Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975...

Tài liệu Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975

.DOCX
65
151
92

Mô tả:

Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌCSƯ PHẠM TP. HCM KHOANGỮ VĂN VĂN HỌC VIỆT NĂM TỪ 1945- NAY ĐỀ TÀI YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT VIẾT VỀ CHIẾN TRANH SAU 1975 Sinh viên thực hiện: 1. 2. 3. 4. Võ Kim Chuyền – K39.601.014 Phạm Thị Thanh Trúc- K39.601.139 Vũ Thị Thúy- K39.601. 120 Nguyễn Thúy Sinh – K39.601. 110 MỤC LỤC CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT........................................................5 1 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 1. Văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới của văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975.....................................................................................................................5 1.1.Khái niệm văn xuôi nghệ thuật........................................................................5 1.2. Bước phát triển của văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đối mới của văn học Việt Nam giai đoạn Sau 1975................................................................................6 2. Yếu tố kì ảo trong tiến trình văn học Việt Nam...............................................10 2.1. Khái niệm yếu tố kì ảo..................................................................................10 2.2.Dòng chảy của yếu tố kì ảo trong tiến trình văn học Việt Nam.....................11 3. Vị trí đề tài chiến tranh trong văn xuôi sau 1975 và sự đối mới quan niệm về nó. 14 3.1. Vị trí đề tài chiến tranh trong văn xuôi sau 1975.........................................14 3.2. Sự đổi mới quan niệm về đề tài chiến tranh.................................................15 CHƯƠNG II: CÁC DẠNG THỨC XUẤT HIỆN CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT VIẾT VỀ CHIẾN TRANH GIAI ĐOẠN SAU 1975 .................................................................................................................................17 2.1. Motif giấc mơ:..................................................................................................17 2.2. Hồn người chết trở về:......................................................................................20 2.3.Những sự việc có tính chất kì lạ........................................................................22 2.4. Lời nói, hành động lạ thường của nhân vật......................................................23 CHƯƠNG III: YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT VIẾT VỀ CHIẾN TRANH SAU 1975 Ở VIỆT NAM............................................................25 3. Những biểu hiện của yếu tố kì ảo trên phương diện nghệ thuật..........................25 3.1.Sự thể hiện của yếu tố kì ảo qua tình huống truyện:.....................................25 2 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 3.1.1.Tình huống truyện nhuốm màu sắc hoang đường, kì lạ.........................26 3.1.2. Tình huống truyện căng thẳng, kịch tính...............................................28 3.1.3. Tình huống truyện mang tính chất ngẫu nhiên......................................30 3.2. Yếu tố kì ảo và cốt truyện.............................................................................31 3.2.1. Yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng, xuất hiện song hành cùng cốt truyện...............................................................................................................31 3.2.2. Yếu tố kì ảo tham dự vào sự diễn biến của cốt truyện..........................35 3.1.2 Yếu tố kì ảo và cách xây dựng hình tượng nhân vật..............................37 3.1.2.1 Nhân vật là những hồn ma...............................................................38 3.1.2.2 Nhân vật có hành động dị thường, kì lạ..........................................42 3.1.2.3 Nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích..................................45 3.1.3 Yếu tố kì ảo và không gian, thời gian nghệ thuật...................................47 3.1.3.1 Không gian nghệ thuật.....................................................................47 3.1.3.2 Thời gian nghệ thuật........................................................................52 2.3. Trong việc biểu đạt các lớp ý nghĩa trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975............................................................................................54 2.3.1. Chiến tranh – sự mất mát không gì bù đắp............................................54 2.3.2. Chiến tranh – nỗi cô đơn và niềm khát khao hạnh phúc.......................57 2.3.3. Người lính và sự tha hóa, biến chất.......................................................60 KẾT LUẬN.............................................................................................................62 3 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤẤN ĐỀỀ KHÁI QUÁT 1. Văn xuôi nghệ thuật trong bôối cảnh đổi mới của văn học Vi ệt Nam giai đoạn sau 1975 1.1.Khái niệm văn xuôi nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Văn xuôi trong nghĩa rộng chỉ loại văn đối lập với văn vần, và trong nghĩa hẹp chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ, bao gồm một phạm vi rộng từ tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kí, tiểu phẩm chính luận” . Trước thời cận đại, ở hầu khắp các nền văn học dân tộc, văn xuôi phát triển ở ngoại vi của nghệ thuật ngôn từ, tạo nên những hiện tượng ngôn từ pha trộn, nửa nghệ thuật (biên niên lịch sử, độc thoại triết học, hồi ký, thuyết pháp, tác phẩm tôn giáo…). Sau này, thuật ngữ “văn xuôi” đã được dùng để chỉ hình thức văn xuôi hoàn toàn sử dụng ngôn từ làm chất liệu, nói cách khác, “văn xuôi” là một hình thức của nghệ thuật ngôn từ. Do đó, hoàn toàn có thể đồng nhất thuật ngữ “văn xuôi” với “văn xuôi nghệ thuật”. Và trong phạm vi bài luận này, chúng tôi thống nhất dùng thuật ngữ “văn xuôi” với ý nghĩa chỉ “văn xuôi nghệ thuật”. Văn xuôi bao gồm nhiều thể loại, theo Từ điển thuật ngữ văn học, trong nghĩa hẹp, văn xuôi bao gồm các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, kí. Như vậy, với đề tài này, chúng tôi xin tiếp cận khái niệm “văn xuôi” theo nghĩa hẹp, với các tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa. 1.2. Bước phát triển của văn xuôi nghệ thu ật trong bôối cảnh đôối mới c ủa văn học Việt Nam giai đoạn Sau 1975 Đại thắng mùa xuân năm 1975 đưa lịch sử dân tộc bước sang một trang mới, đồng thời đánh dấu một giai đoạn đổi mới toàn diện của văn học Việt Nam. Đi qua thời chiến, cuộc sống trở lại với những quy luật bình thường, con người cũng trở về 4 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 với muôn mặt đời thường, phải đối diện với những vấn đề về thế sự, nhân sinh và cả những chuyện rất riêng tư. Hiện thực đất nước đổi mới đã mở ra một bước ngoặt phát triển cho văn nghệ, văn học vì thế tất yếu cũng phải đổi mới theo tinh thần thời đại. Quá trình phát triển của văn học Việt Nam sau 1975 có thể chia ra làm ba chặng đường tiếp nối nhau: từ 1975 đến 1985 là chặng đường có tính chất chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến sang văn học thời hậu chiến; từ 1986- 1991, văn học chính thức bước vào giai đoạn đổi mới một cách sôi nổi, toàn diện và từ 1992- nay, chặng đường mang không khí đổi mới trầm lắng,văn học đi vào chiều sâu và những diễn biến phức tạp. Ở chặng đường thứ nhất, ý thức đổi mới ở các nhà văn được bộc lộ thông qua việc thay đổi cách viết, cách tiếp cận hiện thực đời sống. Một loạt các sáng tác của Nguyễn Khải (Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người), Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn), Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê), Nguyễn Mạnh Tuấn (Đứng trước biển)… đã khơi dòng cho một hướng tiếp cận mới trong văn học, đặc biệt là sự mở ra các vấn đề thế sự, đời tư. Tuy nhiên, phải đến chặng đường thứ hai mới thấy hết được không khí đổi mới toàn diện của văn học sau 1975. Nghị quyết 5 về văn hóa văn nghệ (1987) của Bộ chính trị đã khẳng định: Tiếng nói của văn nghệ hiện thực Xã hội chủ nghĩa phải là tiếng nói đầy trách nhiệm, trung thực, tự do, tiếng nói của lương tri, của sự thật . Do đó, văn học trở thành mảnh đất màu mỡ để các nhà văn phát biểu tư tưởng, chính kiến của mình về xã hội, cuộc sống và con người. Có thể coi đây là “thời kì vàng” của văn xuôi Việt Nam. Bên cạnh những nhà văn đã trưởng thành từ giai đoạn trước như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Ma Văn Kháng,… là sự xuất hiện của một loạt cây bút mới như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, 5 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 Nguyễn Thị Thu Huệ, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài,… với những đổi mới mà họ đem đến đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo của văn xuôi Việt Nam. Ở chặng đường thứ ba, văn học nước nhà không còn mang trong mình sự đổi mới sôi nổi như chặng hai nữa mà có phần nào dịu lắng xuống, đi vào tìm hiểu những vấn đề phức tạp hơn có chiều sâu và đa diện hơn. Tiêu biểu cho chặng đường này là tên tuổi của các tác giả như Phan Thị Vàng Anh với tập truyện ngắn “Khi người ta trẻ”, Nguyễn Xuân Khánh với tiểu thuyết “Hồ Quý Ly”, Nguyễn Ngọc Tư với truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Khải với hồi ký “Thượng đế thì cười”,…. Nếu như trước 1975, văn xuôi chủ yếu mang khuynh hướng sử thi với cảm hứng ca ngợi, phù hợp với hiện thực mà nó phản ánh, thì đến sau 1975, hiện thực cuộc sống mở ra một trang khác, nó đòi hỏi một cách cấp thiết về sự đổi mới tư duy nghệ thuật. Trong lời kêu gọi “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, Nguyễn Minh Châu không cố ý phủ nhận những thành tựu văn học ở giai đoạn trước mà đó là lời cảnh tỉnh, đòi hỏi văn học phải được trở vềđúng với bản chất của nó là sự phản ánh chân thực về con người và cuộc sống. Tư duy sử thi ở giai đoạn trước đã được thay thế bằng tư duy tiểu thuyết để phù hợp với nội dung phản ánh là tính đa chiều của cuộc sống. Cùng với sự thay đổi tư duy nghệ thuật là sự thay đổi tất yếu các yếu tố cơ bản trong cơ cấu một tác phẩm văn xuôi cả về nội dung như đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật lẫn hình thức nghệ thuật như ngôn từ, lời văn, giọng điệu,… Với xu hướng dân chủ hóa đời sống văn hóa văn nghệ, văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới đã tìm thấy sự đổi mới qua nhiều khuynh hướng sáng tác. Khuynh hướng nhận thức phát triển khá sôi nổi vào những năm đầu thời kì đổi mới, đòi hỏi nhận thức lại hiện thực với những mặt trái còn bị che khuất, phê phán những cái xấu đằng sau những gì được tôn thờ, ca ngợi. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là tiểu 6 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 thuyết Thời xa vắng- Lê Lựu, Bến không chồng -Dương Hướng, Đám cưới không có giấy giá thú- Ma Văn Kháng, Bước qua lời nguyền -Tạ Duy Anh,… Bên cạnh đó, khuynh hướng triết luận cũng phát triển khá mạnh mẽ thể hiện sự chiêm nghiệm, triết lý về cuộc đời và con người. Khuynh hướng này không chỉ có ở những nhà văn nhiều từng trải như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải mà còn khơi gợi sự hứng thú đối với nhiều cây bút thuộc thế hệ sau như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Phạm Thị Hoài,… Gần đây lại xuất hiện loại văn xuôi kì ảo như một sự thể nghiệm và khám phá mới trong sáng tạo nghệ thuật, có thể kể đến các tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương,… Dù là sáng tác theo khuynh hướng nào thì đặc điểm chung của văn xuôi sau 1975 đều hướng đến mục đích khám phá đời sống muôn màu muôn vẻ trong cái hằng ngày, trong các quan hệ thế sự và đời tư. Có thể nói, sau 1975, văn học đã từng bước đi vào khám phá, lý giải đời sống và con người, góp phần xây dựng con người xã hội. Nguyễn Đăng Mạnh xem đó là cuộc “tìm đường” của văn học. Cuộc tìm đường này nhằm đưa văn học vào vị trí xứng đáng với cuộc sống và xã hội, trả nó về với bản chất của nó. Một trong những đổi mới của văn xuôi giai đoạn này là sự đổi mới quan hệ giữa nhà văn và hiện thực với nhu cầu được “nói thật”. Do đó, những mặt tiêu cực của hiện thực, cái xấu cái ác trong cuộc sống, những điểm đen của con người, đều bị đem ra mổ xẻ, phanh phui đến tận cùng. Hiện ra trong các trang văn xuôi là một hiện thực trần trụi với tính đa sự, đa đoan, cùng những mối quan hệ phức tạp và chằng chịt của nó. Tuy nhiên, cách nhìn và lối viết của văn xuôi hiện đại đã thật sự đổi mới, việc phản ánh hiện thực bị đẩy lùi xuống hàng thứ yếu để nhường chỗ cho việc cắt nghĩa và lý giải thiện thực, và do đó, nhà văn không còn đơn thuần là người kể chuyện, người ghi chép mà còn tham gia vào tác phẩm để cùng đối thoại với nhân vật, hoặc là những nhà tư tưởng, là người phát ngôn,… 7 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 Sự đổi mới quan niệm về hiện thực tất yếu kéo theo sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Ý thức cá nhân trỗi dậy mạnh mẽ và đòi hỏi cần được giải phóng đã làm thay đổi sâu sắc quan niệm về con người trong quá trình sáng tạo của hầu hết các nhà văn ở giai đoạn này. “Con người trong văn học hôm nay được nhìn từ nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người với xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác và với chính mình”. Con người không chỉ được soi xét trên phương diện xã hội mà còn được mở rộng, “đào bới” ở bình diện đời tư cá nhân, những bình diện tồn tại riêng lẻ của những mảnh đời, số phận.. Các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Xuân Thiều, Ma Văn Kháng, Lê Lựu,… đã không ngừng nỗ lực mở rộng những chiều kích về tâm hồn, đạo đức, lối sống, …để từ đó có sự nhìn nhận, lý giải riêng về con người hôm nay. Văn xuôi sau 1975 đặc biệt quan tâm đến con người cá nhân, xây dựng được khá nhiều kiểu loại nhân vật, vốn chưa từng có hoặc ít thấy trong giai đoạn trước như: nhân vật cô đơn, con người bi kịch, con người lạc thời, nhân vật tư tưởng, nhân vật kì ảo,… Các nhân vật tồn tại như một nhân cách, một tính cách riêng biệt chứ không còn là một ý niệm. Do đó, người ta không còn tìm thấy trong văn xuôi hiện đại những kiểu nhân vật điển hình hay nhân vật phiến diện, con người hôm nay được soi chiếu ở nhiều bình diện, nhiều tầng bậc, nên “sẵn sàng” bộc lộ hết các mặt tối và sáng, tốt và xấu, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thấp hèn, không chỉ có đời sống tình cảm mà còn có đời sống tự nhiên, bản năng, vừa là con người trong tính nhân loại phổ quát, vừa là con người cụ thể, cá biệt. Có thể tìm thấy trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là con người sám hối, con người thức tỉnh, con người nhận đường và đầy suy tư dằn vặt. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp lại thể hiện sự quan tâm đến con người cô đơn đầy cay đắng…. Cùng với sự đổi mới về đề tài, chủ đề, là sự cách tân vượt bậc về nghệ thuật. Xu hướng nghệ thuật nổi bật trong văn xuôi sau 1975 là sự đa dạng hóa về thi pháp 8 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 thể loại, điểm nhìn trần thuật, phương thức tiếp cận, ngôn ngữ, giọng điệu,… Với sự thay đổi điểm nhìn trần thuật theo từng kiểu loại nhân vật, từng vị trí khác nhau, hoặc nhà văn có thể là người kể chuyện hoặc hóa thân vào nhân vật trong tác phẩm, mà nhờ đó văn xuôi mang tính thông tin cao, phản ánh và lý giải được các chiều sâu, rộng của cuộc sống. Nghệ thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức và nghệ thuật đồng hiện đã mở ra cho nhà văn những hướng tiếp cận khác nhau. Có thể kể đến các tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thời xa vắng của Lê Lựu, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu,…. Đặc biệt là sự cách tân về giọng điệu và ngôn ngữ. Có thể tìm thấy những giọng điệu chủ âm trong văn học giai đoạn này là: giọng hài hước, hóm hỉnh; giọng mỉa mai, giễu nhại; giọng suy tư, chiêm nghiệm; giọng hoài nghi, chất vất; giọng triết lý điềm tĩnh hay giọng trữ tình tha thiết;… Thứ ngôn ngữ trang trọng, chuẩn mực dường như đã bị chối bỏ, dần trở nên mờ nhạt, nhường chỗ cho thứ ngôn ngữ đời thường, đậm tính khẩu ngữ, thông tục. Các sáng tác của thế hệ nhà văn mới trưởng thành từ sau 1975 như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Quang Lập,… là sự nỗ lực không ngừng đem đến cho văn học một không khí đời sống thường nhật sinh động, chân thực thông qua lớp ngôn ngữ bặm bụi đời thường. 2. Yếốu tôố kì ảo trong tiếốn trình văn học Việt Nam 2.1. Khái niệm yếốu tôố kì ảo “Kì ảo” là từ Hán Việt, trong đó “kì” có nghĩa là lạ lùng, “ảo” là không có thực, “kì ảo” nghĩa là chuyện lạ lùng, chuyện không có thật, chuyện không thể xảy ra ngoài đời thực. Trên thế giới, người đầu tiên đề cập đến “cái kì ảo” là một học giả người Anh tên là Joseph Addison (1672-1719). Theo ông, những sáng tác kì ảo “tạo ra một khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thỏa mãn trí tưởng tượng của 9 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường của những con người được miêu tả trong đó”. Ở Việt Nam, bàn về thuật ngữ yếu tố kì ảo trong văn học, Lê Nguyên Cẩn cho rằng: “Cái kì ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên khác lạ, phi thường, độc đáo… Nó có mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực - ảo và tồn tại độc lập, không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng tượng”. Tác giả Phùng Hữu Hải nhận định: “Yếu tố kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, là phương thức tư duy nghệ thuật được biểu hiện bằng những năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên, nằm ngoài tư duy lí tính của con người. Nó tham gia vào sự phát triển của cốt truyện và tạo nên những phản ánh nhận thức của người tiếp nhận một cách mạnh mẽ hay nói cách khác, nó tạo nên những cú sốc về tâm lý, nhận thức, làm xuất hiện những dấu hỏi về nguồn gốc xuất hiện”. Dù nghiên cứu ở góc độ nào thì tựu chung lại, yếu tố kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, là cái không có thật, chỉ tồn tại trong thế giới tinh thần của con người hoặc những yếu tố bất hợp lí trong cuộc sống. Trong văn học, yếu tố kì ảo là phương tiện nghệ thuật để nhà văn bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình về đời sống, về con người. Yếu tố kì ảo đem đến cho người đọc sự hồi hộp, lo lắng, dẫn đến sự phân vân, do dự giữa sự giải thích hợp lý và sự giải thích siêu nhiên về các sự kiện. Chính điều này đã gây ra sự hưng phấn, thu hút, lôi cuốn người đọc 2.2.Dòng chảy của yếốu tôố kì ảo trong tiếốn trình văn học Việt Nam Văn học có yếu tố kì ảo dẫu có nhiều biến chuyển theo điều kiện lịch sử - xã hội, dường như vẫn là một mạch chảy liên tục. Ma lực của kì ảo đã thu hút các thế hệ chủ thể sáng tạo văn học, từ nhân dân lao động, những người thấm đẫm nguyên lí Nho gia như Nguyễn Dữ, Phạm Đình Hổ,…, những trí thức Tây học như Nhất Linh, Khái Hưng, Thanh Tịnh, Thế Lữ,… đến những người hằng ngày tiếp xúc với nền 10 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 khoa học kĩ thuật hiện đại như Bảo Ninh, Lê Minh Khuê, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Hành trình của dòng chảy kì ảo, vì thế, cũng góp phần phản ánh sự phức tạp và không kém phần sinh động của diễn trình văn học dân tộc. Ngay từ sơ khởi, văn học Việt Nam đã gắn liền với kì ảo. Thế giới quan kì ảo của văn học dân gian có thể nhận thấy rõ nhất qua mảng truyện cổ tích thần kì, và phần nào qua mảng thơ, truyện về ma. Với người dân Việt Nam, ma không đơn thuần là sự hiện hình của người chết mà còn là khát vọng muốn cải thiện đời sống bằng sự cảnh tỉnh từ một thế lực vô hình. Nói cách khác, ma đã trở thành nhân tố quan trọng tham gia vào giải quyết cuộc đấu tranh thiện - ác nơi trần thế. Những phương diện tích cực, giàu tính nhân văn gắn liền với đề tài này sẽ được kế thừa và phát huy mạnh mẽ trong văn học viết, tạo thành một dòng chảy liên tục của văn học nước nhà. Yếu tố kì ảo trong văn học trung đại gắn bó chặt chẽ với các triết thuyết Phật giáo và đạo Lão Trang. Chính học thuyết về kiếp, về cuộc sống sau cái chết và vấn đề tái sinh của Phật giáo đã mở ra cho văn học truyền kì phương Đông một nguồn mạch tư duy hết sức phong phú. Triết học Lão Trang, triết học biện chứng tự nhiên, lại đặc biệt nhấn mạnh sự biến hoá qua lại giữa hai mặt đối lập, những hiện tượng pháp thuật phù phép để cứu cánh cho cuộc sống. Theo đó, âm và dương, hoạ và phúc, thực và hư, nhược và cường, chân và ảo... là một loạt những cặp phạm trù có thể được nhìn dưới quan điểm biến dịch. Nhân sinh quan Phật giáo, Lão Trang lộ rõ trong truyện truyền kì Việt Nam. Dòng truyện kì ảo trung đại, dù vẫn còn mang bóng dáng của văn học dân gian, nhưng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, gắn liền với sự bừng ngộ, sự ý thức của con người đối với thực tế giờ không còn tính chất nguyên sơ, thuần khiết buổi đầu.Văn học kì ảo giai đoạn này có thể kể đến “Truyền kì mạn lục” -Nguyễn Dữ, “Vũ trung tùy bút”–Phạm Đình Hổ, ….Đến cuối thế kỉ XIX, mảng truyện truyền kì, kinh dị tuy không nở rộ như trước 11 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 nhưng chúng vẫn còn có những bước phát triển đáng kể, đặt nền móng cho các thể loại văn học hiện đại. Cùng với sự chuyển đổi sang hệ hình hiện đại, yếu tố kì ảo trong văn học đầu thế kỉ XX cũng có những biến chuyển mang đậm dấu ấn thời đại. Cuộc gặp gỡ giữa hai nền văn hoá Đông - Tây đã cho ra đời một thời đại mới trong văn học.Truyện kì ảo giai đoạn này dẫu đoạn tuyệt với môi trường trung đại, chịu sự hấp dẫn và tác động mạnh mẽ của văn học hiện đại phương Tây vẫn không ngừng bám chặt vào truyền thống. Những sáng tác “truyền kì đời mới” ấy, một mặt giúp nhà văn bộc lộ những phản ứng yếu ớt của mình (bằng cách tìm về quá khứ, trốn vào thiên nhiên hoang ảo, vào thế giới của hồn ma, hoặc những mối tình mê đắm, huyễn hoặc...), mặt khác, nó cũng là bức bình phong để tác phẩm dễ dàng thoát được mũi kéo kiểm duyệt của chế độ thực dân. Việc tìm đến kì ảo cũng là lẽ tự nhiên của một số nhà văn trụ cột trong văn đoàn Tự lực - những người ngay từ nhỏ đã từng “thích nhất chuyện Liêu trai” (Khái Hưng). Sự gặp gỡ, hòa kết giữa quan niệm sáng tác, nội dung thể hiện đậm chất phương Đông truyền thống và kĩ thuật viết hiện đại của phương Tây trong truyện ngắn kì ảo cũng là minh chứng cho một chủ trương lớn của nhóm: đem phương pháp khoa học Thái Tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam nhằm giúp cho con người “lúc nào cũng mới mẻ, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ”. Có thể kể ra một vài sáng tác văn học kì ảo thời kỳ này như “Ma đưa” –Nam Cao,“Làng”, “Ngậm ngải tìm trầm” -Thanh Tịnh, “Lan rừng”, “Câu chuyện mơ trong giấc mộng”, “Bóng người trong sương mù” -Nhất Linh; “Hoa bên suối”, “Đêm trăng”, “Tiếng hú ban đêm”, “Ma xuống thang gác” -Thế Lữ; “Linh hồn” Khái Hưng … Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975, do những yêu cầu bức thiết của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, dựng xây đất nước, văn học của ta đề cao nguyên tắc tương đồng giữa văn chương và cuộc sống. Kì ảo, vì thế, cũng vắng bóng trên văn đàn. Đây là giai đoạn cỗi cằn, hiu hắt nhất của văn học kì ảo. Ở miền Bắc, 12 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 từ ngày hoà bình lập lại (1954), truyện biến hoá thần kì trở thành mảng văn học dành riêng cho trẻ nhỏ. Trước 1975, “Giấc ngủ mười năm” của Hồ Chí Minh có lẽ là truyện kì ảo duy nhất của văn học cách mạng dành cho người lớn. Riêng ở miền Nam trước giải phóng, một số truyện vẫn sử dụng yếu tố kì ảo như một tấm bình phong hữu hiệu để dễ qua được mũi kéo kiểm duyệt của chế độ Mĩ ngụy, giúp người viết bộc lộ những tâm sự yêu nước thầm kín của mình như “Bút máu” -Vũ Hạnh, “Cõi âm nơi quán Cây Dương” -Bình Nguyên Lộc, “Cái đèn lồng”, “Bóng ma nhà mệ Hoát”, “Đám cưới hai u hồn ở chùa Dâu” -Vũ Bằng... Sau 40 năm chìm lặng do những đòi hỏi bức thiết của công cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước và xây dựng xã hội mới, từ đầu những năm 80 thế kỉ trước, quan niệm về văn học đã có phần đổi khác. Những thay đổi trong đời sống xã hội,trong tâm lí và nhu cầu của độc giả… đã “dọn đường” để kì ảo hồi sinh bằng sự vượt trội cả về số lượng tác giả lẫn tác phẩm.Truyện kì ảo giai đoạn này đã phả một luồng gió mới vào đời sống văn học.Một trong những đóng góp đáng trân trọng của mảng văn học kì ảo giai đoạn này là những sáng tạo trong quan niệm lẫn bút pháp khi tiếp cận đề tài chiến tranh. Tính phức tạp giữa cuộc sống và cái chết, kí ức và sự lãng quên, người sống và người chết, hiện tại và quá khứ, không gian và thời gian… đã được thể hiện thấu tình, đạt lí nhờ sự táo bạo, mới mẻ của người viết. Đời sống tâm linh của con người cũng được nhiều tác giả quan tâm.Thời kì này, tiêu biểu có “Nỗi buồn chiến tranh” - Bảo Ninh, “Bến trần gian” - Lưu Minh Sơn, “Tàn đen đốm đỏ” Phạm Ngọc Tiến, “Chảy đi sông ơi” - Nguyễn Huy Thiệp,.. Tiến trình tự khẳng định của kì ảo song tồn cùng tiến trình vận động và phát triển không ngừng của văn học nước nhà. Tiến trình ấy cũng tiềm tàng một phản ứng chống lại những ràng buộc để văn học được trở về với chính mình. 13 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 3. Vị trí đếề tài chiếốn tranh trong văn xuôi sau 1975 và s ự đôối m ới quan niệm vếề nó. 3.1. Vị trí đếề tài chiếốn tranh trong văn xuôi sau 1975 Dòng văn học viết về người lính cách mạng và chiến tranh chống ngoại xâm của ta ra đời cùng lúc với cuộc chiến tranh chống Pháp, rồi chống Mỹ, suốt 30 năm dường như chiếm vị trí độc tôn trên văn đàn. Văn học được coi như một thứ vũ khí chiến đấu, nhà văn được coi như những chiến sĩ cầm vũ khí. Nhìn từ yêu cầu ấy, văn học kháng chiến đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xứng đáng - luôn có mặt để động viên tinh thần những người lính và toàn dân tin tưởng vào sự nghiệp chống ngoại xâm, hăng hái cầm vũ khí chiến đấu và phục vụ chiến đấu… Đó là một nguồn sức mạnh có thật và có tác động to lớn vào chiến thắng cuối cùng của dân tộc. Khoảng mười năm sau 1975, văn học về chiến tranh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Khi cuộc chiến lùi xa, tuy không còn là mối quan tâm hàng đầu của người nghệ sĩ nhưng đề tài chiến tranh vẫn có vị trí đáng kể trong nền văn học đương đại. Cho đến nay, chiến tranh đã lùi xa hơn bốn thập kỉ nhưng người cầm bút vẫn không ngừng viết về nó. Văn xuôi về chiến tranh đã đạt thành tựu ở cả ba thể loại: kí, truyện ngắn và tiểu thuyết. Có thể nói, những tiêu chí đổi mới về văn học ít nhiều liên quan đến văn học về chiến tranh.Nó vừa chứ đựng sự đổi mới quan niệm về hiện thực, về con người, vừa là nơi thử thách bản lĩnh người nghệ sĩ. 3.2. Sự đổi mới quan niệm vếề đếề tài chiếốn tranh Sau 1975, đội ngũ nhà văn còn được bổ sung một loạt cây bút mới mà trong chiến tranh họ ở vị trí của người lính hoặc gần gũi với công việc của người lính như Chu Lai, Thái Bá Lợi, Xuân Đức, Nguyễn Trí Huân, Bảo Ninh,…. Họ đã đem vào văn xuôi những trải nghiệm từ chiến hào của cá nhân mình và của thế hệ mình. Quan niệm về chiến tranh của họ có những điểm khác biệt so với quan niệm truyền thống. 14 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 Bước ra từ chiến trường máu lửa, các nhà văn – chiến sĩ hiểu hơn ai hết về sự hi sinh lớn lao và nghĩa tình của đồng bào, đồng chí. Với họ, viết về chiến tranh là một món nợ ân tình cần phải trả. Nguyễn Minh Châu thấy rằng: “Viết về hai cuộc kháng chiến, viết về chiến tranh, nhiều đồng chí cầm bút viết văn trong quân đội đã đứng tuổi nhiều lần nói tới công việc đó như một trách nhiệm, một món nợ chưa trả được. Một món nợ chưa trả và không thể nào quên”. Với quan niệm ấy, nhà văn sẽ chú trọng khắc họa vẻ đẹp của lòng dũng cảm, đức hy sinh, lối sống vị tha, tình nghĩa… Vẫn coi trọng mục đích phản ánh cuộc kháng chiến vĩ đại, khẳng định chính nghĩa, khẳng định phẩm giá dân tộc, nhưng sau 1975, nhà văn nhấn mạnh hơn vào yêu cầu “chân thực”. Không bằng lòng với cái hiện thực được lí tưởng hóa một chiều, họ xác định “không chỉ nói đến thắng lợi mà còn cần nói đến tổn thất, hi sinh, không chỉ nói đến niềm vui mà còn nói đến nỗi đau khổ do quân thù gây nên” . Chu Lai là một trong những nhà văn Việt Nam đầu tiên nói về bản chất của chiến tranh khác với quan niệm truyền thống: “Bằng những kiểm nghiệm bản thân, tôi hiểu ra rằng chiến tranh quả thật không vui vẻ gì, đối với bất cứ dân tộc nào, dù là tự vệ hay xâm lược, chiến tranh đều mang ý nghĩa bi kịch”. Trước năm 1975, do yêu cầu cổ vũ cho chiến đấu, nhà văn rất coi trọng việc phản ánh kịp thời những sự kiện nóng bỏng ở mặt trận. Khi cuộc chiến đi qua, nhiều người băn khoăn lựa chọn “con người” hay “sự kiện” làm đối tượng chủ yếu trong tác phẩm của mình. Ngay từ năm 1976, trong bài Viết về chiến tranh sau chiến tranh, Nguyễn Đình Tiên đã xác định cần dành sự ưu tiên cho con người, “còn các sự kiện thì hãy dành phần cho các nhà sử học và các nhà quân sự”(Hồng Diệu). Khi lấy con người làm hệ quy chiếu, chiến tranh sẽ là nỗi đau, là hi sinh, mất mát. Với nhiều nhà văn, việc đề cao tính người và tình người là mục tiêu vô cùng quan trọng. 15 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 Đề tài chiến tranh, do đó, không còn mang ý nghĩa thuần túy là một đề tài văn học mà đã trở thành chất liệu thử thách khả năng đổi mới tư duy của người viết. Khi chiến tranh qua đi, văn học dần trở về bản chất đích thực của nó, nhà văn có nhu cầu thể hiện những trải nghiệm riêng và ý thức cá tính của mình.Nhu cầu viết bằng kinh nghiệm cá nhân và ý thức cá tính là tiền đề quan trọng tạo nên những khuynh hướng khác nhau của văn học sau 1975 về chiến tranh.Song nếu chỉ coi trọng kinh nghiệm cá nhân mà không chú ý đúng mức tới vai trò của hư cấu và tưởng tượng – bản chất của văn chương – thì nhà văn sẽ khó thành công. Nhờ phát huy vai trò của hư cấu và tưởng tượng nên tác phẩm của một số nhà văn đã thực sự hấp dẫn bạn đọc. Khi đề cao bản chất hư cấu của văn chương, một số nhà văn coi “chiến tranh chỉ là một thi pháp”. Khi việc tái hiện hiện thực không phải là mục đích cuối cùng, nhà văn có thể dùng chiến tranh để khảo sát về nhân tính, về tình yêu, tình dục, về bản năng sống… của con người trong những tình huống trái khoáy, bất thường. Đây chính là sự mới lạ so với quan niệm truyền thống. Sự đổi mới quan niệm về đề tài đã dẫn đến sự đa dạng trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 về chiến tranh.Để văn học về chiến tranh thực sự hấp dẫn bạn đọc, không chỉ đổi mới quan niệm về đề tài mà các nhà văn còn cần có thực tài, có thể đặt ra được những suy tư về văn hóa, về giá trị con người ở một chiều sâu triết học thực sự. 16 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 CHƯƠNG II: CÁC DẠNG THỨC XUẤẤT HIỆN CỦA YỀẤU TỐẤ KÌ ẢO TRONG VĂN XUỐI NGHỆ THUẬT VIỀẤT VỀỀ CHIỀẤN TRANH GIAI ĐOẠN SAU 1975 2.1. Motif giấốc mơ: Đây là dạng thức quen thuộc được sử dụng khá nhiều trong các tác phẩm viết về chiến tranh. Giấc mơ là vấn đề nằm trong vùng sâu của vô thức con người, chất chứa những khát khao thầm kín, những điều bí ẩn mà con người luôn vươn đến khám phá. Đôi khi giấc mơ đến với con người vì những ám ảnh không thể nguôi ngoai. Ngoài ra giấc mơ còn là điềm báo những gì sắp xảy ra trong cuộc sống với người mơ. Giấc mơ là biểu tượng của cuộc phiêu lưu cá thể, được cất sâu trong tâm khảm... Chiêm mộng hiện ra với chúng ta như một điều bí ẩn của chính mình. Nói về giấc mơ, trước hết phải kể đến đó là tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh”. Đây là cuốn tiểu thuyết mà mô-tip giấc mơ xuất hiện rất nhiều lần. Nào là giấc mơ của Kiên, của Vĩnh, của Cừ, của Tạo “voi”, của Can… những đồng đội đáng kính của Kiên. Trong đó, những giấc mơ đó, giấc mơ của Kiên là nhiều hơn hẳn. Có giấc mơ khi còn tham gia chiến trường, có những giấc mơ khi đã về lại với thời bình. Trong chiến tranh, ở thế giới mộng mị, Kiên chỉ mơ về Phương và Hà Nội thân yêu của anh. Những cơn mơ chỉ xuất hiện trong những trường hợp Kiên chìm vào cõi vô thức như: đang trong trạng thái mụ mị bởi khói hồng ma“Bản thân Kiên cứ mỗi bận thưởng thức thứ bả độc này thì lại thêm được một lần nhập thân tràn ngập vào thế giới của những giấc mơ bí ẩn và tráng lệ mà lúc bình thường tâm hồn chẳng thể với tới”, hay bị mê man bởi vết thương, hoặc vào những giấc ngủ chập chờn khi ở trung đội trinh sát. Khoảng thời gian sau chiến tranh, những giấc mơ đến với Kiên nhiều hơn. Đó không phải là những giấc mơ ngọt ngào, êm đềm về Phương và về Hà Nội mà là những cơn mơ mang đầy nỗi bấn loạn, bất an. Không chỉ trong giấc ngủ, cả lúc đang tỉnh táo, Kiên vẫn có thể bị cuốn trôi vào trong giấc mơ một cách vô thức không thể cưỡng lại. Những giấc mơ về chiến tranh, về cái chết, về đạn bom không 17 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 ngừng ám ảnh Kiên. Kiên thường mơ thấy mình trở lại truông Gọi Hồn, nơi anh đã cùng những anh em vào sinh ra tử của mình đánh những trận bài cuối cùng của cuộc đời, nơi ghi dấu những kỉ niệm đau thương, khốc liệt của anh và những đồng đội trong chiến tranh. Có khi, đang đi trên vỉa hè, Kiên lại thấy mình đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết, vỉa hè nồng nặc mùi tử khí. Như một người phát rồ, anh đưa tay lên bịt mũi giữa phố xá đông người. Hoặc nhiều lúc, giữa đêm khuya, Kiên giật mình bởi tưởng tiếng quạt trần là tiếng rú rít của trực thăng vũ trang. Sự khốc liệt của chiến tranh đã ám ảnh, ăn sâu vào tiềm thức Kiên. Vì vậy mà không chỉ khi ngủ, cả lúc đang tỉnh táo, giấc mơ về thời đại đã qua vẫn tồn tại và không ngừng chi phối cuộc đời thực của anh sau ngày chiến thắng. Những cơn mơ cũng luôn thường trực trong giấc ngủ của Thảo trong “Người sót lại của rừng cười” - Võ Thị Hảo mỗi khi đêm về. Trở về sau chiến tranh, Thảo chỉ có hai giấc mơ duy nhất: Giấc mơ thời bé và giấc mơ tuổi thanh xuân. Nếu giấc mơ thời bé là khoảng thời gian thanh thản, tươi vui của cô với những trò trẻ thơ nhặt cặp ba lá, hoặc nhặt trứng vịt đẻ rơi thì trong giấc mơ tuổi thanh xuân, cô chỉ thấy tóc rụng như trút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của người đồng đội. Từ đám tóc ấy lấy ra hai giọt nước mắt trong veo, rắn như thủy tinh không gì đập vỡ. Giấc mơ đến với hai cô thanh niên du kích trong “Đốm lửa”- Nguyễn Thị Minh Thúy thật kì lạ. Cả hai cùng có một giấc mơ giống nhau. Ngọc thấy Thanh – chàng trinh sát 20 tuổi mà cả cô và Mỹ đều yêu đang đợi hai cô tới đưa thư cuối vùng kênh rạch chằng chịt, nheo mắt chọc cô, và dành cho cô những cử chỉ âu yếm dịu dàng của đôi lứa yêu nhau. Khi Thanh cương quyết nhấc bổng cô lên bờ cũng là lúc cô bừng tỉnh dậy. Vừa khi đó Mỹ cũng choàng tỉnh. “Ngọc giật mình mở mắt thì thấy trời vừa hửng sáng, cùng lúc Mỹ cũng choàng tỉnh. Họ thẹn thùng nhìn ngực nhau khi thấy cả hai cùng cởi toang cả cúc áo. Mỹ quay mặt đi:" Xin lỗi chị...Em mơ..."Ngọc ngẩn ngơ. "Mơ à? Tiếc thật! Tưởng Thanh, ai dè Mỹ! Mà sao Mỹ cũng..." Ngọc cài lại cúc áo mình, định nói:" Chị cũng mơ" Sau đó, cả hai cùng kể 18 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 cho nhau nghe về giấc mơ của mình.Giấc mơ của họ y hệt nhau một cách kì lạ. Và rồi đến cuối truyện, người đọc bất ngờ bởi Thanh đã chết và xác anh nằm cạnh họ, cách nhau chỉ một tấm ván “Thì ra đêm qua trời tối quá khiến hai cô ko thấy, khi ép ghe vào vô tình ép xác Thanh sát bờ lạch và họ đã nằm ngủ trên anh chỉ cách một tấm ván”. Giấc mơ cũng có mặt trong tác phẩm “Hai người đàn bà xóm Trại” (Nguyễn Quang Thiều). Đến hơn ba lần, tác giả nhắc đến những giấc mơ giống nhau ở hai nhân vật Ân và Mật. Ân cứ mơ đi mơ lại giấc mơ có vẻ kì lạ “con gà trống tía với cái mào đỏ rực, cái ức rộng và đôi cựa bóng như ngà mổ mổ vào ngón tay của mình”, còn Mật cô vẫn mơ những cơn mơ vừa hạnh phúc vừa lo sợ “Mật thấy người lính trở về và ngay đêm đó Mật có mang. Và cứ tỉnh giấc, Mật mơ hồ lo lắng khi cảm thấy bụng mình khang khác”. Những giấc mơ kì lạ của Ân và Mật chở đầy những hi vọng về một ngày đoàn tụ với người chồng thân yêu. Thế giới bên trong của con người là một thế giới mang đầy bí mật, những giấc mơ khác nhau đem đến cho người đọc những khám phá khác nhau về thế giới bí ẩn ấy, giúp người đọc chạm sâu vào những góc khuất ẩn kín trong tâm hồn người lính. Bên cạnh đó, giấc mơ còn là cầu nối giữa người còn sống và người đã khuất, còn là niềm hi vọng vào tương lai không xa, khi chiến tranh chấm dứt, đất nước hòa bình, người tiền tuyến, kẻ hậu phương lại được đoàn tụ sum vầy hạnh phúc. 2.2. Hôền người chếốt trở vếề: Một trong những dạng thức xuất hiện của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam đó là hồn người chết trở về. Những hồn ma trở về luôn có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với người đọc bởi nó khơi gợi sự thích thú, vừa sợ vừa tò mò. Người đọc có thể tưởng tượng ra những khả năng đặc biệt của hồn ma mà con người không có được. Yếu tố hồn ma đã xuất hiện nhiều trong văn học cổ, văn học trung đại tuy vậy đến thời hiện đại nó vẫn có sức hấp dẫn riêng và gây hứng thú cho người đọc. 19 Yếu tố kì ảo trong văn xuôi nghệ thuật viết về chiến tranh sau 1975 Dạng thức hồn người chết trở về xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975. Trong thế giới tâm linh cũng như văn học, chết chưa phải là hết. Bằng trí tưởng tượng, nhà văn đã cho người chết được một đặc quyền là “hồn được trở về” có thể thực hiện những điều lúc còn sống họ chưa làm được. Linh hồn người lính trong “Bến trần gian” dù hi sinh đã nhiều năm vẫn còn quanh quẩn trong rừng. Được ông già cho chiếc lá, anh gài vào vành tai – chiếc lá như bùa hộ mệnh giữ cho linh hồn anh không bị tan ra khi trở về. Ngay trong đêm đó anh bắt đầu cuộc hành trình về lại quê nhà gặp lại những người thân yêu. Linh hồn Lăng đã gặp lại mẹ, Lăng mới biết mình đã chết. Rõ ràng hồn ma trở về trong truyện không hề đáng sợ một chút nào, đôi lúc phảng phất dáng vẻ đáng thương của một người lính đã hy sinh nơi chiến trường từ rất lâu, mãi đến mấy chục năm sau mới được trở về. Phải chăng dạng thức “hồn người chết trở về” trong tác phẩm này như một “phép màu” để thực hiện tâm nguyện người đã khuất? Trong các truyện, thế giới hồn ma tồn tại song song với thế giới cõi dương, linh hồn người chết vẫn thường hiện về, quanh quẩn bên cạnh người còn sống. Trong “Cặp bồ với ma”, hồn ma của cô văn công Huệ đêm đêm thường hiện ra làm bạn với anh chàng canh nghĩa trang. Giữa người và ma nảy sinh mối quan hệ gắn bó sâu sắc với nhau. Nhờ Huệ mà chàng trai cảm thấy bớt cô độc giữa nghĩa trang toàn mồ mả người chết. Và chàng trai chính là chỗ dựa để Huệ tâm sự, trút những phiền muộn của cuộc sống trước kia. Trong truyện “Tiếng chuông chiều”, hồn ma anh bộ đội cũng đã nhiều lần trở về giúp đỡ cho người lính Sài Gòn thoát khỏi lưỡi hái thần chết để trả ơn việc anh ta đã chôn cất bộ hai cốt của mình. Một lần, trong một trận giáp lá cà, gã lính ấy bị thương ở chân, đôi chân bị nhiễm trùng và có thể bị cưa. Trong đêm ấy, lúc mê man, anh ta thấy một anh bộ đội còn rất trẻ hiện ra dùng tay vuốt bắp chân cho mình “anh 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất