Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ [123doc] chan nuoi gia cam part 9 pot...

Tài liệu [123doc] chan nuoi gia cam part 9 pot

.PDF
28
651
88

Mô tả:

thể chất yếu. Do đó thích hợp với chăn nuôi gà thương phẩm trứng, thương phẩm thịt, nuôi chim cút. - Nuôi trên nền (trên sàn). Gia cầm được nuôi trực tiếp trên nền gạch, nền đất nện, nền xi măng có lớp độn chuồng hoặc trên sàn kim loại, sàn bằng tre, nứa cao hơn mặt đất. Nuôi trên nền thích hợp với chăn nuôi gà con, gà hậu bị, đàn gia cầm giống (gà, vịt, ngan, ngỗng, gà tây). Gia cầm nuôi nền thể chất khỏe mạnh, sức sản xuất cao nếu nuôi với mật độ thích hợp và chăm sóc nuôi dưỡng hợp lý. Khi áp dụng hình thức nuôi gia cầm trên nền cần lưu ý một số điểm dưới đây. Nuôi trên lớp độn chuồng dày không thay đổi. Cho vào nền chuồng lớp độn chuồng dày 8-10cm vào mùa hè, 15-20 cm vào mùa đông trước khi cho gia cầm vào nuôi. Trong quá trình nuôi, độn chuồng không thay đổi cho đến khi xuất chuồng toàn bộ đàn gia cầm. Trong quá trình nuôi nếu độn chuồng bị ẩm, ướt có thể bổ sung thêm cho đến khi lớp độn chuồng đạt 25-30 cm. Khi đó thay toàn bộ lớp độn chuồng, tổng tấy uế, khử trùng chuồng nuôi rồi đưa lớp độn chuồng mới vào nuôi đợt tiếp theo. Hình thức này có ưu điểm tiết kiệm được chi phí độn chuồng, chuồng nuôi giữ ấm tốt, đàn gia cầm không bị xáo trộn trong quá trình nuôi. Theo các nghiên cứu gần đây cho rằng cách này có lợi cho gia cầm vì các yếu tố hiếm (vi lượng, đặc biệt vitamin nhất là vitamin B12) có trong lớp độn chuồng không thay đổi được gia cầm sử dụng rất hiệu quả. Theo A.. Pôpôv, trong 100g chất độn chuồng chứa trung bình 42mg vitamin B12, trong cả màu xuân số lượng có thể đạt đến 100mg. Tuy vậy có nhược điểm là không khí dễ nhiễm bẩn, ẩm độ chuồng nuôi có thể lên cao gây ảnh hưởng sức khỏa đàn gia cầm. Hình thức này áp dụng cho chăn nuôi gà giống, gia cầm hướng thịt và các nhóm gia cầm nuôi thời gian ngắn (gà con, gia cầm nuôi thịt). Nuôi trên lớp độn chuồng thay đổi. Cho vào nền chuồng lớp độn chuồng dày 5-10cm trước khi cho gia cầm vào 225 chuồng nuôi. Trong quá trình nuôi sau 10-12 ngày thay lớp độn chuồng một lần, loại bỏ lớp cũ thay vào bằng lớp độn chuồng mới. Hình thức này chuồng nuôi luôn khô, sạch, vệ sinh, nhưng chi phí độn chuồng tăng lên, mỗi lần thay đổi độn chuồng gây xáo động đàn gia cầm, ảnh hưởng đến sinh trưởng hoặc làm giảm đẻ trứng. Hình thức này áp dụng cho đàn gia cầm phải nuôi trong thời gian dài (gia cầm giống, gia cầm đẻ trứng). Yêu cầu của nguyên liệu dùng làm chất độn chuồng. Nguyên liệu dùng làm chất độn chuồng nuôi gia cầm phải thảo mãn các yêu cầu: hút ẩm tốt. khả năng hút ẩm từ 140 đến 1200% so với khối lượng ban đầu của nó; không bị nát vụn, không tạo nhiều bụi; giá phải rẻ và dễ kiếm. Trong chăn nuôi gia cầm công nghiệp thường sử dụng các nguyên liệu như lõi ngô (hút ẩm 140-150%); rơm, rạ, trấu (240%, nếu dày 5cm hút ẩm đến 265%), tuy vậy rơm rạ có nhược điểm là dễ bị mấm mốc; dăm bào được xem là tốt nhất cho gia cầm con (420%); phân bò, phân ngựa khô (600-12000%); than bùn khô (160%). Trên thực tế thường dùng hỗn hợp các nguyên liệu này với nhau như trấu + mùn cưa, trấu + dăm bào… với những tỷ lệ thích hợp. 7.2. Kỹ thuật nuôi dƣỡng gà Căn cứ vào đặc điểm sinh lý, sinh trưởng phát dục và để thuận tiện cho nuôi dưỡng chăm sóc, quản lý, đàn gà được chia ra các nhóm sau: Gà con. là gà từ khi nở ra khỏi mấy ấp (1 ngày tuổi) đến 8 tuần tuổi (gà hướng trứng) hoặc 10 tuần tuổi (gà hướng thịt). Gà broiler là gà nuôi sản xuất thịt theo quy trình công nghiệp kết thúc, bán thịt luc 8-10 tuần tuổi. Gà dò (còn gọi là gà choai, gà đang lớn) là gà từ 8 hoặc 10 tuần tuổi cho đến 20 hoặc 22 tuần tuổi, tương ứng với 226 hướng chuyên dụng trứng hoặc chuyên dụng thịt. Đối với đàn gà giống thì độ tuổi này thuộc giai đoạn gà hậu bị. Gà đẻ (hay gà sinh sản) là gà tiếp theo giai đoạn gà dò, đẻ qủa trứng đầu tiên cho đến khi kết thúc chu kỳ sinh sản (thường 12 tháng đẻ trứng) hoặc ở 500 ngày tuổi. Ở đàn gà giống giai đoạn này gọi là gà sinh sản. Gà sinh sản khác với gà đẻ ở chỗ trong đàn bắt buộc phải thả trống, đảm bảo cho trứng có phôi, ấp nở để nhân đàn tiếp tục. 7.2.1. Kỹ thuật nuôi dƣỡng gia cầm con 7.2.1.1. Đặc điểm của gia cầm con. Gia cầm con có tốc độ sinh trưởng nhanh, cường độ trao đổi chất mạnh nhưng dung tích đường tiêu hoá nhỏ; khả năng tiêu hoá còn thấp nên cần có chế độ nuôi dưỡng hợp lý. Khối lượng gia cầm con nở ra khoảng 68-70% khối lượng trứng đưa vào ấp. Khối lượng gia cầm tăng gấp 2-3 hoặc 5 lần trước 6 tuần tuổi và tăng trưởng kéo dài đến khoảng 10 tuần tuổi, sau đó tốc độ sinh trưởng giảm đi rõ rệt. Cùng với sự tăng trọng là sự hoàn thiện của bộ lông. Ở 4-5 tuần tuổi bộ lông tơ của gia cầm con được thay bằng bộ lông vũ có khả năng giữ ấm, còn trước 5 tuần tuổi bộ lông chưa hoàn thiện, khả năng điều tiết thân nhiệt kém nên gia cầm con dễ bị nhiễm lạnh, đòi hỏi nhiệt độ chuồng nuôi phải cao (350C). Giai đoạn 13-14 tuần tuổi gia cầm thay bằng bộ lông hoàn thiện hơn và giữ cho đến trước khi thành thục về tính. Sau khi thành thục về tính, gia cầm có bộ lông của gia cầm trưởng thành. Cùng với sự tăng trưởng kích thước cơ thể, tiêu thụ thức ăn của gia cầm cũng tăng lên nhưng hiệu quả sử dụng thức ăn giảm xuống. trước 6 tuần tuổi gà hướng trứng tiêu thụ khoảng 1 kg thức ăn hốn hợp, ở gà thịt (Broiler) là 2-2,3 kg. Tổng thức ăn tiêu thụ cho gà cho đến thời điểm đẻ trứng là khoảng 8-12 kg. Các cơ quan của cơ thể gia cầm phát triển với tốc độ khác nhau qua các giai đoạn sinh trưởng phát dục của nó. Các cơ quan của 227 cơ thể có thể phân làm 3 nhóm liên quan đến giai đoạn phát triển. Các cơ quan thành thục sớm là đầu, tim, gan, máu, ống tiêu hoá,; các cơ quan phát triển ở mức trung bình là chân, phổi, cánh, lông, thân. Trong đó các cơ quan: buồng trứng, ống dẫn trứng, lách, bài tiết và mô mỡ của gia cầm thuộc nhóm thành thục muộn. 7.2.1.2. Công tác chuẩn bị nhận gà con một ngày tuổi Trước khi đưa gà về nuôi cần chuẩn bị chu đáo chuồng trại, các thiết bị dụng cụ chăn nuôi và đảm bảo khử trùng sạch sẽ. Khử trùng chuồng trại: Chuồng trại được quét sạch bụi bẩn, mạng nhện trên trần, lưới, sàn nhà. Khử trùng nền chuồng bằng cách phun dung dịch formol 2%, liều lượng 0,5 lít trên 1m2 nền chuồng hoặc quét một lớp nước vôi đặc lên trên nền chuồng (nền ximăng hoặc lát ngạch); để khô trước khi cho vào lớp độn chuồng. Chuẩn bị rèm che: rèm che quây quanh chuồng có thể làm bằng cót, vải bạt nhưng phải đảm bảo kín , linh hoạt khi mở ra hoặc đóng vào. Rèm che treo cách trần 30-40cm đảm bảo thông thoáng và phủ sát nền chuồng để tránh gió lùa. Chuẩn bị nguồn sưởi: nguồn sưởi có thể là lò sưởi điện, bếp than, củi, trấu, bóng đèn điện… đảm bảo cung cấp nhiệt trong quây gà lên được 36-37 0C. Phải được vận hành thử để kiểm tra trước khi đưa gà vào chuồng. Quây gà: quây gà được làm băng cót, bìa cứng, hộp gỗ… quây có đường kính 2,5m, chiều cao 0,5m dùng cho 300 gà 1 ngày tuổi. Quây có thể nới rộng, để có thể mở ra khi tuổi gà lớn lên. Máng ăn, máng uống. Máng ăn, máng uống cho gia cầm con có thể hình trụ, hình ống. Cần tính toán đủ cho đàn gà và phân bố đều trong quây gà. Khay làm máng ăn, máng uống cỡ 70x70cm cho 75-100 gà. Một số loại máng ăn, máng uống hiên đang sử dụng trong chăn nuôi gia cầm con (hình 7.2, 7.3). 228 Hình 7. 2: Các dạng máng uống cho gia cầm con 229 Hình 7. 3: Các dạng máng ăn cho gia cầm Nguyên liệu làm độn chuồng: nguyên liệu làm lớp độn chuồng cho chăn nuôi gia cầm con có nhiều loại. Khi chọn nguyên liệu làm độn chuồng cần chú ý là các vật liệu không nát vụn, có khả năng giữ ẩm tốt, không tạo thành nhiều bụi, không bị nấm mốc. Thông thường hay dùng phôi bào, mùn cưa, trấu, rơm rạ, phân ngựa 230 hoặc than bùn phơi khô làm độn chuồng. Lớp độn chuồng lúc đầu dày 8-10cm, sau đó bổ sung hoặc thay mới. Thức ăn, nước uống: chuẩn bị thức ăn theo yêu cầu độ tuổi của gà , đảm bảo chất lượng thức ăn và không ẩm mốc. Nước uống phải từ nguồn nước sạch và cung cấp đủ cho cả giai đoạn nuôi. Tất cả dụng cụ, vật liệu đều được khử trùng sạch sẽ trước khi đưa vào chuồng nuôi. Chú ý kiểm tra lưới, nền, trần để phòng chuột, thú dữ có thể tấn công đàn gia cầm. 7.2.1.3-Chọn gà 1 ngày tuổi Gà nở ra khỏi máy ấp cần được chọn lọc kỹ. Chọn gà có khối lượng trung bình của giống, không quá to, không quá nhỏ. Gà lông khô, bồng, min, mắt sáng tinh nhanh, bụng to mềm, không hở rốn, khòeo chân, đứng vững trên hai chân. Loại bỏ gà quẹo mỏ, lông xoăn, chân yếu, khòeo chân, rốn không kín có dính máu, có các dị tật… Nhưng gà con nở đúng ngày quy định (không quá sớm, không quá muộn) là những gà tốt. Cần tách riêng trống mái ngay khi gà 1 ngày tuổi (nếu có yêu cầu nuôi riêng). 7.2.1.4-Vận chuyển gà con Gia cầm con dược vận chuyển tốt nhất bằng các xe chuyên dụng, cũng có thể vận chuyển bằng tàu hoả, ô tô, máy bay hoặc xe mô tô nhưng cần chú ý tránh xóc lắc mạnh, tránh gió lùa và gà xô vào nhau chết vì ngạt. Gà con nở ra được đựng trong các hộp cỡ 450x450x125mm bằng bìa cotton hoặc hộp nhựa. 231 Hình 7. 4: Gà con mới nở ấp theo máy ấp tự chế tạo Hộp được chia làm 4 ô nhỏ, mỗi ô 20-25 gà con 1 ngày tuổi, xung quanh hộp có những lỗ thông hơi tránh ngạt. Nếu vận chuyển đi xa, khi gà về cần mở hộp cho thông thoáng, cho uống nước có pha vitamin C, B, glucose trước khi thả gà vào quây. 7.2.1.5- Kỹ thuật nuôi dưỡng gà con Các yêu cầu đối với gà con +Nhiệt độ Nhiệt độ là yếu tố đầu tiên và cũng là yêu tố quan trọng nhất trong chăn nuôi gia cầm con. Tuần đầu nhiệt độ trong quây gà là 33350C, cứ mỗi tuần sau đó giảm đi 2-3 0C và giữ ổn định ở 20-22 0C lúc 8 tuần tuổi. Thực tế tuỳ thuộc vào sức khoẻ đàn gà và nhiệt độ môi trường mà sử dụng nguồn sưởi, mùa hè có thể chỉ sử dụng 3-4 tuần đầu. Thường xuyên theo dõi quan sát đàn gà trong quây để điều chỉnh nhiệt độ. Gà con phân tán xa nguôn sưởi, ép sát vào mép quây là nhiệt độ cao. Gà tập trung thành cụm sát nguồn sưởi, chen lấn nhau là nhiệt độ quá thấp. Gà phân bố đều trong quây, ăn uống tốt, 232 hoạt động linh hoạt là nhiệt độ thích hợp.Gà nằm dạt về một phía của quây, chen lấn, kêu nhiều cân chú ý kiểm tra có gió lùa. +Ẩm độ trong chuồng nuôi gà con thích hợp là 75-80%. Tránh ẩm thấp do nước uống đổ ra nên chuồng. +Mật độ nuôi Mật độ nuôi là số gà/m2 nền chuồng. Trong những ngày đầu một quây gà dùng cho 500 gà con thương phẩm hoặc 300 gà giống. Sau 4-5 ngày nới rộng dần quây, sau 10 ngày có thể bỏ quây cho gà tự do trên nền chuồng (nếu gà khoẻ, sinh trưởng tốt và thời tiết tốt). Vẫn giữ quây nếu thời tiết xấu. Sau khi bỏ quây mật độ gà giống 8con/m2, gà thịt thương phẩm 10-12 con/m2, gà trứng thương phẩm 18-22 con/m2. Mật độ có thể thay đổi theo mùa nóng -lạnh. +Sử dụng rèm che: Tùy điều kiện thời tiết và độ tuổi gà mà sử dụng rèm che cho thích hợp (bảng 7.1). Bảng 7.1. Sử dụng rèm che chuồng nuôi gà con Trạng thái rèm che Che kín chuồng Mùa hè Mùa đông tuần1 tuần 1 và 2 Che kín bên có gió ban ngày, ban đêm che kín hoàn toàn tuần2 tuần 3 Cả ngày đêm che kín bên có gió thổi tuần 3 tuần 4 Tuỳ thời tiết có thể che hoặc không che Từ tuần 4; 5 trở đi +Ánh sáng, thông thoáng Tuần đầu gà con cần chiếu sáng 24/24 giờ. Sử dụng bóng đèn công suất 75-100W, định mức 3-4W/m2 nền chuồng (5-10lux). Thời gian chiếu sáng các tuần tiếp theo giảm 2-4h/tuần, và giữ ở 18h/tuần ở tuần thứ 8. Màu sắc ánh sáng tốt nhất ở gà con là màu đỏ hoặc ánh sáng trắng(đèn neon), ánh sáng yêu cầu toả đều trong chuồng nuôi. 233 Cần thông thoáng tốt chuồng nuôi để đủ không khí sạch cho gà. Gà con cần không khí sạch: 0,9-1,0 m3 vào mùa đông và 5-8m3 vào mùa hè, có thể cao hơn nữa ở chuồng nuôi gà giống. +Thức ăn và nuôi dưỡng gà con Gà con 1-8 tuần tuổi có cường độ sinh trưởng nhanh, nhưng không đồng đều. Giai đoạn 5-6 ngày tuổi đầu sinh trưởng châm, sau đó nhanh dần và đạt đến 3% so với khối lượng cơ thể. Khối lượng lúc 8-10 tuần tuổi cần đạt 600-800g/con gà hướng trứng và 8001000g/con ở gà giống nặng cân trung bình. Để đạt được khối lượng này, thức ăn hỗn hợp cho gà con cần có:hàm lượng dinh dưỡng (trong 1kg thức ăn) như sau: Năng lượng trao đổi: 2750-2950 Kcal (11,50-12,34 MJ); Protêin thô: 18-20%; Canxi: 1,0-1,3%; Phốt pho: 0,75-0,80%. Số lượng thức ăn cần thiết cho 1 con gà đến 10 tuần tuổi là 3kg (giống nặng cân trung bình) và 2,4 kg (giống hướng trứng). Có thể chia ra các giai đoạn tuổi 1-3, 4-8 hoặc 1-3, 4-7; 7-10 tuần tuổi và điều chỉnh thức ăn theo từng giai đoạn. Thức ăn sử dụng cho gà con, trong 1 kg thức ăn hỗn hợp cần có 3000-3200 Kcal năng lượng trao đổi protein thô 19-21% ở 1-3 tuần tuổi đầu, sau đó giảm xuống 2800-3000 Kcal và 17-19% tương ứng ở các tuần tiếp theo. Thức ăn cho gà hâu bị. Sau 10 tuần tuổi tốc độ sinh trưởng của gà giảm 3-1% khối lượng cơ thể. Sự thay đổi về tăng trọng cần phải thay đổi thức ăn. Prôtêin thô giảm còn 15-16%, trong một số trường hợp giảm còn 13%. Giai đoạn này, thức ăn hỗn hợp có: Năng lượng trao đổi: 2750-3000 Kcal (11,50-12,55 MJ); Protêin thô: 15-16%; Canxi: 1,0-1,3%; Phốt pho: 0,70-0,80%. Số lượng thức ăn cần thiết cho 1 con gà/1ngày đêm gần 100g (giống hướng trứng); gần 130g (giống nặng cân trung bình). Cả giai 234 đoạn từ 10 đến 20-22 tuần tuổi cần 13kg thức ăn (giống nặng cân trung bình) và 10 kg (giống hướng trứng). + Máng ăn, máng uống Lượng cho ăn tự do bằng máng ăn tự động là tốt nhất. Cần chứa đủ vitamin, khoáng trong thức ăn. Từ ngày tuổi thứ 43-46 chuyển dần thức ăn từ thức ăn cho gà con qua thức ăn cho gà dò theo tỉ lệ 75/25, 50/50, 25/75 và 100. Nước uống sạch và đủ cho gà uống tự do. Máng ăn cần 8-11cm/con, máng uống cần 2cm/con, ở gà broiler tương ứng là 4 và 1,5cm/con. +Chủng ngừa vaccine Trong giai đoạn gà con cần cho uống hoặc tiêm phòng các loại vaccine phòng bệnh đậu gà, Gumboro, Niucatxon, tụ huyết trùng, viêm rốn…theo hướng dẫn của thú y (quy trình phòng bệnh cho từng đối tượng gia cầm nuôi). Ở vịt, ngan, ngỗng, gà tây con có quá trình nuôi tương tự như chăn nuôi gà con. Các yếu tố kĩ thuật có điều chỉnh chút ít. Nuôi vịt chăn thả thời vụ có quy trình nuôi vịt riêng. Ở vịt: yêu cầu nhiệt độ 26-28 0C ở tuần đầu, 22-250C tuần thứ 2, 20-22 0C tuần thứ 3 và 16-190C ở tuần cuối. Cần cung cấp không khí sạch/1kg khối lượng sống trong 1 giờ là 0,7-1m3 trong mùa đông và 4-5m3 trong mùa hè. Kiểm tra điều chỉnh lượng khí độc trong chuồng CO2 không quá 0,25% thể tích không khí, NH3 không quá 0,01cm3/lít và H2S không quá 0,005cm3/lít. Chiếu sáng tuần đầu 24giờ (15-20lux), tuần thứ 2: 16-18 giờ từ tuần 3 trở đi giảm dần xuống còn 10giờ (5-7lux). Máng ăn 1,5- 2cm/con tuần đầu, những tuần sau 2-3cm/con, nuôi vịt giống có thể 10-15cm/con; máng uống tương ứng với tuần tuổi trên là 1,2-1,5cm/con và 1,5-2cm/con và 1015cm/con. Ở ngan: yêu cầu nhiệt độ 30-32 0C ở tuần đầu, giữ ổn định nhiệt độ 21-240C tới tuần thứ 4, sau 4 tuần là 15-200C. Các yêu cầu khác tương tự như ở vịt. Máng ăn 2,0- 2,5cm/con tuần đầu, những 235 tuần sau 3-4cm/con, nuôi vịt giống có thể 10-15cm/con; máng uống tương ứng với tuần tuổi trên là 2,0-2,5cm/con và 2,5-3,0cm/con và 12-16cm/con. 7.2.2. Kỹ thuật nuôi dƣỡng gà dò Sau khi kết thúc giai đoạn gà con, nếu nuôi thịt (broiler) thì gà được xuất chuồng 8-10 tuần tuổi, nếu nuôi thả hoặc nuôi sinh sản gà được chuyển nuôi theo quy trình nuôi gà dò. Nếu nuôi gà giống thì chuyển qua giai đoạn nuôi gà hậu bị cho đến 20-22 tuần tuổi. Gà dò cơ thể đã phát triển hoàn thiện nên ít chịu ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh. Trong chuồng nuôi không cần nguồn sưởi, quây, rèm che và có thể nuôi chăn thả ngoài sân vườn… 7.2.3. Kỹ thuật nuôi dƣỡng gà đẻ (gà sinh sản) Gà hướng thịt sau 22 tuần tuổi, gà hướng trứng sau 20 tuần tuổi chuyển qua giai đoạn nuôi gà đẻ trứng thương phẩm. Cũng ở độ tuổi này nhưng là gà sinh sản lấy trứng giống đem ấp được gọi là gà giống và chăn nuôi theo quy trình nuôi gà giống. Yêu cầu gà giống khác gà thương phẩm là phải đảm bảo tỉ lệ trống/ mái thích hợp để có tỉ lệ phôi, tỉ lệ ấp nở cao. Gà đẻ trứng thương phẩm thường loại thải sau 1 năm đẻ (500-550 ngày tuổi), gà giống sinh sản có thể kéo dài hơn. 7.2.3.1. Đặc điểm gia cầm sinh sản Gia cầm từ khi đẻ quả trứng đầu tiên được xem là gia cầm sinh sản hoặc là gia cầm giống. Gia cầm giống khác gia cầm sinh sản ở chỗ có sự nuôi chung trống mái với tỉ lệ thích hợp để sản xuất ra các quả trứng có phôi, ấp nở ra gà con. Ở gia cầm sinh sản có các đặc điểm sau: - Quy luật của sự đẻ trứng Từ khi đẻ quả trứng đầu tiên gia cầm mái trải qua các biến đổi về sinh lý, sinh hoá có liên quan đến sức đẻ trứng, khối lượng trứng, khối lượng cơ thể và hiệu quả sử dụng thức ăn. Ở gia cầm tơ hay gà mái đẻ trứng năm đầu quy luật đẻ trứng diễn ra theo ba pha: 236 +Pha 1: Thường là từ khi đẻ quả trứng đầu tiên đến hết ba tháng đẻ trứng. Trong pha này sản lượng trứng đẻ tăng từ ngày đẻ đầu tiên đến khoảng 2-3 tháng đẻ. Đồng thời với tăng sản lượng trứng, khối lượng trứng, khối lượng cơ thể gà mái tăng lên. Pha đầu tiên của sự đẻ trứng thường kết thúc lúc 42 tuần tuổi. +Pha 2: Sau khi sản lượng trứng đạt đỉnh cao thì pha 2 của sự đẻ trứng băt đầu. Lúc này sản lượng trứng giảm từ từ nhưng khối lượng trứng và khối lượng cơ thể gà không giảm, giai đoạn cuối gà mái có biểu hiện tích luỹ mỡ. Pha 2 kéo dài đến khoảng 62 tuần tuổi, khi sức đẻ trứng giảm xuống còn 65% so với tổng số gà mái đẻ trong ngày. + Pha 3: Pha 3 tiếp theo pha 2 cho đến khi gà mái có biểu hiện thay lông. Trong pha này sản lượng trứng giảm đến khi ngừng đẻ hẳn. Khối lượng trứng giảm nhẹ hoặc ổn định, nhưng chi phí thức ăn để sản xuất trứng tăng lên. Gà đẻ trứng các năm sau, quy luật đẻ trứng diễn ra tương tự như gà đẻ trứng năm đầu nhưng sản lượng trứng và thời gian kéo dài đẻ trứng giảm đi. Sản lượng trứng theo năm đẻ ở gà và các đối tượng gia cầm khác có khác nhau thể hiện trên bảng 7.2. Trên thực tế gà đẻ trứng thương phẩm chỉ sử dụng 1 năm đẻ trứng, gà giống có thể sử dụng ở cả năm đẻ thứ 2. Vịt sử dụng 2-3 năm, ngỗng 3-4 năm, gà tây 3-4 năm. Đồ thị về quy luật đẻ trứng của gà mái thể hiện ở hình 7.5; 7.6. 237 Pha 1 Pha 2 Pha 3 Thay lông Hình 7.5. Đồ thị về quy luật đẻ trứng ở gà năm đầu Năm đẻ thứ nhất Năm đẻ thứ hai Năm đẻ thứ ba Hình 7.6. Đồ thị về quy luật đẻ trứng ở gà qua các năm Bảng 7.2: Sản lƣợng trứng qua các năm đẻ trứng ở gia cầm (%) Năm đẻ I II III IV V Gà 100 75 45 - Vịt 100 115 95 50 - Ngỗng 100 110 125 85 48 238 Gà tây 100 110 120 80 45 Quá trình hình thành trứng diễn ra trong một thời gian dài và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nội tại cũng như ngoại cảnh. Từ khi tế bào trứng hình thành ở buồng trứng, quá trình phát dục, chín và rụng khỏi buồng trứng, di chuyên trong ống dẫn trứng để hình thành lòng trắng, màng vỏ trứng, vỏ trứng và dược đẻ ra ngoài diễn ra trong thời gian dài (bảng 2.3, 2.4, chương 2) và chịu ảnh hưởng của nội tiết tố, trạng thái sinh lý của gia cầm, điều kiện dinh dưỡng, điều kiện môi trường sống: nhiệt độ, ánh sáng, thời tiết…Vịt nhà thường đẻ tập trung từ 0 đến 8 giờ, vịt khakicampbell có 97% tổng đàn đẻ lúc 7 giờ. Gà đẻ tập trung từ 10-13 giờ. Sản phẩm do gia cầm mái tạo ra có giá trị dinh dưỡng cao. Trong đó hàm lượng protein chiếm 18-23%, trong protein có đầy đủ các axitamin thiết yếu và cân đối với các yếu tố dinh dưỡng khác. Vì vậy giá trị sinh vật học của trứng là 100%. Thịt gia cầm có hàm lượng các chất dinh dưỡng cao, tính ngon miệng cao. Thịt gia cầm chứa hàm lượng protein 21% (trong khi ở thịt bò là 16%, thịt lợn là 11%). Thành phần hoá học và giá trị năng lượng của thịt gia cầm tình bày trên bảng 7.5). Bảng 7.5. Thành phần hoá học và nhiệt năng (Q-kcalo) có trong 100g thịt gia cầm Loại gia cầm Tuần tuổi Nƣớc Lipid Protêin khoáng Q(kcal) Gà trưởng thành 52 65,5 13,7 19,0 1,0 200 Gà thịt Broiler 46 67,5 11,5 19,8 1,2 180 Vịt trưởng thành 48 49,1 37,0 13,0 0,6 365 Vịt thịt Broiler 34 56,6 26,8 15,8 0,8 294 239 Ngỗng 54 48,9 38,1 12,2 0,8 369 51 60,0 19,1 19,9 1,0 250 trưởng thành Gà tây trưởng thành Thành phần thịt gia cầm thay đổi phụ thuộc vào tuổi, loài, phương thức chăn nuôi và thời gian nuôi. 7.2.3.2. Kỹ thuật nuôi dưỡng gà sinh sản Chọn gà mái đẻ Gà mái đẻ, đặc biệt gà giống cần được chọn lọc kỹ trước khi lên đẻ và trong quá trình cho sinh sản. Ngoài việc chọn lọc theo nguồn gốc, trong quá trình nuôi thường chọn theo ngoại hình để loại thải kịp thời những gà mái đẻ kém ra khỏi đàn, tăng hiệu quả chăn nuôi. Căn cứ vào độ lớn, độ mềm và độ đậm của mào, độ rộng của bụng và vkhoảng cách của hai mỏm xương háng, độ mềm và bóng của niêm mạc hậu môn của gà mái đẻ để chọn lọc. Những gà mái có mào phát triển, mềm, đỏ tượ, độ rộng bụng đặt lọt 3 ngón tay trở lên, bụng mềm, khoảng cách hai mỏm xương háng đặt lọt 2 ngón tay trở lên, mỏm xương háng mềm, niêm mạc hậu môn ướt, mềm, độ đàn hồi cao là những gà mái đẻ tốt. (xem hình 7.7). Mật độ nuôi Mật độ nuôi là số gà /m2 nên chuồng, phụ thuộc vào loài, lứa tuổi, hướng sản xuất và phương thức nuôi. Gà giống hướng trứng nuôi nền: 3,5 con/m2 Gà giống hướng thịt nuôi nền :3 con/m2 Gà thương phẩm nuôi nền : 8-12 con/m2 Gà thương phẩm nuôi lồng 240 : 16-30 con/m2 Hình 7. 7 : Ngoại hình gà mái đẻ tốt (bên trái) và đẻ kém (bên phải) - Nhiệt độ, ẩm độ chuồng nuôi Gà sinh sản nhiệt độ chuồng nuôi tốt nhất là 18-20oC, không quá 25oC. Nếu nhiệt độ nuôi dưới 15oC hoặc cao hơn 30oC ảnh hưởng lớn dến sức đẻ trứng và khối lượng trứng, tỉ lệ gà chết tăng lên. Ẩm độ chuồng nuôi gà sinh sản thích hợp là 60-70%. 241 - Chế độ chiếu sáng: Thời gian chiếu sáng ở gà đẻ không dưới 14h/ngày dêm, tuần đẻ thứ 16 trở đi tăng dần và đạt tối đa là 17h/ngày đêm. Cường độ chiếu sáng 3-4 W/m2 nền. Ánh sáng màu đỏ có lợi cho gà đẻ. - Thức ăn và nuôi dưỡng gà sinh sản Gà mái đẻ (gà sinh sản) cần cho ăn thức ăn hỗn hợp với dinh dưỡng đầy đủ. Trong 1kg thức ăn hỗn hợp gà đẻ cần: Năng lượng trao đổi: 2700-2800 Kcal (11,29-11,71MJ); Protêin thô: 15-18%; Canxi: 2,1-3,2%; Phốt pho: 0,75-0,80%. Số lượng thức ăn cần thiết cho 1 con gà mái đẻ/1ngày đêm phụ thuộc khối lượng cơ thể, sản lượng trứng (bảng 7.6), hoặc xác định theo tuổi và hướng sản xuất của gà (bảng 7.7). Các yế tố dinh dưỡng khác theo hướng dẫn trên bảng 7.8, 7.9. Bảng 7. 6: Thức ăn cho gà mái đẻ (g/ngày đêm) theo khối lƣợng (P) gà và sản lƣợng trứng (SLT) khác nhau SLT (quả/ năm) P gà 1,75kg/ con P gà 2,00kg/ con P gà 2,25kg/ con P gà 2,50kg/ con P gà 2,75kg/con 120 102,5 111,5 120 128 136 150 109 117,5 126 134 142 180 115 124 132,5 140,5 148,5 210 121,5 130 138,5 147 154,5 240 128 136 145 153 161 242 Bảng 7. 7: Lƣợng thức ăn cho gà sinh sản (g/ngày/con) Tuần tuổi Gà hƣớng Gà hƣớng Gà thƣơng phẩm thịt trứng nuôi lồng 23-24 100-130 107-112 105-110 25-26 120-140 110-120 110-115 27-28 140-155 110-120 110-115 29-42 140-155 110-120 110-115 43-52 135-150 110-118 110-115 53-64 130-145 108-115 105-110 Máng ăn, máng uống Máng ăn, máng uống đảm bảo đủ cho gà và phân bố đều trong chuồng nuôi, tốt nhất sử dụng máng ăn, máng uống tự động. Ổ đẻ, cầu đậu Trong chuồng nuôi gà sinh sản cần có ổ đẻ và sào đậu (cầu đậu). Ổ đẻ được treo trên tường hoặc đặt trên mặt đất, kích thước có thể khác nhau (hình 7.8). Đối với gà giống theo dõi cá thể, ổ đẻ cần có cửa sập (tự động). Mỗi ổ đẻ dùng cho 3-4 gà mái. Cầu đậu (sào đậu). Gia cầm xuất phát từ lớp chim nên thích đỗ trên cao. Trong chuồng nuôi gà, nhất là gà đẻ phải bố trí các cầu đậu. Cầu đậu là các thanh tre, gỗ vót nhẵn kích thước 0,2 x 0,4cm, đóng dọc cách nhau 3-4 cm, hoặc nghiêng cách nhau 25-30cm, tạo thành các giá đỗ hay cầu đậu. Chiều dài cầu đậu dành cho mỗi con gà 810cm (hình 7.9). 243 Hình 7.8: Ổ đẻ dùng cho gia cầm mái 244
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng