Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ 01 tl_gom_hoan_chinh_6537...

Tài liệu 01 tl_gom_hoan_chinh_6537

.DOC
37
186
149

Mô tả:

Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH  TIỂU LUẬN: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẬT LIỆU GỐM TRONG 10 NĂM GẦN ĐÂY HV : NGUYỄN THỊ PHƯỚC HÒA GVGD : TS. PHAN THỊ HỒNG TUYẾT LỚP : HÓA VÔ CƠ K19 TP.HCM, Tháng 06 – 2012 I. MỞ ĐẦU Lớp: Hóa vô cơ K19 1 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa Công nghiệp gốm sứ là một trong những ngành cổ truyền được phát triển rất sớm. Từ hơn 9000 năm trước công nguyên vật liệu gốm đã được con người biết đến và sử dụng. Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, vật liệu gốm càng ngày càng được sử dụng rộng rãi, đặc biệt sự ra đời của nhiều loại gốm mới với nhiều đặc tính ưu việt đang trở thành đề tài được rất nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước quan tâm nghiên cứu. Gốm sứ xét về mặt cấu tạo chỉ là một loại vật liệu là gốm có tên tiếng anh là Ceramic. Đây là loại vật liệu được chế tạo từ các vật liệu vô cơ phi kim loại (là các loại oxid, carbide, nitride, silicate…) sản phẩm Ceramic được tạo hình từ sự phối trộn các vật liệu trên rồi nung kết khối ở nhiệt độ cao. Phân loại theo công dụng thì ta có gốm kỹ thuật và gốm dân dụng. Trong gốm dân dụng thì tùy theo chất lượng nguyên liệu (loại nguyên liệu, độ tinh khiết của nguyên liệu… chủ yếu là đất sét cao lanh) và chế độ điều chế (nhiệt độ…) mà ta có thể chia thành các sản phẩm sành, gốm (pottery), sứ (porcelain, china). Trong gốm kỹ thuật thì ta có các loại vật liệu như: gốm xây dựng, vật liệu chịu lửa, vật liệu bền hóa học, đồ gốm tinh, gốm đặc biệt có những tính chất từ, điện, nhiệt đặc biệt. Một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công và giá trị của gốm đó là men gốm. Men gốm sứ là một lớp thủy tinh có chiều dày từ 0,15–0,4 mm phủ lên bề mặt xương gốm. Lớp thuỷ tinh này hình thành trong quá trình nung và có tác dụng làm cho bề mặt sản phẩm trở nên sít đặc, nhẵn, bóng. Đây là một chất liệu chứa nhiều thành phần hóa học, được tạo ra dưới sự phối hợp nhiều loại hóa chất. Đồng thời, chất men tốt còn thể hiện được khả năng của người pha chế, pha trộn của nhiều chất hóa học dưới một tỷ lệ thích hợp, mà những người thực hiện công đoạn này cần phải nắm đầy đủ các nguyên tắc của các hóa chất, tạo ra một hỗn hợp có chất lượng cao, đạt tới những tiêu chí cao nhất về độ lửa, độ trong, bóng, độ thấu quang v.v… Chính vì vậy, trong những năm gần đây, việc nghiên cứu cũng như áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực vật liệu gốm sứ rất được quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu, tìm ra những vật liệu gốm mới, độc đáo đã được công bố. Lớp: Hóa vô cơ K19 2 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa Thế nhưng, việc nghiên cứu hiện vẫn còn rất ít, chưa tập trung, số lượng vật liệu mới chưa thực sự nhiều nên sảm phẩm trong nước có tính cạnh tranh chưa cao trên thị trường. Do vậy, tôi đã chọn đề tài tiểu luận: “Tình hình nghiên cứu vật liệu gốm trong 10 năm gần đây” để chúng ta có cái nhìn tổng quát về tình hình nghiên cứu trong nước. Xâu chuỗi các hoạt động nghiên cứu sẽ giúp chúng ta đánh giá được ưu, nhược điểm của gốm sứ Việt Nam, để từ đó, thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, góp sức cho sự phát triển của ngành công nghiệp sản xuất gốm sứ trong nước. II.NỘI DUNG 1. Lịch sử đồ gốm Việt Nam: Nghề làm gốm là một trong những nghề có truyền thống lâu đời nhất tại Việt nam. Kết quả khảo cổ học cho biết đồ Gốm đã được người Việt chế tác, sử dụng cách đây khoảng 10.000 Lớp: Hóa vô cơ K19 3 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa năm. Trải qua năm tháng, Gốm sứ không chỉ còn là những đồ dùng thủ công phục vụ nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người: chén, nồi, ấm, đĩa… mà còn hơn thế, gốm sứ đã trở thành một nét hồn dân tộc, trở thành một vẻ đẹp riêng, một niềm tự hào riêng nói lên cốt cách, tâm hồn của cả một đất nước. Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lí và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả và Thổ. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời đại: 1.1 Gốm thời Lý (1010-1224) Đồ gốm tráng men thời Lý có: gốm men trắng ngà, men nâu và men ngọc màu xanh. Gốm men ngọc thời Lý rất tinh tế, xương đất được lọc kỹ, dày và chắc. Lớp men gốm dày phủ kín xương gốm, mịn, bóng, sờ có cảm giác mát tay. Xương gốm và lớp men bám vào nhau rất chắc. Men trong suốt, sâu thẳm, mịn, lấp lánh ánh sáng. Gốm men ngọc xanh có điểm thêm các sắc vàng chanh, vàng xám nhạt, vàng rơm. Gốm men trắng thời Lý có độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã đạt tới trình độ sứ. Sự khác nhau giữa gốm trắng thời Lý và gốm trắng Tống (Trung Quốc) chủ yếu được nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xương gốm và kỹ thuật chế tác. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng thời Lý với gốm trắng Tống. 1.2 Gốm thời Trần (1225-1339) Gốm thời Trần tìm được khá nhiều trong các hố khai quật và thường được tìm thấy cùng với những đồ gốm trang trí kiến trúc cùng thời. Gốm thời kỳ này có rất nhiều loại, gồm các dòng gốm: men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam. Do phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu Lớp: Hóa vô cơ K19 4 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa men và hoa văn trang trí. Cũng chính vì đặc thù này nên việc phân tách giữa gốm thời Lý và gốm thời Trần là điều không phải dễ dàng. Tuy nhiên, dựa vào một số kết quả nghiên cứu kỹ thuật tạo chân đế, hiện nay chúng tôi bước đầu đã có thể phân biệt được sự khác nhau giữa gốm Lý và gốm Trần. Nhìn chung, kỹ thuật tạo chân đế của gốm thời Trần thường không được làm kỹ như gốm thời Lý. Về hoa văn trang trí cũng vậy, mặc dù có cách bố cục hoa văn như thời Lý, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ như gốm thời Lý. Đặc biệt đối với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn khắc chìm, thời Trần còn phổ biến loại gốm có hoa văn in khuôn trong. Dường như đây là loại hoa văn rất phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về hình mẫu so với gốm thời Lý. Tại hố đào ở khu D cũng đã tìm thấy mảnh khuôn in gốm thời kỳ này cùng nhiều mảnh bao nung, con kê và đồ gốm phế thải. 1.3 Gốm thời Lê sơ (1428-1526) 1.3.1 Chu Đậu Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây là trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp, xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê thì bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Chu Đậu chuyên sản xuất đồ gốm sứ cao cấp, đa dạng về các loại hình sản phẩm như chén, bát, hộp sứ, lọ, bình, tước… được trang trí bằng nhiều loại men màu, phổ biến là men trắng trong, hoa lam, Lớp: Hóa vô cơ K19 5 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa men ngọc. Một số sản phẩm tráng tới 2 màu men. Hoa văn chủ đạo là sen, cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người. 1.3.2 Bát Tràng Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần và thường cung cấp cống phẩm cho nhà Minh. Trước đây, người làng vốn ở làng Bồ Bát hay Bạch Bát (Thanh Hóa) di cư đến lập nghiệp, đặt tên làng mới là Bạch Thổ phường (phường đất trắng), sau đổi là Bá Tràng phường, cuối cùng mới lấy tên Bát Tràng phường (nơi làm bát). Sản phẩm của Bát Tràng gồm bát, đĩa, chậu, ấm, bình vôi, bình hoa, gạch, ngói… Men trang trí có phong cách đặc trưng riêng; hình dáng sản phẩm dày dặn chắc khỏe. Sản phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng. Những đồ gốm sứ thời Lê Sơ trang trí rồng 5 móng, lòng ghi chữ Quan hay chữ Kính. Như vậy có thể tạm kết luận rằng: việc tìm thấy những đồ ngự dụng trong khu vực khai quật không những cung cấp nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long, mà còn góp thêm bằng chứng tin cậy để củng cố ý kiến cho rằng: các dấu tích kiến trúc lớn ở đây là những cung, điện của trung tâm Hoàng thành Thăng Long. 1.4 Gốm thời Hậu Lê (1593-1789) Nhìn chung, gốm thời Lê – Mạc và Lê Trung Hưng có chất lượng thấp, hoa văn trang trí đơn giản và phát triển mạnh theo xu hướng dân gian. Những sưu tập đồ gốm tìm được từ các hố khai quật phần nhiều là sản phẩm của các lò gốm vùng Hải Dương và Bát Tràng. Tình hình này có sự khác biệt lớn so với gốm thời Lê Sơ. Gốm thời Lê Sơ có bước phát triển đột biến với sự bùng nổ các trung tâm sản xuất gốm lớn, nhất là vùng Hải Dương. Thời kỳ này gốm hoa lam, gốm men trắng và gốm vẽ nhiều màu đạt đến đỉnh cao của sự tinh mỹ. Bằng chứng từ những phát hiện trên các con tàu đắm ở Hội An (Quảng Nam), Pandanan (Philippin)… cho thấy Lớp: Hóa vô cơ K19 6 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa những đồ gốm này đã từng là mặt hàng chủ đạo trong việc xuất khẩu ra thị trường quốc tế. 1.5 Gốm thời nhà Mạc Chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp trong thời gian này là cởi mở, không chủ trương “ức thương” như trước nên kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợi hơn; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như công chúa Phúc Tràng, phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn, Mỹ quốc công phu nhân… Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Đồ sứ hoa lam thời các Chúa Nguyễn Giữa thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XVIII các chúa Nguyễn truyền nhau cai trị vùng đất Nam Hà. Dựa theo tinh thần: “Cư trần lạc đạo” thời Lý-Trần, chúa Nguyễn đưa ra chủ trương: “Cư Nho mộ Thích”, để ổn định tâm lý xã hội đẩy mạnh việc phát triển đất nước vào phương Nam. Đạo Phật được triều đình lẫn quần chúng nhân dân tích cực ủng hộ. Trong vương phủ chúa kiến tạo chùa thờ Phật gọi là: “Giác Vương Nội viện”, thường thỉnh các vị cao tăng vào thuyết pháp để tu tập. Các chùa sắc tứ được xây dựng chư chùa Thiên Mụ, Thiền Lâm (ở Huế), Tam Thai (Quảng Nam), Thập Tháp Di Đà (Quy Nhơn), Kim Cương, Từ Ân (Gia Định)… Nam Hà thời này không có lò gốm chuyên môn có thể chế tác từ khí tốt đẹp như các Lớp: Hóa vô cơ K19 7 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa lò gốm truyền thống ở Bắc Hà (Chu Đậu, Bát Tràng, Thổ Hà). Do đó, để phục vụ cho nhu cầu thờ cúng, trang trí cung điện, chùa chiền chúa Nguyễn đã gửi kiểu mẫu qua đặt lò gốm tại Giang Tây – Trung Quốc. Thuật ngữ đồ sứ ký kiểu (ĐSKK) trong sách này được dùng để chỉ những đồ sứ do người Việt Nam, gồm cả vua, quan và thường dân, đặt làm tại các lò gốm sứ Trung Hoa trong khoảng thời gian từ nửa sau thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, với những yêu cầu riêng về kiểu dáng, màu sắc, hoa văn trang trí, thơ văn minh hoạ và hiệu đề. Những đồ sứ này, trước nay, được biết đến bởi hai tên gọi phổ biến: “bleus de Huê” (Tiếng Pháp) và đồ sứ men lam Huế (Tiếng Việt). Ngoài ra, từ năm 1994 tới nay, các nhà nghiên cúu trong và ngoài nước đã có những cuộc tranh luận trên báo chí về tên gọi cho nhóm đồ sứ này và đưa ra nhiều thuật ngữ khác nhau như: Đồ sứ men trắng vẽ lam, đồ sứ ngự dụng và quan dụng thời Lê – Nguyễn, đồ sứ ký kiểu của Triều Nguyễn, gốm men xanh trắng của triều Nguyễn, gốm lam Huế, đồ sứ đặc chế, đồ Lam Huế, đồ sứ đặt hàng, gốm sứ Việt Nam đặt làm tại Trung Hoa…. 2. Cách sản xuất gốm sứ và men sứ: 2.1 Men gốm sứ: Men gốm sứ là một lớp thủy tinh có chiều dày từ 0,15–0,4 mm phủ lên bề mặt xương gốm. Lớp thuỷ tinh này hình thành trong quá trình nung và có tác dụng làm cho bề mặt sản phẩm trở nên sít đặc, nhẵn, bóng. - Công thức và nguyên liệu: Men gốm sứ tuy bản chất là thủy tinh nhưng phối liệu không hoàn toàn giống, bởi thủy tinh thông thường khi nấu có thể chứa trong bể khuấy cho đồng nhất và khử bọt. Men khi nóng chảy phải đồng nhất mà không Lớp: Hóa vô cơ K19 8 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa cần một sự trợ giúp cơ học nào, nên phối liệu phải không có vật chất nào không thể tạo pha thủy tinh. Do đó, điều cần thiết đầu tiên là phải tạo được một hỗn hợp chảy lỏng đồng nhất ở nhiệt độ mong muốn. - Quy trình sản xuất xương men: Nguyên liệu gồm có cao lanh, đá trường thạch, đất sét trắng. Các nguyên liệu trên được phối chế theo tỷ lệ nhất định, phù hợp với nhiệt độ nung theo yêu cầu sản xuất sản phẩm. Để đạt được nhiệt độ nung theo ý muốn, cơ sở sản xuất nguyên liệu xương men phải có các công thức phối chế phù hợp. Sau khi nguyên liệu được phối chế được đưa vào bình nghiền bi có công suất từ 8 – 12 tấn/mẻ và nghiền trong 48 giờ. Trước khi lấy nguyên liệu bột ra, cán bộ kỹ thuật phải kiểm tra độ nhỏ của hạt. Nếu đảm bảo các yếu tố kỹ thuật mới được ra bột. Nguyên liệu sau khi nghiền được đưa qua bộ phận múc lọc để loại bỏ tạp chất và những hạt có kích thước lớn. Cán bộ kỹ thuật kiểm tra độ nhỏ của cỡ hạt nguyên liệu, nếu thấy đảm bảo mới được bơm qua bộ phận khử từ. Nguyên liệu sạch được đưa vào máy ép lọc khung bản, được lấy ra khi độ ẩm nguyên liệu chỉ còn 22 – 24%, đưa qua máy luyện và đưa vào phòng ủ ẩm ít nhất 15 ngày trước khi đưa vào sản xuất. Quá trình ủ có tác dụng làm tăng độ dẻo của nguyên liệu, dễ tạo hình trong quá trình sản xuất. Nguyên liệu sau khi ủ được đưa qua máy luyện và hút chân không sau đó đóng vào túi nilon để bảo quản và vận chuyển. Trước khi đưa vào sản xuất đại trà, phải nung thử nguyên liệu để kiểm tra đánh giá chất lượng nguyên liệu. Để đảm bảo tính ổn định, không xảy ra các sai sót, mỗi lô hàng được sản xuất từ 150 – 200 tấn và được kiểm tra kỹ về mặt chất lượng trước khi đưa vào sản xuất đại trà hoặc bán. Để có được nguyên liệu chất lượng cao, cơ sở sản xuất phải tuyển chọn cẩn thận nguyên liệu đầu vào và các nguyên liệu trên phải được mua từ các nhà cung cấp có uy tín, với số lượng lớn, chất lượng ổn định. Trong quá trình nóng chảy và ngay sau đó, các ôxít trong men phản ứng với bề mặt xương gốm để tạo nên một lớp trung gian. Phản ứng này rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến độ bền cơ học của men, nó không chỉ phụ thuộc thành phần hóa học chung của men mà còn phụ thuộc từng ôxít riêng. Do đó, điều cần thiết thứ hai là thành phần hóa của men gốm sứ phải gần giống thành phần hóa của xương gốm. Lớp: Hóa vô cơ K19 9 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa - Quá trình làm nguội (giảm nhiệt) xảy ra ngược với quá trình nung (tăng nhiệt). Nếu hệ số giãn nở nhiệt của men gốm sứ và xương không phù hợp nhau sẽ gây ra bong hoặc nứt men. Do đó, điều cần thiết thứ ba là hệ số giãn nở nhiệt của men và xương phải phù hợp nhau. Men nung xong phải cứng, nhẵn, bóng (ngoại trừ men mat). Bên cạnh đó, tính trong suốt, không màu, tính sáng bóng của men không phải lúc nào cũng như mong muốn. Nếu xương gốm có màu thì phải dùng men đục để che lấp màu của xương, ngoài ra có thể chế tạo men mat (bề mặt như sáp), men kết tinh và vô số men màu khác. Do đó, điều cần thiết thứ tư là thành phần hóa của men phải được điều chỉnh sao cho men có được các tính chất cơ-lý-hoá-quang mong muốn. 2.1 Sản xuất gốm sứ : Việc sản xuất gốm, sứ tuy khác nhau ở mỗi cơ sở sản xuất nhưng đều gồm những công đoạn chung trình bày trên Sơ đồ 1: quy trình công nghệ sản xuất gốm sứ. Sự khác nhau về công nghệ chủ yếu được phân biệt ở khâu nung sản phẩm. Hiện có 3 loại lò nung đang được các doanh nghiệp sử dụng là lò thủ công truyền thống, lò tuynel và lò gas con thoi. Trong đó các doanh nghiệp quy mô nhỏ chủ yếu sử dụng lò thủ công truyền thống; các doanh nghiệp quy mô vừa chủ yếu sử dụng lò gas con thoi. Đầu tư, năng suất, chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất, mức độ sử dụng năng lượng và mức độ phát thải khí nhà kính lệ thuộc chủ yếu vào loại lò nung. Sử dụng lò thủ công truyền thống tuy chi phí sử dụng năng lượng thấp, nhưng phát thải khí CO2 lại rất cao, do sử dụng nhiên liệu chủ yếu là than cám, củi và các nhiên liệu phụ khác. Lớp: Hóa vô cơ K19 10 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa Sơ đồ 1:Quy trình công nghệ gốm sứ Giới thiệu công nghệ sản xuất gốm sứ: Đất dẻo trước khi đưa vào tạo hình sẽ được đưa qua máy luyện và hút chân không lần hai và được đùn ra với các kích thước có đường kính khác nhau tuỳ thuộc vào sản phẩm sản xuất. Sau đó được đưa qua bàn cắt và đưa vào máy ép lăn, sản phẩm tạo hình được đưa qua buồng sấy. Tiếp theo, sản phẩm được đưa qua các công đoạn: sửa, nung sơ (nhiệt độ nung là 700OC), chuốt hàng, trang trí sản phẩm, làm men, cắt chân, lò nung. Sản phẩm ra lò sẽ được bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm phân loại chất lượng, mài chân, đóng gói trước khi đưa ra tiêu thụ. Lớp: Hóa vô cơ K19 11 Đại Học Vinh Quy trình nung đốt trong lò thủ công truyền thống: Nguyễn Thị Phước Hòa Quá trình chuẩn bị: Sản phẩm trước khi nung được đặt vào trong các bao nung bằng Samốt. Khi xếp vào trong lò, nhiên liệu than và bao nung sản phẩm được xếp xen kẽ. Quá trình chồng lò là một quá trình lao động nặng nhọc với hàng chục tấn hàng được đưa lên cao từ 6 đến 7 m. Kỹ thuật xếp lò do những người thợ giàu kinh nghiệm thực hiện. Trong quá trình nung đốt, người thợ không điều khiển được nhiệt lượng cung cấp cho lò nung. Môi trường nung không sạch, điều đó dẫn đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất không cao. Theo tính toán, tỷ lệ sản phẩm thu hồi khi nung bằng lò thủ công truyền thống là 65 – 75%. Nhiên liệu chủ yếu là loại than cám 5, cám 6. Trước khi đưa vào lò nung đốt, than được pha trộn theo công thức 50% than cám, 50% chất độn bao gồm giả đất, xỉ than, bùn và nước. Sau đó đóng thành các bánh tròn có đường kính khoảng 13 đến 15 cm, phơi khô trước khi đưa vào lò đốt. Quá trình nung đốt: Công đoạn nung đốt là công đoạn tiêu hao năng lượng chủ yếu. Quá trình nung gồm 3 giai đoạn: + Giai đoạn sấy: Trước khi nung, sản phẩm được sấy từ 1 đến 3 giờ, tuỳ thuộc vào kích cỡ của sản phẩm. Các sản phẩm có kích cỡ lớn phải được sấy lâu hơn để tránh bị nứt trong khi nung. Mục đích của quá trình sấy là giảm độ ẩm trong sản phẩm nung, nhiệt độ sấy thường vào khoảng 200 OC. + Giai đoạn nung (nhiệt độ từ 200 – 1200 0C): Sau giai đoạn sấy, nhiên liệu được đưa thêm vào buồng đốt và đốt trong khoảng thời gian từ 4 – 5 giờ. Thời gian bảo ôn là 30 phút. Khi ngọn lửa trong gầm gi sáng trắng là lúc than trong lò đã cháy đều, lúc đó dừng đốt củi để than tự cháy trong lò. Quá trình này kéo dài từ 10 – 12 giờ. Quá trình nung đốt lò than thủ công được thực hiện chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nung đốt của các thợ lò. Quá trình cháy trong lò là một quá trình tự nhiên, nhiệt độ nung phụ thuộc vào chất lượng than cám, cách phối liệu, đấu chế và số lượng than chồng vào lò. Theo kinh nghiệm khi chồng lò thì lượng than chồng ở xung quanh tường lò và cửa lò nhiều hơn ở giữa lò. Than dùng trong gầm gi được Lớp: Hóa vô cơ K19 12 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa đấu chế có tỷ lệ than cao hơn để dễ bén trong quá trình nung (tỷ lệ than 80%, chất độn 20%). Giai đoạn làm nguội: Quá trình làm nguội là một quá trình tự nhiên, thời gian từ khi chồng lò đến khi ra lò phải mất từ 4 – 5 ngày tuỳ theo sản phẩm nung đốt lớn hay nhỏ. Trong quá trình dỡ lò, vì sản phẩm và nhiên liệu được xếp chồng xen kẽ nên đây cũng là một khâu rất nặng nhọc, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động do bụi than và hơi nóng.  Quy trình nung đốt bằng lò gas con thoi: Giới thiệu về lò gas con thoi: Lò gas con thoi có dạng hình hộp vuông hoặc chữ nhật, lò có nhiều kích cỡ khác nhau, thể tích lò từ 1 – 36 m 3. Lò được cấu tạo gồm vỏ lò, xe nung (xe goòng), phà trung chuyển, hệ thống đường ray, ống khói, hệ thống cấp nhiên liệu, đồng hồ đo nhiệt độ, đầu dò nhiệt (can nhiệt), hệ thống ống dẫn ga từ kho tới lò, van điều áp, đồng hồ đo áp suất, hệ thống bép phun liệu nằm hai bên sườn lò, bình bọt an toàn. Xe nung mặt trên có các kênh dẫn khói, kênh khói được thông với ống khói qua vách hậu lò, ống khói có hệ thống để điều chỉnh áp suất trong buồng nung. Nhiên liệu của lò gas con thoi là gas hoá lỏng LPG gồm 2 loại chính là butan 50% C4H10 + propan 50% ; nhiệt lượng = 11.827 kcal/kg. Quy trình vận hành lò gas con thoi: Các công đoạn làm mộc tương tự như lò thủ công truyền thống. Lò gas được trang bị các tấm kê nung bằng vật liệu chịu nhiệt cao. Công đoạn chồng xếp lò theo trình tự: từng lớp sản phẩm trên mặt xe, lớp nọ cách lớp kia bằng các cục kê giữa các tấm kê, sản phẩm được xếp ở dạng như các giá hàng. Lúc xếp sản phẩm, xe nung để ở ngoài. Khi xếp đủ sản phẩm, đủ chiều cao, xe được đẩy vào buồng lò. Sau khi kiểm tra an toàn, bắt đầu châm lửa một số bép phun để dấm sấy (chú ý chưa vội đóng cửa lò để tránh nổ khi lượng gas trong lò cao) khoảng 2 – 3 giờ hoặc dài hơn tuỳ theo sản phẩm dày mỏng. Khi đạt được nhiệt độ sấy như yêu cầu thì châm lửa toàn bộ bép và điều chỉnh áp theo quy định từng giai đoạn. Nâng nhiệt theo quy trình đường cong nung, đồng hồ báo tới nhiệt thiêu kết, tuỳ theo chủng loại sản phẩm mà điều chỉnh áp để bảo ôn dài hay Lớp: Hóa vô cơ K19 13 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa ngắn nhằm làm cho sản phẩm kết khối. Nguyên lý cháy của lò gas là nhiên liệu được phun từ 2 hàng bép bố trí dọc hai bên sườn lò, cháy tự nhiên, chuyển động theo hướng lên nóc và cuộn ngang, chạy vào kênh dẫn khói theo nguyên lý lửa đảo, trên đường đi dòng khí cháy cấp nhiệt cho sản phẩm. Thời gian gia nhiệt và suất tiêu hao nhiên liệu cho một mẻ lò phụ thuộc vào chủng loại sản phẩm và nhiệt độ thiêu kết. Khi nung xong, lò được làm nguội tự nhiên, nhiệt độ được hạ xuống đến 100 – 200 OC là an toàn đối với sản phẩm. Nguyên liệu và sản phẩm: Nguyên liệu chính cho sản xuất gốm sứ là cao lanh, đá trường thạch, đất sét trắng. Các chuyên gia khẳng định rằng Việt Nam có nhiều mỏ khoáng sản chất lượng cao, có thể sản xuất men và màu cho sản xuất gốm sứ. Cả nước hiện có 123 mỏ cao lanh trữ lượng 640 triệu tấn; 184 mỏ sét đỏ trữ lượng 1.130 triệu tấn; 39 mỏ sét trắng trữ lượng 53 triệu tấn; 13 mỏ thạch anh và 20 mỏ cát thạch anh có tổng trữ lượng 2.130 triệu tấn; 25 mỏ dolomit trữ lượng 800 triệu tấn. Sản xuất gốm sứ ở Việt Nam đã trải qua nhiều thế kỷ, các công thức sản xuất xương, men, màu vẫn là những bí quyết của các làng nghề. Nguồn nguyên liệu chất lượng cao, cùng với những bí quyết sản xuất lâu đời kết hợp với công nghệ hiện đại ngày nay đang tạo ra những sản phẩm gốm tinh xảo hơn, đáp ứng được nhu cầu và kỳ vọng của người sử dụng trong nước và quốc tế. Các sản phẩm gốm sứ hiện nay rất phong phú, gồm nhiều chủng loại khác nhau. Từ các sản phẩm truyền thống như các loại bình, lọ, ấm chén, bát đĩa... hiện nay đã phát triển thêm nhiều sản phẩm có giá trị cao hơn như các sản phẩm gốm sứ trang trí nội ngoại thất, tranh gốm nghệ thuật, đồ trang sức, sứ kỹ thuật, sứ xây dựng.... 3. Những thuận lợi và khó khăn trong ngành gốm sứ của Việt Nam trong 10 năm gần đây: 3.1 Khó khăn: Về nguyên liệu: Hiện nay nhiều nhà sản xuất gốm sứ trong nước vẫn còn phải nhập nguyên liệu cao lanh, đất sét, men, tràng thạch... trong khi trữ lượng nguyên liệu trong nước cao gấp nhiều lần nhu cầu. Riêng năm 2000, kim ngạch nhập khẩu các nguyên liệu trên khoảng gần 50 triệu USD. Nguyên nhân chính là do Lớp: Hóa vô cơ K19 14 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa trong mấy năm qua, chúng ta chỉ tập trung xây dựng các nhà máy sản xuất gốm sứ hiện đại với tốc độ sản lượng tăng chóng mặt nhưng lại chưa quan tâm đến đầu tư khai thác, chế biến nguyên liệu. Theo Hiệp hội gốm sứ Việt Nam, với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp gốm sứ hiện nay, nhu cầu nguyên liệu để sản xuất không ngừng tăng lên. Nếu như năm 2000 là 840.000 tấn nguyên liệu và 44.000 tấn men màu thì dự báo năm 2005 sẽ là 1,4 triệu tấn nguyên liệu, 80.000 tấn men màu và năm 2010 sẽ lên đến 17 triệu tấn nguyên liệu và 100.000 tấn men màu. Phần lớn mỏ nguyên liệu ở ta có trữ lượng lớn nhưng lại chưa được khai thác xử lý hợp lý. Công nghệ khai thác, chế biến còn quá lạc hậu, chủ yếu khai thác thủ công, bán cơ giới, phân tán và manh mún, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghệ sản xuất gốm sứ hiện đại. Phần lớn nguồn nguyên liệu khi đưa vào nhà máy sản xuất đều tiếp tục phải gia công xử lý. + Về cao lanh, ta có 105 mỏ với trữ lượng 639 triệu tấn, nhưng đến nay chỉ có 20 mỏ đang khai thác với công suất nhỏ từ 10.000 - 30.000 tấn/năm, với công nghệ khai thác, tuyển lọc cao lanh ở mức thấp, chất lượng chưa cao, lẫn nhiều tạp chất. + Về đất sét, ta có 39 mỏ sét trắng với trữ lượng 52 triệu tấn nhưng công nghệ khai thác và chế biến chưa tương xứng. Sét đổ có 184 mỏ, nhưng cho đến nay chưa có mỏ nào công nghệ đồng nhất gây khó khăn cho quá trình sử dụng. Về men màu, các cơ sở sản xuất trong nước tự sản xuất mới chỉ đáp ứng 10% nhu cầu và các doanh nghiệp đang phải nhập khẩu với giá đắt ... Chính nguyên liệu không đáp ứng nhu cầu là một nguyên nhân đẩy giá thành gốm, sứ nước ta lên cao. Nếu giải quyết được vấn đề này ngành gốm sứ mới có thể nâng cao được chất lượng mà giá thành hạ. Vì vậy, mục tiêu xuất khẩu 100 triệu USD gốm sứ vào năm 2005 khó trở thành hiện thực. Năm 2001, ngành sản xuất gốm sứ xây dựng mới sản xuất có 68 triệu m2 gạch ốp lát (trong khi năng lực sản xuất là 104 triệu m2), làm được hơn 2,65 triệu sản phẩm sứ vệ sinh trên năng lực 2,8 triệu sản phẩm. Dự kiến, đến năm 2003, năng lực sản xuất gạch ốp lát Ceramic và Granite nhân tạo vào khoảng 120 triệu m2, nghĩa là cung vượt cầu ở tỷ lệ 10/4; sứ vệ Lớp: Hóa vô cơ K19 15 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa sinh sẽ là trên 4,5 triệu sản phẩm, trong khi nhu cầu ở mức 3,5 triệu sản phẩm. Chỉ trong 7 năm, sản lượng gốm sứ xây dựng đã tăng gấp 90 lần. Mục tiêu xuất khẩu gốm sứ xây dựng vào năm 2005 là 100 triệu USD, thế nhưng cả năm 2001, kim ngạch xuất khẩu chưa tới 9 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam chỉ mới bằng 10% so với Malaysia, 7,4% so với Thái Lan. Nếu các Liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chạy hết công suất, Việt Nam đã cầm chắc 19 triệu m2 gạch ốp lát và 435.000 sản phẩm sứ vệ sinh xuất khẩu. Các doanh nghiệp còn lại phải xuất khẩu 11 triệu m 2 gạch lát và hơn 1 triệu sản phẩm sứ vệ sinh khi đó mới có thể đạt được mục tiêu. Tuy nhiên, mục tiêu này không dễ thực hiện, vì các nước xuất khẩu lớn trong khu vực vẫn chưa khai thác hết công suất. Thêm vào đó, các nước này có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn Việt Nam như quan hệ bạn hàng rộng, kinh nghiệm nhiều, sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã rẻ hơn, chi phí vận tải thấp hơn (chi phí vận tải của Việt Nam cao hơn các nước tới 1,5 lần). Các sản phẩm gốm sứ của Việt Nam hiện nay đang bị các sản phẩm gốm sứ Trung Quốc cạnh tranh mạnh. Số doanh nghiệp sản xuất nhỏ, với công nghệ lạc hậu đã giảm đáng kể do không thể cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp lớn có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ đang dần khẳng định được vị thế tại thị trường nội địa cũng như xuất khẩu.  Sản lượng sứ gia dụng toàn ngành: - Năm 2000: 247,1 triệu cái (doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất 227,4 triệu cái). - Năm 2005: 439,9 triệu cái (doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất 346,2 triệu cái). Lớp: Hóa vô cơ K19 16 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa Về quy mô sản xuất: Các doanh nghiệp sản xuất gốm sứ phân bố chủ yếu ở một số tỉnh miền Bắc và miền Nam. Ở miền Bắc tập trung tại các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, thành phố Hà Nội. ở miền Nam tập trung tại các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Long. Các doanh nghiệp gốm sứ chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ gia đình có quy mô nhỏ, tập trung ở các làng nghề truyền thống. Hiện nay một số doanh nghiệp đang có xu hướng chuyển dịch vào các khu công nghiệp để có thể mở rộng sản xuất. Thêm nữa, tình trạng sản xuất phân tán, manh mún. Các nhà máy đa phần đầu tư công suất nhỏ, khoảng 2 - 3 triệu m2/năm. Không ít nhà máy đầu tư đã lâu nên máy móc lạc hậu, cũ nát. Nếu có mở rộng nâng công suất tại các cơ sở này cũng chắp vá, rất khó cạnh tranh về công nghệ. Việc tổ chức thị trường nội địa chồng chéo lãng phí. Điều này cũng do đặc thù đầu tư nhỏ lẻ, phân tán. Nó kéo theo chi phí vận chuyển còn lãng phí kéo dài. Vấn đề "lối ra" của thị trường và cả vấn nạn hàng gốm sứ nhập lậu vào Việt Nam. Trong thời gian qua các công ty sản xuất sứ dân dụng như Hải Dương, Thái Bình, Bát Tràng... đã gặp không ít khó khăn hàng sứ Trung Quốc, Thái Lan nhập lậu trốn thuế vào thị trường Việt Nam bán với giá thấp, trong khi đó chất lượng sản phẩm của ta chưa cao, mẫu mã còn hạn chế. Mặt khác, sự phát triển và đầu tư các ngành trong gốm sứ không đông đều. Những đơn vị sản xuất công nghiệp - đa phần là gốm sứ xây dựng - đã và đang phát triển mạnh mẽ, trong khi dòng gốm thủ công mỹ nghệ đang gặp khó khăn rất lớn. Nếu nói một cách nặng nhọc trên những chiếc xe đạp thồ cũ kỹ Làng nghề gốm thủ công Bát Tràng đang cố gắng trườn tới một hình ảnh thì trong khi “ông bạn” gốm xây dựng (phần lớn đều khởi nghiệp mới chỉ vài chục năm) đang tiếp tục “nhấn ga” chạy khá nhanh trên một chiếc ô tô, thì các làng nghề gốm thủ công với truyền thống mấy trăm năm đang cố gắng trườn tới một cách nặng nhọc trên những chiếc xe đạp thồ cũ kỹ. Làng nghề gốm Bát Tràng nổi tiếng trong nước và cả nước ngoài vẫn chưa thể nhộn nhịp trở lại như thời hoàng kim. Để có được những sản phẩm gốm sứ độc đáo và đẹp, đến tầm nghệ thuật, trước tiên cần có nguyên liệu tốt. Lâu nay ta vẫn có gì dùng nấy, chưa ai nghĩ đến việc cải thiện chất lượng đất nguyên Lớp: Hóa vô cơ K19 17 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa liệu”. Trong khi đó, các nghệ nhân gốm sứ Trung Quốc không chỉ có được nguồn đất nguyên liệu tốt hơn, mà còn rất biết cách “cơ khí hóa” một cách hợp lý nhiều khâu trong quá trình sản xuất nhờ các loại máy công cụ xuất phát từ Trung Quốc, rất đắc dụng và giá cả phải chăng. Về mẫu mã: Các hộ sản xuất chủ yếu làm theo phương thức cha truyền con nối, phục hồi vốn cổ, mẫu do khách đặt, tự thiết kế... nên sản phẩm còn đơn điệu. Việc đầu tư cho mẫu mã đa dạng, hiện đại vẫn chưa được chú trọng. Đa số sản phẩm vẫn còn đơn giản, thô sơ, cấp độ sản phẩm ở mức trung bình, khó hấp dẫn ngay ở thị trường nội địa chứ chưa nói xuất khẩu. Về thị trường: Các chuyên gia cho rằng, thị trường vật liệu xây dựng trong nước đang trong giai đoạn khó khăn. Nguyên nhân là do thị trường vật liệu xây dựng trầm lắng, chịu tác động từ việc thị trường bất động sản đóng băng. Trong khi đó, chi phí đầu vào tăng cao. Các sản phẩm trong nước luôn chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ gốm sứ nhập ngoại. Gạch sứ Trung Quốc tràn sang bằng nhiều nguồn, và điều lo ngại là sản phẩm của họ hiện đại, đa dạng và chất lượng đang ngày càng tốt hơn. Những thách thức này ngày một lớn và còn kéo dài. 3.2 Thuận lợi: Về mặt kỹ thuật: Đến nay, cả nước có khoảng 500 dây chuyền sản xuất gạch, ngói bằng công nghệ Tuynel, đây là công nghệ được xem là tiên tiến nhất trong ngành sản xuất gốm sứ hiện nay của Việt Nam, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được nguyên liệu sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hơn 1/2 sản phẩm gạch, ngói tiêu thụ trên thị trường cả nước đã được sản xuất từ dây chuyền lò nung Tuynel. Qua khảo sát của hiệp hội, hiện nay, các doanh nghiệp trong ngành đang chuẩn bị mở rộng quy mô sản xuất. Mục tiêu sản lượng tối thiểu mà các danh nghiệp đề ra là thấp nhất là 10 triệu m 2/năm. Ngoài thị trường trong nước, các sản phẩm ngành gốm sứ xây dựng Việt Nam đã xuất vào một số thị trường trên thế giới. Như ta thấy, từ các thế kỷ trước, gốm Bát Tràng chủ yếu là đồ thờ. Về sau gốm Bát Tràng đã có nhiều đồ gia dụng, phổ biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ, ấm chén. Và ngày nay, gốm Bát Tràng đã có khá nhiều mặt hàng phong phú về chủng loại và Lớp: Hóa vô cơ K19 18 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa kiểu dáng, bao gồm cả những mặt hàng mỹ nghệ như đĩa treo tường, lọ hoa, con giống, tượng phiên bản và phù điêu với kỹ thuật và công nghệ cao. Các bộ sưu tập gốm sứ Bát Tràng đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật và kỹ thuật chế tạo đồ gốm sứ ở Việt Nam. Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng không những nổi tiếng trong cả nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới từ năm 1990 như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và các nước trong khối EU. Nhiều sản phẩm gốm cổ Bát Tràng đang được lưu trữ tại một số viện bảo tàng lớn trên thế giới như Viện bảo tàng RoyauxBỉ, Viện bảo tàng Guimet-Pháp. Ông John S.Guy làm việc tại viện bảo tàng Victoria and Albert-London đã đánh giá cao về gốm Bát Tràng trong thời nhà Lý -Trần và cho rằng đồ gốm Việt Nam đã nói lên được tính độc lập của dân tộc Việt Nam. Ông còn nói, gốm cổ Bát Tràng quả là niềm tự hào của người Việt Nam và hình ảnh người dân Bát Tràng làm việc miệt mài sẽ là những kỷ niệm trong ký ức của ông. Về nguyên liệu: Lợi thế lớn nhất của các ngành sản xuất gốm sứ Việt Nam là chủ động được nguồn nguyên liệu, nguồn nhân lực dồi dào và Việt Nam nay đã là thành viên của WTO nên thị trường giao thương đã được mở rộng. Vì vậy, Chủ tịch Hiệp hội gốm sứ xây dựng cho rằng các doanh nghiệp cần đẩy mạnh song song với việc tận dụng những lợi thế và kết hợp với việc cải tiến công nghệ, dây chuyền sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Chủ động được nguồn nguyên liệu là điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất. Với đặc điểm ấy, hiện nay, các cơ sở sản xuất gốm, sứ xây dựng đang tập trung tại các địa phương có điều kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu như tại phía Bắc có Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Hưng Yên; tại phía Nam là tập trung tại Bình Dương, Đồng Nai và trong tương lai chuyển về một khu vực mới là Bà Rịa - Vũng Tàu. Về thị trường: Từ năm 2002, các nghệ nhân Bát Tràng bắt đầu liên kết để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thông qua Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng. Những thành viên của hiệp hội không chỉ là những gia đình sản xuất gốm mà còn có cả các công ty kinh doanh gốm sứ. Thông qua hiệp hội, người Bát Tràng có cơ hội tìm hiểu, nắm Lớp: Hóa vô cơ K19 19 Đại Học Vinh Nguyễn Thị Phước Hòa bắt thông tin về thị trường, các kiến thức mới trong công nghệ sản xuất gốm sứ, phương thức buôn bán thời thương mại điện tử và cách nâng cao năng lực cạnh tranh. Mới đây, Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng đã thành lập Trung tâm xúc tiến xuất khẩu Bát Tràng và tiến hành xây dựng thương hiệu "Bát Tràng Việt Nam -1.000 năm truyền thống".Về Bát Tràng bây giờ, du khách sẽ thấy một Bát Tràng-làng cổ tồn tại song song với một Bát Tràng - đô thị. Truyền thống và hiện đại đan xen cả trong tư duy sản xuất, kinh doanh của người làm gốm cũng như trong diện mạo của làng gốm Bát Tràng. Hàng năm, lễ hội làng Bát Tràng được tổ chức vào ngày 15 tháng 2 (âm lịch) và thường kéo dài 7 ngày. Năm 2011, dòng tiền toàn xã hội đang bị thắt lại, sức mua giảm. Những tháng đầu năm nay các nhà máy sản xuất gốm sứ xây dựng chỉ phát huy được khoảng 70% công suất. Tổng công suất gạch ốp lát hiện xấp xỉ 400 triệu m 2, trong số đó khoảng 300 triệu m2 có thể cung cấp ra thị trường. Đó là một tiềm năng rất lớn nhưng chưa được tận dụng đúng như năng lực. Nhu cầu của thị trường xuất khẩu vẫn còn rất lớn. Đây là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của ngành gốm sứ Việt Nam mở rộng quy mô hoạt động. 4. Tình hình nghiên cứu vật liệu gốm trong 10 năm gần đây: 4.1 Hiện trạng: Ngành gốm sứ Việt Nam có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, tạo việc làm và thu nhập cho số đông lao động ở một số địa phương trên cả nước. Hiện nay sản phẩm gốm sứ gia dụng mới đáp ứng được gần 90% nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Mỗi năm giá trị xuất khẩu của ngành đạt trên 260 triệu USD, chiếm 0,5% giá trị GDP. Ở làng nghề gốm sứ xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, Hưng Yên giờ đã không còn ồn ào, tấp nập và bói bụi như trước bởi đã có tới 3/4 số lò nung gốm ngừng hoạt động. Nghề gốm sứ ở đây đang dần mai một. Đồng nghĩa với đó là hàng nghìn lao động của địa phương phải chuyển sang làm nghề khác. Khá nhiều lò đã bị phá bỏ, một số khác thì tạm ngừng hoạt động, cả chủ lẫn thợ đi tìm kiếm nghề khác Lớp: Hóa vô cơ K19 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan