẢNG DẠY SINH HỌC 9 ---------------------Môn: Sinh hoc Tên tac gia: Đăng Thi Thanh Thuy Giao viên môn: Sinh hoc Tai liêu kem theo: Đia CD Năm hoc 2015 - 2016 A. MỞ ĐẦU 1 I. Đă ̣t vấ đ 1. Thực trạ́g vấ đ “Em chưa thuộc được bài”, “Em không thể nhớ được nội dung của bài”, “Trí nhớ của em không tốt”,… Có lẽ đây là những câu trả lời mà không có người thầy nào chưa từng được nghe một lần trong cuộc đời dạy học của mình. Và đó cũng là một tồn tại chung của nhiều học sinh trong nhà trường phổ thông hiện nay. Thực tế cho thấy, những học sinh có được kết quả học tập tốt chỉ một phần nhờ vào sự thông minh sẵn có, còn chủ yếu là do các em có khả năng ghi nhớ tốt, hay nói cách khác là các em đã có phương pháp rèn luyện trí nhớ một cách hiệu quả. Ở khía cạnh khác, nếu một học sinh nào đó chưa trình bày được nội dung đã học không hẳn vì em đó chưa học bài mà là vì em đã không có được phương pháp học hiệu quả giúp ghi nhớ tốt kiến thức. Nhiều nghiên cứu khác nhau đã cho thấy trí nhớ đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người. Sự tích lũy kinh nghiệm, thu thập kĩ năng, kĩ xảo của con người đều cần thông qua trí nhớ. Trí nhớ con người được xem như một kho tàng và cơ sở của hoạt động trí lực. Kiến thức ở các cấp học hiện nay, trong đó có cấp THCS liên tục có sự đổi mới nhưng cũng nhấn mạnh tính kế thừa, nối tiếp giữa các năm học với nhau. Để lĩnh hội hiệu quả nguồn tri thức mới, học sinh phải liên tục huy động kho tàng trí nhớ những vấn đề có liên quan, tạo ra mối liên hệ giữa cái đã có với cái chưa có, sắp có. Sẽ là vô cùng khó khăn nếu học sinh cứ loay hoay với câu hỏi làm thế nào để kiến thức này có thể nạp thêm vào bộ nhớ của mình? Tại sao mình học mãi mà vẫn chẳng nhớ được gì? Môn Sinh học trong trường THCS nói chung và môn Sinh học 9 nói riêng nằm trong khó khăn chung mà nhiều môn học khác gặp phải đó là nội dung kiến thức lý 2 thuyết nhiều, để nhớ được kiến thức thì đa số học sinh đều phải học thuộc lòng. Tuy nhiên cách học chủ yếu của các em hiện nay là học vẹt, tức là đọc đi đọc lại một nội dung nào đó cho đến khi thuộc thì thôi nhưng về mặt bản chất của vấn đề thì không hiểu, mất nhiều thờ gian, chỉ cần quên một từ các em có thể quên cả đoạn phía sau, hoặc khi giáo viên đặt câu hỏi ở mức độ thông hiểu hay vận dụng thì học sinh lúng túng không thể trả lời được. Với cách học này, những kiến thức sẽ nhanh chóng bị lãng quên chỉ một thời gian ngắn sau đó. Mặt khác, những bài tập vận dụng trong sinh học đòi hỏi học sinh không những cần nắm chắc kiến thức mà còn phải hiểu rõ nội dung vấn đề, đây là điều mà với cách học vẹt của học sinh sẽ không thể làm được. Việc hiệu quả ghi nhớ kém như đề cập ở trên một phần do phương pháp học của học sinh chưa phù hợp, song phần còn lại cũng cần nhắc đến vai trò của giáo viên. Trong giáo dục ở nhà trường thì giáo viên chính là người định hướng, đưa ra con đường để học sinh đến được với kiến thức. Sẽ không sai khi nói rằng hiệu quả học tập của học sinh phụ thuộc vào cách thức, đường đi mà người thầy đã chỉ ra. Trong dạy học sinh học hiện nay, nhiều giáo viên mới chỉ tập trung vào việc truyền tải cho hết kiến thức của bài, chưa có suy nghĩ làm cách nào để cho học sinh hiểu bài, nhớ các nội dung của bài học nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đặc biệt, so với các lớp 6, 7, 8 thì chương trình Sinh học 9 chứa đựng rất nhiều vấn đề mới mẻ, có những vấn đề khó về mặt tư duy đối với học sinh, để hiểu bài và nhớ được các nội dung của bài học không hề đơn giản. Nếu giáo viên có thói quen yêu cầu học sinh trả lời đúng từng câu, từng chữ trong sách giáo khoa mà không tạo ra tính lôgic giữa các phần hay các bài với nhau thì học sinh sẽ hình thành thói quen học vẹt. Việc tiếp thu trên lớp của học sinh là vô cùng quan trọng, nếu giáo viên có những cách thức làm cho kiến thức trở nên đơn giản hơn, gần gũi hơn, sinh động hơn, … hay nói cách khác là cách thức làm cho tri thức trở nên dễ nhớ, dễ hiểu hơn với 3 học sinh thì hiệu quả ghi nhớ đã có ngay tại lớp. Sau vài lần củng cố, học sinh đã có được những kiến thức nằm tương đối chắc chắn trong bộ nhớ của mình. Từ thực trạng được nêu ra ở trên, với mong muốn nâng cao hiệu quả dạy và học bộ môn Sinh học 9, tôi đã chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh nhớ nhanh và nhớ lâu khi giảng dạy Sinh học 9”. 2. Ý ́ghĩ va ttc d́g cũ đ tà Đề tài đưa ra một số kinh nghiệm trong dạy học Sinh học 9 nhằm tăng cường khả năng ghi nhớ kiến thức của học sinh. Những kinh nghiệm trong đề tài đã phát huy hiệu quả đáng kể trong quá trình áp dụng, giúp cho học sinh ghi nhớ nhiều nội dung kiến thức Sinh học lớp 9 tốt hơn, hiệu quả và hứng thú học tập của học sinh đối với môn học qua đó cũng được nâng lên. Đây cũng là một kênh tham khảo đối với bạn bè đồng nghiệp, trên cơ sở đó đón nhận những ý kiến đóng góp, phản hồi nhằm hoàn thiện hơn về nội dung. 3. Phạ̣ v̀ ́gh̀ế ću cũ đ tà 3.1. Nộ̀ úg ́gh̀ế ću - Những cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến trí nhớ, tâm lí học của học sinh THCS. - Những kinh nghiệm thu được từ thực tiễn dạy học Sinh học 9 nhằm tăng cường khả năng ghi nhớ của học sinh. - Thực nghiệm sư phạm để khẳng định những hiệu quả mang lại từ đề tài. 3.2. Đồ tướg khả sttt Học sinh khối lớp 9 thuộc hai lớp 9A và 9B có trình độ tương đương nhau, học tập trong điều kiện cơ sở vật chất như nhau. 4 3.3. Đĩ ̀ệ khả sttt Trường THCS Hòa Phong, xã Hòa Phong, huyê ̣n My Hào, tỉnh Hưng Yên. 4. Đó́g góp ̣ớ̀ cũ đ tà Đề tài đưa ra những kinh nghiệm là những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Sinh học 9 thông qua việc tăng cường khả năng ghi nhớ của học sinh đối với môn học. II. Phướg phtp t̀ế́ háh 1. Cơ sở lý luậ́ va cơ sở thực t̀ễ́ 1.1. Cơ sở lý luậ́ * Trí ́hớ va ctc qut trì́h cơ bá cũ trí ́hớt Trí nhớ là một quá trình sinh lí phản ánh những kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, gìn giữ và sự tái tạo sau đó ở trong óc cái mà con người đã cảm giác, tri giác, rung động, hành động hay suy nghĩ trước đây. Trí nhớ có vai trò rất to lớn trong đời sống và hoạt động của con người: - Nhờ có ghi nhớ mà chúng ta tích lũy được kinh nghiệm sống. Nếu không có kinh nghiệm sống thì mọi hoạt động của chúng ta sẽ rất khó khăn, mà kinh nghiệm lại là nhờ trí nhớ. - Nhờ có nhận lại và nhớ lại mà ta có thể đem những kinh nghiệm sống để ứng dụng vào thực tiễn. - Không có trí nhớ ta không có phương tiện để thích nghi với ngoại giới, vì không có trí nhớ ta không nhận lại và nhớ lại được thế giới khách quan. - Không có trí nhớ, trong học tập sẽ không tư duy được. 5 Trí nhớ của con người được hình thành bằng hoạt động quyết định. Mà hoạt động của con người rất đa dạng và phong phú nên trí nhớ cũng có nhiều loại, như: Trí nhớ vận động, cảm xúc, hình ảnh, từ ngữ lôgic; trí nhớ bằng mắt, bằng tay,…; trí nhớ không chủ định và trí nhớ có chủ định; trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn;… Trí nhớ của con người là một hoạt động tích cực, phức tạp bao gồm nhiều quá trình khác nhau và có quan hệ qua lại với nhau: - Quá trình ghi nhớ: Là giai đoạn đầu tiên của một hoạt động ghi nhớ cụ thể nào đó. Ghi nhớ là quá trình hình thành dấu vết của đối tượng mà ta đang tri giác trên vỏ não. + Ghi nhớ không chủ định: Là loại ghi nhớ không cần đặt ra mục đích từ trước, nó không đòi hỏi sự nỗ lực nào của ý chí mà dường như được thực hiện một cách tự nhiên. + Ghi nhớ có chủ định: Là loại ghi nhớ theo mục đích từ trước, có sự cố gắng cũng như thủ thuật và phương pháp ghi nhớ xác định. Loại ghi nhớ này được thực hiện: +) Ghi nhớ máy móc: Là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn giản. Biểu hiện điển hình của loại ghi nhớ này là học vẹt. +) Ghi nhớ có ý nghĩa: Là sự ghi nhớ được dựa trên sự thông hiểu nội dung tài liệu, trên sự nhận thức được mối liên hệ lôgic giữa các bộ phân của tài liệu đó. - Quá trình gìn giữ: Là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã hình thành được trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. - Quá trình nhận lại và nhớ lại: 6 Nhận lại là sự nhớ lại một đối tượng nào đó trong điều kiện tri giác lại đối tượng đó. Nhớ lại là quá trình tái hiện lại sự vật, hiện tượng khi không gặp lại chúng. Cơ chế sinh lí là quá trình khôi phục lại đường liên hệ thần kinh tạm thời do kích thích trước đây gây ra. - Quên và cách chống quên: Quên là biểu hiện sự không nhận lại hay nhớ lại được, hay nhận lại, nhớ lại sai. Cách chống quên: Thường xuyên củng cố đường dây liên hệ thần kinh tạm thời đã được thành lập. Cụ thể: + Tiến hành ôn tập ngay sau khi học. + Phải ôn tập thường xuyên. + Vận dụng nhiều giác quan tham gia vào ôn tập. + Ôn tập phải kết hợp với thực hành, luyện tập. + Ôn tập phải kết hợp với nghỉ ngơi. + Giảng dạy chống nhồi nhét, ghi nhớ có điểm tựa. * H̉ạt ộ́g học tập va sự phtt tr̀ế trí tuệ cũ học s̀́h THCS - Đặc điểm của hoạt động học tập: Ở trường THCS, việc học tập của các em phức tạp hơn một cách đáng kể. Các em chuyển sang nghiên cứu có hệ thống những cơ sở của các khoa học, các em học tập có phân môn,… Mỗi môn học gồm những khái niệm, những quy luật được sắp xếp thành một hệ thống tương đối sâu sắc. Điều đó đòi hỏi các em phải tự giác và độc lập cao. 7 Thái độ của các em đối với môn học do nội dung môn học và sự đòi hỏi phải mở rộng tầm hiểu biết chi phối. Trong giáo dục, giáo viên cần thấy được mức độ phát triển cụ thể ở mỗi em để kịp thời động viên, hướng dẫn thiếu niên khắc phục những khó khăn trong học tập và hình thành nhân cách một cách tốt nhất. Mặt khác, cần chú ý tới tài liệu học tập: Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học, phải gắn với cuộc sống của các em, làm cho các em hiểu rõ ý nghĩa của tài liệu học, phải gây cho học sinh hứng thú học tập và phải trình bày tài liệu, gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó, phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập phù hợp. + Tri giác: Các em đã có khả năng phân tích, tổng hợp các sự vật, hiện tượng phức tạp hơn khi tri giác sự vật, hiện tượng. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở lên có kế hoạch, có trình tự và hoàn thiện hơn. + Trí nhớ: Có sự thay đổi về chất. Đặc điểm cơ bản của trí nhớ ở lứa tuổi này là sự tăng cường tính chất chủ định, năng lực ghi nhớ có chủ định được tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ được cải tiến, hiệu suất ghi nhớ cũng được nâng cao. Học sinh THCS có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ ngữ. Các em có những kĩ năng tổ chức hoạt động tư duy, biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệ thống hóa, phân loại nhằm ghi nhớ tài liệu. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu ghi nhớ được tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ lôgic, ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn. Các em thường phản đối các yêu cầu của giáo viên bắt học thuộc lòng từng câu, từng chữ, có khuynh hướng muôn tái hiện bằng lời nói của mình. - Tư duy: Tư duy nói chung và tư duy trừu tượng nói riêng phát triển mạnh. Tính phê phán của tư duy cũng phát triển, các em biết lập luận giải quyết vấn đề một 8 cách có căn cứ. Các em đã biết vận dụng lí luận vào thực tiễn, biết lấy những điều quan sát được, những kinh nghiệm của riêng mình để minh họa kiến thức. 1.2. Cơ sở thực t̀ễ́ * Vđ phí̃ g̀t̉ v̀ết Trong những năm gần đây, thực hiện theo quan điểm chỉ đạo đã được nêu trong nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên dạy môn sinh học nói riêng đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học vẫn còn một số hạn chế: - Một bộ phận giáo viên vẫn còn sử dụng lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Học sinh ngồi học chủ yếu tập trung vào việc nghe và ghi chép, bị động học theo những nội dung mà giáo viên truyền tải, không có sự tư duy hay trải nghiệm nên kiến thức thu nhận được ít và nhanh chóng bị lãng quên. - Hình thức tổ chức hoạt động học tập trong nhiều giờ học trên lớp còn nghèo nàn, ít gây được hứng thú học tập cho học sinh do đó làm giảm đi sự chú ý của các em đối với bài học. - Việc sử dụng các phương tiện dạy học còn hạn chế. Các phương tiện dạy học như tranh ảnh, sơ đồ, mô hình,… có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình ghi nhớ vì chúng tác động đến loại trí nhớ bằng mắt. Theo các nhà tâm lí học thì trí nhớ bằng mắt chiếm 80% trí nhớ của con người và nếu so sánh trí nhớ của chúng ta như một cái phễu thì hình ảnh là thứ rất khó lọt ra khỏi cái phễu này. 9 Thực tế, trong các phương tiện dạy học hiện nay thì hệ thống tranh vẽ, hình ảnh chiếm một lượng lớn. Tuy nhiên, nhiều giáo viên còn chưa thật tích cực sử dụng chúng như một kênh khai thác và giúp học sinh khắc sâu kiến thức, ngay cả hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa đôi khi còn bị “bỏ quên” hoặc sử dụng hời hợt. Đây là một thiếu sót đồng thời cũng là sự lãng phí cơ hội giúp cho học sinh hiểu và ghi nhớ nội dung bài học tốt hơn. - Giáo viên chưa làm tốt công tác hướng dẫn học sinh tự làm việc với sách giáo khoa. Kĩ năng làm việc với sách giáo khoa của nhiều học sinh hiện nay chưa tốt, điều này được thể hiện ở: + Tốc độ đọc sách còn chậm do học sinh thường có thói quen đọc từng chữ một. + Chưa biết cách lọc ra những thông tin chính từ sách giáo khoa qua những từ khóa, thay vào đó lại cố gắng ghi nhớ tất cả, càng nhiều càng tốt. + Chưa có thói quen đọc phần tóm tắt trước để nắm được những nội dung hính của bài. Có điều này là do giáo viên chưa chú ý đến công tác độc lập của học sinh với sách giáo khoa, chưa định hướng cho học sinh thấy rõ vai trò của việc đọc sách hoặc những câu hỏi cho học sinh còn chung chung, thiếu địa chỉ cụ thể để các em tập trung nghiên cứu. - Việc gây ấn tượng chưa hiệu quả: Ấn tượng để lại dấu vết rất lâu trên vỏ não. Nếu tận dụng được quy luật ấn tượng thì học sinh sẽ có thể ghi nhớ thông tin nhanh và lâu hơn. Tuy nhiên, việc tạo ấn tượng trong các giờ học chưa được nhiều giáo viên quan tâm, làm “lãng phí” cơ hội ghi nhớ của học sinh. 10 - Công tác ôn tập, củng cố kiến thức chưa hiệu quả. Thông tin được nạp vào bộ nhớ của con người và sẽ mất dần theo thời gian với một tốc độ rất nhanh. Ôn lại thông tin để củng cố trí nhớ là việc làm hết sức cần thiết để phòng tránh sự lãng quên, biến trí nhớ ngắn hạn, tạm thời thành trí nhớ dài hạn. Đa số giáo viên vẫn thực hiện công việc này trong mỗi bài dạy, thể hiện qua khâu kiểm tra bài cũ hay củng cố kiến thức vào thời điểm cuối mỗi tiết dạy hay củng cố từng phần. Tuy nhiên, đôi lúc những việc làm này mang tính hình thức, các câu hỏi được sử dụng để kiểm tra không liên quan đến những nội dung trọng tâm của bài hoặc thời lượng của tiết dạy không đủ để củng cố hoặc kiểm tra hết những nội dung đã học. * Vđ phí̃ học s̀́ht Với những kiến thức đã học, khả năng ghi nhớ của nhiều học sinh chưa tốt do những nguyên nhân: - Chưa có thói quen ghi chú, hệ thống những kiến thức chính của mỗi bài, mỗi chương đã học. Nhiều học sinh hiện nay đang duy trì cách học rập khuôn theo những gì được thầy cô cho ghi lại trong sách vở. Trong mỗi bài, trên lớp các em ghi chép kiến thức như thế nào thì về nhà các em sẽ học theo đúng trình tự đó. Cách học này làm mất nhiều thời gian trong khi kiến thức không được hệ thống lại một cách đầy đủ, chỉ một bên bán cầu đại não được sử dụng nên hiệu quả ghi nhớ không cao. Thay vào đó, học sinh nên tập ghi chú bằng cả não bộ, hệ thống kiến thức theo hình thức sử dụng bản đồ tư duy, bản đồ khái niệm,… thì hiệu quả ghi nhớ sẽ cao hơn và khái quát hơn. - Hoạt động củng cố, ôn tập và vận dụng kiến thức chưa thường xuyên. 11 Não bộ của con người có khuynh hướng quên đi nhanh chóng phần lớn những gì học được chỉ trong thời gian ngắn nếu không được ôn tập, củng cố lại. Điều này lí giải vì sao học sinh thường nhanh quên những kiến thức đã học, vì các em không thường xuyên ôn tập, củng cố. Việc củng cố của các em thường chỉ tiến hành một lần sau mỗi bài học và việc củng cố sau mỗi bài lại chưa kĩ nên chắc chắn hiệu quả ghi nhớ không thể cao được. Mặt khác, với nhiều môn trong đó có Sinh học, hiệu quả ghi nhớ có thể được tăng cường thông qua hoạt động vận dụng kiến thức đã học. Học sinh có thể vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống để giải thích, giải quyết một vấn đề nào đó; vận dụng kiến thức để giải một bài tập,… Thông qua những hoạt động này, kiến thức được tái hiện và khắc sâu, ấn tượng về kiến thức sẽ rõ hơn và học sinh có thể ghi nhớ lâu hơn. Trong thực tế học tập, hoạt động vận dụng kiến thức chưa được nhiều học sinh quan tâm một cách tự giác, chỉ khi giáo viên giao nhiệm vụ, giao bài tập thì học sinh mới thực hiện. - Thói quen học vẹt. Nhiều học sinh thường có thói quen học vẹt tức là cố học thuộc lòng theo những nội dung đã được học nhưng lại không hiểu gì về các nội dung đó. Chính điều này dẫn đến kiến thức không thể lưu giữ được lâu trong trí nhớ và hiệu quả vận dụng kiến thức rất thấp. Trong quá trình học bài mới, khả năng ghi nhớ kiến thức của nhiều học sinh chưa tốt do những nguyên nhân sau: - Học sinh chưa tạo thành thói quen đọc bài mới trước khi đến lớp. Học bài cũ là công việc thường xuyên đối với học sinh, song nhiều em lại không có thói quen đọc bài mới trước khi đến lớp. Với sự phát triển mạnh mẽ của 12 công nghệ thì ngày nay những phương tiện như điện thoại di động, máy tính kết nối internet, tivi,… là những thứ gắn bó hơn cả với học sinh, học sinh dần mất đi thói quen đọc sách, nhất là sách giáo khoa. Có những quyển sách được các em “giữ mới”, trong cả năm học chưa được “chủ nhân” chạm đến. Đây quả là điều vô cùng đáng tiếc vì sách chứa đựng biết bao tri thức của nhân loại, dù khoa học công nghệ có phát triển đến đâu thì sách vẫn giữ vững được những giá trị của riêng mình. Và đọc sách là học sinh đã một lần tiếp cận với tri thức, không đọc sách là học sinh đã bỏ qua một lần ghi nhớ, đánh mất một lần đặt ra những câu hỏi thú vị thôi thúc bản thân tích cực tìm hiểu. - Kĩ năng đọc của học sinh chưa tốt, lúng túng trong việc xác định trọng tâm của bài. Nhiều học sinh chưa rèn luyện được cho mình kĩ năng đọc, điều này dẫn đến mất nhiều thời gian mà hiệu quả lại không cao. Các em thường đọc từng từ, mắt không bao quát trên diện rộng, chưa biết liên hệ với câu hỏi của giáo viên để xác định từ khóa trong câu hỏi hoặc chưa biết cách xác định trọng tâm của một nội dung, một mục nào đó thông qua những từ khóa của từng mục nên việc chắt lọc và nắm bắt những thông tin chính rất khó khăn. Một điều nữa là các em có thói quen đọc phần tóm tắt ở phút chót, sau khi đã đọc xong tất cả những nội dung phía trước. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng nên đọc phần tóm tắt cuối bài trước vì như vậy học sinh sẽ có cái nhìn tổng quan về các ý chính và các đơn vị kiến thức của bài, nhờ đó khi đọc vào nội dung chi tiết thì hiệu quả thu được sẽ tốt hơn. - Học sinh chưa tập trung trong quá trình hoạt động trên lớp. Không thể làm việc hiệu quả nếu đánh mất sự tập trung. Trong quá trình học bài mới, nếu học sinh thiếu sự tập trung thì chắc chắn hiệu quả ghi nhớ sẽ rất thấp, thậm chí học sinh không thể nhớ được bất cứ nội dung nào. 13 2. Phướg phtp ́gh̀ế ću 2.1. Phướg phtp ́gh̀ế ću lý thuuết - Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến cơ sở lý luận. - Nghiên cứu nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên Sinh học 9 và các sách tham khảo khác có liên quan. - Nghiên cứu các sách báo, bài viết về trí nhớ. 2.2. Phướg phtp ́gh̀ế ću thực t̀ễ́ - Phỏng vấn học sinh về phương pháp học, về hứng thú đối với bộ môn Sinh học. - Thu thập ý kiến của giáo viên dạy môn Sinh học 9 ở các trường trong huyện về thực trạng và những nguyên nhân của việc ghi nhớ kém ở học sinh. - Tiến hành áp dụng các giải pháp của đề tài với đối tượng học sinh lớp 9A và 9B trường THCS Hòa Phong, xã Hòa Phong, huyê ̣n My Hào, tỉnh Hưng Yên. Đánh giá kết quả qua bài khảo sát cuối kì I và cuối kì II, qua kết quả xếp loại chung trong học kì I và học kì II. 3. Thờ̀ g̀̃́ thực h̀ệ́ Đề tài được bắt đầu được thực hiê ̣n từ đầu năm học 204c - 204c với học sinh lớp 9A, 9B trường THCS Hòa Phong, xã Hòa Phong, huyê ̣n My Hào, tỉnh Hưng Yên. 14 B. NỘI DUNG I. Mdc t̀êu Đề tài cung cấp những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và đưa ra những giải pháp là kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn dạy học nhằm tăng cường hiệu quả ghi nhớ ở học sinh trong dạy học Sinh học 9. II. Ctc g̀à phtp cũ đ tà 1. Tắg cườ́g cốg ttc ộc lập cũ học s̀́h * Tắg cườ́g cốg ttc ộc lập vớ̀ stch g̀t̉ kh̉̃t Để tích lũy cho bản thân nhiều thông tin, kiến thức thì học sinh cần tích cực đọc sách, trong đó có sách giáo khoa. Tuy nhiên, không phải cứ đọc là sẽ nhận được và nhớ được những thông tin cần thiết. Trong quá trình dạy trên lớp, giáo viên cần quan tâm đến việc làm sao để học sinh tích cực đọc sách giáo khoa và đọc sách có hiệu quả hơn. Để làm được điều này, giáo viên chú ý đến việc đặt ra những câu hỏi rõ ràng về yêu cầu để học sinh tìm kiếm, khai thác thông tin; quan sát hình ảnh, sơ đồ,… trong sách. Bên cạnh đó giáo viên cần lưu ý học sinh một số kĩ năng: - Hãy bắt đầu đọc mỗi bài từ phần tóm tắt kiến thức, qua đó học sinh có thể hình dung ra những đơn vị kiến thức của mỗi bài học, thuận lợi cho quá trình đọc chi tiết sau này. - Trong quá trình đọc chi tiết, nên đọc một lúc từng cụm c – 7 từ để cải thiện tốc độ. - Tập trung vào những từ khóa có liên quan đến chủ đề của bài học, tiêu đề của từng mục. 15 Ví dụ: Khi dạy bài cc – Ô nhiễm môi trường, mục II.c. Ô nhiễm do vi sinh vật gây bệnh, trong sách giáo khoa có viết: “Bên cạnh các sinh vật có ích, nhiều nhóm sinh vật gây bệnh cho người và các sinh vật khác. Nguồn gốc gây ô nhiễm sinh học chủ yếu là do các chất thải như phân, rác, nước thải sinh hoạt, xác chết của sinh vật, nước và rác thải từ các bệnh viện,… không được thu gom và xử lí đúng cách đã tạo môi trường cho nhiều sinh vật gây hại cho người và động vật phát triển”. Để ghi nhớ hết những thông tin trong đoạn văn trên sẽ khó khăn hơn việc ghi nhớ những từ khóa. Hãy thử kiểm tra bằng đoạn thông tin ở dưới: “…, nhiều nhóm sinh vật gây bệnh ... Nguồn gốc … chủ yếu là do các chất thải (hữu cơ)… không được thu gom và xử lí đúng cách …”. - Đánh dấu vào những thông tin chính có trong mỗi đoạn để tránh mất thời gian trong quá trình xem lại sau này. Việc đọc bài mới nên được thực hiện trước mỗi buổi học, được vậy sẽ giúp học sinh biết được vấn đề mà bản thân còn chưa rõ trong nội dung của bài để tập trung sự chú ý, làm cho tốc độ thu nhận kiến thức được nhanh hơn. Đối với hoạt động trên lớp, để nâng cao hiệu quả công tác độc lập của học sinh với sách giáo khoa thì điều quan trọng là giáo viên cần giao nhiệm vụ, chỉ ra địa chỉ cụ thể cho các em tìm kiếm. Đó có thể là câu hỏi cần trả lời, bảng biểu cần hoàn thành,… và thông tin có được từ mục số I hay mục số II,… qua đó học sinh xác định được nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể của việc đọc thông tin trong sách. Cần chú ý đến các câu hỏi có sẵn trong sách, ở mỗi mục bởi những câu hỏi này thường đòi hỏi học sinh phải làm việc nhiều hơn với sách giáo khoa, phải đọc và quan sát nhiều hơn để tìm câu trả lời, qua đó sự ghi nhớ cũng tốt hơn. 16 Ngoài làm việc với sách giáo khoa ở trên lớp vào mỗi buổi học, giáo viên cũng có thể giao nhiệm vụ liên quan đến bài mới để học sinh thực hiện tại nhà. Đây có thể coi như khâu soạn bài, áp dụng với những nội dung kiến thức mà học sinh dễ dàng tìm kiếm thông tin từ sách giáo khoa để thực hiện yêu cầu của giáo viên. Căn cứ vào khả năng của học sinh, giáo viên có thể thiết kế nhiệm vụ cho nhóm hoặc từng cá nhân, nêu rõ địa chỉ cụ thể để học sinh tìm kiếm thông tin. Làm được việc này thì tốc độ của các hoạt động trên lớp sẽ nhanh hơn, giáo viên có thêm thời gian giải đáp những thắc mắc, đưa ra những tình huống mới giúp học sinh hiểu rõ hơn nội dung của bài. Ví dụ: Khi dạy về cấu trúc hóa học của ADN (hoặc ARN hoặc prôtêin) thuộc các bài trong chương III – ADN và gen, giáo viên có thể thiết kế bảng theo mẫu và giao cho học sinh làm việc cá nhân hoặc theo nhóm về chuẩn bị trước: ? Hãy nghiên cứu thông tn ở mục I sách giáo khoa bài 15 (ho ặc bài 17 ho ặc bài 18) đ ể hoàn thành bảng sau: Đặc điểm Nội dung Thành phần hóa học Kích thước, khối lượng Nguyên tắc cấu tạo Các loại đơn phân Tính đa dạng, tính đặc thù Hoặc khi dạy về các quá trình tự nhân đôi ADN hay phiên mã, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nghiên cứu thông tin ở các mục tương ứng trong sách giáo khoa để hoàn thành bảng: 17 Đặc điểm Nội dung Thời điểm và nơi xảy ra Quy mô tổng hợp Diễn biến Kết quả Nguyên tắc tổng hợp * Tắg cườ́g cốg ttc ộc lập vớ̀ ctc ́guồ́ tà l̀ệu khtct Hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã mở ra nhiều cánh cửa khác nhau giúp cho học sinh tiếp cận với tri thức. Việc tìm kiếm thông tin không còn bó hẹp trong phạm vi quyển sách giáo khoa mà đã thêm nhiều kênh khác như: máy tính, điện thoại, sách điện tử,… Mặt khác, những kĩ năng sử dụng các thiết bị công nghệ này của học sinh trong những năm gần đây đã tăng lên đáng kể. Vì vậy, giáo viên cần thiết phải nhận thấy tầm quan trọng của việc khai thác những nguồn thông tin này đối với quá trình dạy học. Để làm tốt việc này thì vai trò của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung của mỗi bài học, thiết kế và giao nhiệm vụ liên quan đến nội dung của bài nhưng là những vấn đề mở rộng, bổ sung hay làm rõ hơn cho các kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa. Giáo viên cần giám sát quá trình thực hiện của học sinh để tránh hiện tượng các em bị sa đà vào những vấn đề khác không liên quan. Kết quả hoạt động của học sinh sẽ được trình bày vào từng thời điểm phù hợp với tiến trình dạy bài mới ở trên lớp và theo yêu cầu của giáo viên. Thông thường, nhiệm vụ sẽ được giao cho các nhóm thực hiện thay vì từng cá nhân, ở đó mỗi thành viên sẽ cố gắng thể hiện khả năng của bản thân để thực hiện nhiệm vụ riêng nhưng đồng thời cũng cần biết lắng nghe, phối hợp hiệu quả với các thành viên khác 18 để giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm. Như vậy, nội dung kiến thức được tìm hiểu và đem ra trao đổi, thảo luận nhiều lần, các em sẽ ghi nhớ kiến thức tốt hơn, hứng thú học tập hơn, phát triển thêm nhiều kĩ năng khác. Ví dụ: Trước khi dạy bài 29 – Bệnh và tật di truyền ở người, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh tiến hành tìm kiếm thông tin trên sách báo, internet để thực hiện yêu cầu: Nhóm 4 2 3 c Nhiệm vụ Thế nào là bệnh di truyền, tật di truyền? Tật di truyền và bệnh di truyền có gì khác nhau? Nguyên nhân dẫn đến phát sinh các tật, bệnh di truyền là gì? Những hoạt động nào của con người có thể làm gia tăng tỉ lệ người mắc tật, bệnh di truyền? Kể thêm một vài bệnh di truyền khác và nêu đặc điểm biểu hiện của bệnh đó. (Gợi ý tìm kiếm: Sách báo, Internet – từ khóa: bệnh, tật di truyền; con người với môi trường; tác động tiêu cực của con người tới môi trường,…) 2. Tạ̉ ch̉ học s̀́h ấ tướg vớ̀ bà học Trí nhớ tuân theo quy luật “Ấn tượng mạnh mẽ” tức là sức mạnh của ấn tượng đầu tiên về một cái gì đều tồn tại trong trí nhớ, ấn tượng càng mạnh hình ảnh càng sáng. Áp dụng quy luật này trong dạy học sinh học, có thể thực hiện theo các hướng: 2.1 Tạ̉ ấ tướg bằ́g phướg t̀ệ́ trực qṹ 19 Như đã nói ở trên, hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ là hình ảnh thu nhận được bằng trực quan. Dựa vào đặc điểm này và trên thực tế các phương tiện trực quan phục vụ cho dạy học sinh học tương đối phong phú, giáo viên có thể sử dụng một cách hợp lí, tăng cường tính trải nghiệm cho học sinh để các em ghi nhớ kiến thức nhanh hơn và lâu hơn. Việc gây ấn tượng bằng các phương tiện trực quan không có nghĩa là phương tiện trực quan đó phải ấn tượng. Đối với Sinh học 9, phương tiện trực quan chủ yếu là hệ thống tranh ảnh, bản thân các tranh ảnh này lại không có nhiều sức hút với học sinh. Vậy làm thế nào để học sinh có thể chú ý đến mức ghi nhớ, để lại ấn tượng trong trí nhớ của các em? Điều này đòi hỏi người giáo viên phải có những suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo để gắn cho những bức tranh, hình ảnh những điểm đặc biệt, gây bất ngờ thú vị. - Gây ấn tượng trong quá trình dẫn dắt vào bài mới hoặc vào một mục nào đó của bài: Ví dụ: Khi dạy bài 34 – Công nghệ tế bào, mục II.4. Nhân giống vô tính trong ống nghiệm (vi nhân giống) ở cây trồng, giáo viên có thể chiếu hình ảnh gây sự chú ý của học sinh để đặt vấn đề vào mục: Giáo viên: Các em hãy quan sát hình ảnh và những con số sau, từ đó hãy trả lời câu hỏi: “Em có suy nghĩ gì?” 8 tháng 2000 triệu mầm giống, đủ trồng trên c0 ha 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan