ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------
PHÙNG THỊ LAN ANH
Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN
Ở TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số
: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Đào Trí Úc
HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 1
Chƣơng 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ
GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH, SINH VIÊN Ở TỈNH
PHÚ THỌ................................................................................................................................. 5
1.1. Ý thức pháp luật và đặc điểm ý thức pháp luật của HSSV hiện nay ................. 5
1.1.1. Ý thức pháp luật........................................................................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm ý thức pháp luật của HSSV. ................................................................. 21
1.2. Vai trò và các hình thức giáo dục ý thức pháp luật cho HSSV hiện nay . 26
1.2.1. Vai trò của việc giáo dục ý thức pháp luật cho HSSV ...................................... 26
1.2.2. Các hình thức giáo dục ý thức pháp luật cho HSSV ......................................... 35
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................................ 41
Chƣơng 2.THỰC TRẠNG Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC Ý THỨC
PHÁP LUẬT CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN Ở TỈNH PHÚ THỌ........................ 42
2.1. Đặc điểm của HSSV ở tỉnh phú thọ. ......................................................................... 42
2.2. Thực trạng ý thức pháp luật của HSSV ở tỉnh phú thọ hiện nay và nguyên
nhân của thực trạng đó ....................................................................................................... 46
2.2.1. Thực trạng ý thức pháp luật của HSSV ở tỉnh Phú Thọ hiện nay ................ 46
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng ý thức pháp luật của HSSV ở tỉnh Phú Thọ
................................................................................................................................................... 54
2.3. Kết quả chủ yếu của việc giáo dục ý thức pháp luật cho HSSV ở tỉnh phú thọ
và những vấn đề đặt ra........................................................................................................ 62
2.3.1. Kết quả chủ yếu của việc giáo dục ý thức pháp luật cho HSSV tỉnh Phú
Thọ ........................................................................................................................................... 62
2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong việc giáo dục ý thức pháp luật cho HSSV ở tỉnh
Phú Thọ................................................................................................................................... 65
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................................ 72
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO Ý THỨC
PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH, SINH VIÊN Ở TỈNH PHÚ THỌ ....................... 73
3.1. Phƣơng hƣớng nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho HSSV ở tỉnh Phú Thọ 73
3.1.1. Nâng cao ý thức pháp luật cho HSSV phải gắn với việc nâng cao đạo đức
cho HSSV................................................................................................................................ 73
3.1.2. Nâng cao ý thức pháp luật cho HSSV phải gắn với việc nâng cao chất lƣợng
công tác giáo dục ý thức pháp luật trong nhà trƣờng.................................................. 74
3.1.3. Nâng cao ý thức cho HSSV phải đảm bảo tính thƣờng xuyên liên tục, đồng
bộ và lâu dài. .......................................................................................................................... 76
3.2. Một số giải pháp tăng cƣờng giáo dục ý thức pháp luật cho HSSV tỉnh phú
thọ ............................................................................................................................................. 76
3.2.1.Tăng cƣờng sự chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo: ........................................ 77
3.2.2. Tiếp tục đổi mới nội dung và phƣơng thức giáo dục pháp luật cho HSSV. 78
3.2.3. Kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, nhận
thức của học sinh .................................................................................................................. 80
3.2.4. Tăng cƣờng công tác bồi dƣỡng, nâng cao kiến thức chuyên ngành,
phƣơng pháp giáo dục mở cho đội ngũ giáo viên làm công tác giáo dục pháp
luật và đẩy mạnh việc đầu tƣ kinh phí cho công tác giáo dục pháp luật cho
HSSV ....................................................................................................................................... 86
Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................................ 89
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 91
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
STT
Diễn giải
1
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
2
HSSV
Học sinh sinh viên
3
YTPL
Ý thức pháp luật
4
CNH - HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
5
GDCD
Giáo dục công dân
6
GDPL
Giáo dục pháp luật
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
1
Bảng 2.1
Thống kê kết quả điều tra về thái độ của
HSSV tỉnh Phú Thọ đối với Pháp luật
55
2
Bảng 2.2
Thống kê kết quả điều tra về nhận thức của
HSSV tỉnh Phú Thọ đối với Pháp luật
56
Thống kê kết quả điều tra thái độ của HSSV
3
Bảng 2.3
tỉnh Phú Thọ đối với Pháp luật thông qua việc
đọc một số văn bản luật
56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn hai mươi lăm năm qua, việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa đã và đang đặt ra yêu cầu cấp bách là phải tăng cường quản lý
nhà nước bằng pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Qua đó
chứng tỏ vai trò, giá trị xã hội to lớn của pháp luật và sự cần thiết, nhanh
chóng phải nâng cao ý thức pháp luật cho người dân.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Hội nghị trung ương toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa 7, Đảng ta đã xác định: tăng cường giáo dục ý thức
pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức thực hiện pháp luật, sống và làm việc
theo hiến pháp và pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thi hành một cách
nghiêm minh, thống nhất và công bằng. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ 9 cũng đã nhấn mạnh: Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ
luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên
truyền giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Chính phủ đã
triển khai "Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm
2012" theo Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
HSSV là lứa tuổi đang trưởng thành, đang cần được trang bị về tư
tưởng, nhân cách, tri thức để bước vào cuộc sống, để chuẩn bị tham gia trực
tiếp vào các quan hệ xã hội và làm chủ bản thân. Các em sẽ là lực lượng lao
động chính và là chủ nhân tương lai của đất nước. Do vậy việc giáo dục ý
thức pháp luật cho HSSV là rất cần thiết, để từ đó làm tiền đề hình thành ý
thức pháp luật trong cuộc sống sau này của các em, và điều này sẽ góp phần
to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm pháp luật ở lứa tuổi học
đường trên cả nước nói chung và ở tỉnh Phú Thọ nói riêng có chiều hướng gia
1
tăng cả về số vụ vi phạm cũng như mức độ, tính chất nguy hiểm. Thực trạng
đó cho thấy cần phải phân tích đánh giá lại những mặt mạnh, mặt yếu của
công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật cho HSSV trong địa bàn
tỉnh Phú Thọ. Để từ đó đưa ra những giải pháp căn bản để nâng cao tính hiệu
quả của công tác này. Góp phần giúp các em có một hành trang vững vàng và
hoàn thiện để bước vào cuộc sống, xứng đáng là những chủ nhân tương lai
của quê hương đất nước.
Dựa trên những cơ sở trên đây, tôi đã đặt vấn đề nghiên cứu “ý thức
pháp luật của HSSV ở tỉnh Phú Thọ”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu tổng quát:
Luận văn nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý
thức pháp luật cho HSSV tỉnh Phú Thọ, từ đó đề xuất một số giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả của công tác này
Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm … của ý thức pháp luật và ý
thức pháp luật HSSV nói riêng trong hệ thống ý thức xã hội và tầm quan
trọng của việc giáo dục ý thức pháp luật đối với giáo dục ý thức pháp luật trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Phân tích thực trạng công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục YTPL
trong HSSV tỉnh Phú Thọ, làm rõ những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo
dục YTPL cho HSSV ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Tính mới của đề tài:
Việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân nói chung và HSSV nói
riêng có ý nghĩa to lớn, tạo nên nội lực trong việc xây dựng thành công sự
2
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do vậy đã được nhiều công
trình khoa học nghiên cứu. Vấn đề này được đề cập trong một số tài liệu có
tính chất giáo trình, giáo khoa như: “Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp
luật” của trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia
Hà Nội; “Bàn về giáo dục pháp luật” của tác giả Trần Ngọc Đường và Dương
Thị Thanh Mai (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995); “Giáo dục pháp luật
trong nhà trường” của Nguyễn Đình Đặng Lục; “Một số vấn đề về phổ biến
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay ” của Vụ Phổ biến GDPL, Bộ Tư
pháp.
Trong các công trình nghiên cứu, vấn đề này cũng được đề cập từ nhiều
góc độ như: “Thực trạng phạm tội của HSSV trong mấy năm gần đây và vấn
đề giáo dục pháp luật trong nhà trường”, Tổng luận của Vương Thanh Hương
và Nguyễn Minh Đức,Viện nghiên cứu phát triển Giáo dục, Hà Nội năm
1995; “Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật” của GS.TSKH Đào Trí
Úc, chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX - 07 - 17; “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới
hiện nay”, đề tài khoa học cấp bộ của Bộ tư pháp năm 1994.
Một số luận án, luận văn cũng đề cập đến vấn đề này như: “Giáo dục
pháp luật cho học sinh trong nhà trường phổ thông nước ta hiện nay”, Luận án
phó tiến sỹ của Lê Quý Đình, năm 1991; “Về tâm lý xã hội đối với tội phạm
và các hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên và việc tổ chức
phòng ngừa các tội phạm đó”, Luận án Phó tiến sỹ của GS.TSKH Đào Trí Úc
Mátxcơva, năm 1981; “Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam”,
Luận án Phó tiến sỹ của Lê Đình Lập năm 1997; “Những đặc điểm của quá
trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ của Đào Duy
Tấn …
3
Các công trình này nghiên cứu ý thức pháp luật ở các khía cạnh khác
nhau như sự hình thành, phát triển, nội dung của ý thức pháp luật, khái quát
mục tiêu, phương pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Tuy
nhiên chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề nâng cao hiệu quả trong việc
giáo dục ý thức pháp luật cho HSSV tỉnh Phú Thọ nói riêng. Vì vậy đây là vấn
đề lần đầu tiên được đặt ra nghiên cứu.
Đóng góp của đề tài:
- Dưới góc độ lý luận và thực tiễn, luận văn làm rõ khái niệm YTPL,
tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức pháp luật của HSSV.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng và nguyên nhân luận văn đề xuất các
phương hướng và giải pháp để nâng cao YTPL cho HSSV tỉnh Phú Thọ góp
phần tác động to lớn vào quá trình hình thành nhân cách cho HSSV của tỉnh,
góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng xã hội công bằng
dân chủ và văn minh.
- Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho công tác giảng dạy pháp
luật và giáo dục ý thức pháp luật cho HSSV tại các trường trong tỉnh Phú Thọ.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là YTPL của HSSV tỉnh Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong luận văn này YTPL được xem xét từ góc
độ triết học, pháp luật, từ ý thức pháp luật của HSSV ở tỉnh Phú Thọ trong
tình hình hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận chủ nghĩa: chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy
vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Các phương pháp khác: phương pháp phân tích, phương pháp logic,
phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, so
sánh, phương pháp chứng minh.
4
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT
VÀ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH, SINH VIÊN
Ở TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Ý thức pháp luật và đặc điểm ý thức pháp luật của HSSV hiện nay
1.1.1. Ý thức pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin "ý thức pháp luật là một trong
các hình thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp, nó cùng tồn tại khách
quan với các hình thái ý thức xã hội khác như đạo đức, chính trị, tôn giáo,
nghệ thuật, khoa học" [35, tr15]
Ý thức pháp luật tồn tại phổ biến trong ý thức mọi cá nhân và toàn
xã hội . Bản chất của nó là phản ánh đời sống pháp luật của xã hội. Đời sống
pháp luật đó là nhu cầu cần phải điều chỉnh những hành vi có tính lặp đi, lặp
lại thường xuyên, phổ biến của con người trong đời sống xã hội nhằm bảo vệ
lợi ích của giai cấp nắm quyền lực và duy trì sự ổn định của cộng đồng. Nhu
cầu cần điều chỉnh đó được con người phản ánh một cách tích cực và sáng tạo
thành YTPL. Trong xã hội có giai cấp, nhu cầu này được các giai cấp thống
trị nhận thức và hình thành một cách khách quan, ngày càng phát triển với sự
phát triển của đời sống xã hội.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, nghĩa thông thường thì ý thức pháp luật là
ý thức chấp hành những quy định pháp luật của con người. Vì thế khi đánh
giá YTPL của một tập thể hay một cá nhân nào đó người ta thường so sánh
giữa ý thức chấp hành của những đối tượng đó với yêu cầu của những quy
định trong văn bản pháp luật để đánh giá YTPL cao hay thấp, tốt hay kém của
họ. Quan niệm này đồng nhất YTPL với một hình thức biểu hiện của nó, đó là
ý thức chấp hành những quy định của pháp luật. Có thể nhận thấy cách đánh
5
giá này là quá hẹp, thiếu toàn diện bởi vì đó chỉ là sự nhìn nhận đánh giá bên
ngoài, hình thức của đối tượng và dễ rơi vào chủ quan, phiến diện, chưa đủ để
thể hiện rõ bản chất, vai trò năng động sáng tạo của ý thức pháp luật.
Do bản chất phản ánh đời sống pháp luật của xã hội, ý thức pháp
luật được coi là một hiện tượng tinh thần - xã hội hết sức phức tạp nên đã có
rất nhiều các quan niệm khác nhau về khái niệm ý thức pháp luật, dựa trên các
mục đích và phương diện nghiên cứu khác nhau:
Có quan niệm cho rằng: “Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã
hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật” [31, tr147]. Đây là
quan niệm mang tính khái quát cao, nhưng lại quá chung chung, chưa phản
ánh được kết cấu, nội dung và nguồn gốc của ý thức pháp luật.
Có quan niệm chỉ tập trung nhấn mạnh cơ cấu của ý thức của pháp
luật, cho rằng: “Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm pháp
luật và tâm lý pháp luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức,
những hiểu biết, quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật cùng với sự tôn
trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật” [33, tr235].
Xét về mặt bản chất giai cấp, có quan niệm lại cho rằng: “Ý thức
pháp luật XHCN là tổng hòa những quan điểm, quan niệm, tình cảm về mặt
pháp luật thể hiện thái độ của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động do
giai cấp công nhân lãnh đạo, đối với những yêu cầu khác của pháp luật của
pháp luật, đối với các quyền và nghĩa vụ của công dân” [11, tr196].
Một số ý kiến khác lại thu hẹp cơ cấu của ý thức pháp luật, chỉ nhấn
mạnh mặt tri thức của pháp luật như: Ý thức pháp luật là tổng thể những học
thuyết, tư tưởng, quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội thể hiện
mối quan hệ thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện
hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính
6
hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội [7,tr430].
Quan niệm sau đề cập tới ý thức pháp luật một cách đầy đủ hơn,
toàn diện hơn, nêu lên được cả tính chất, cơ cấu và nội dung của ý thức pháp
luật, quan niệm này còn đề cập đến cả nguồn gốc, mối liên hệ phổ biến tất yếu
của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội: Ý thức pháp luật là một hình thái
ý thức xã hội gồm tổng thể những quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý,
tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ
đối với pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính công bằng
hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành,
pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, về hành vi hợp pháp hay không
hợp pháp của các cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức.
Trong từ điển Bách khoa toàn thư của Việt Nam có định nghĩa về ý
thức pháp luật như sau: Ý thức pháp luật là tổng hợp những quan điểm, tư
tưởng, học thuyết thể hiện thái độ của con người, các nhóm xã hội, giai cấp…
đối với pháp luật, pháp chế cũng như quan điểm của họ về sự hợp pháp hay
không hợp pháp trong những hành vi của cá nhân, tổ chức, xã hội. Cũng theo
từ điển, YTPL gồm 3 nội dung chủ yếu: 1. Sự hiểu biết về pháp luật; 2. Thái
độ đối với pháp luật; 3. Khả năng thực hiện, áp dụng pháp luật [11, tr 197].
Trên cơ sở tổng hợp các yếu tố hợp lý của các quan niệm trên, có
thể rút ra định nghĩa ý thức pháp luật như sau: Ý thức pháp luật là một hình
thái ý thức xã hội độc lập tương đối với các hình thái ý thức xã hội khác, phản
ánh một cách trực tiếp đời sống pháp luật, bao gồm những học thuyết, quan
điểm, tư tưởng, tình cảm của con người đối với pháp luật, thể hiện sự hiểu
biết, thái độ của họ đối với pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ và
pháp luật cần có trong tương lai, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp
7
luật, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của các cá nhân, cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội.
Định nghĩa trên chỉ rõ bản chất của pháp luật là một hình thái ý thức
xã hội, có nguồn gốc xuất phát từ đời sống pháp luật - một trong những lĩnh
vực của đời sống xã hội, có tính độc lập tương đối, đồng thời cũng nêu lên
được cơ cấu và nội dung của ý thức pháp luật. Điều đó có ý nghĩa thực tiễn
quan trọng trong việc thấy được bản chất, vai trò to lớn của ý thức pháp luật
trong đời sống xã hội để có thái độ xử sự đúng đắn với sự tồn tại của nó.
1.1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội mang tính giai cấp
sâu sắc, phản ánh đời sống pháp luật của xã hội, thông qua quan điểm, tư
tưởng về pháp luật của giai cấp cầm quyền, thể hiện ý chí của giai cấp cầm
quyền. Nhà nước - đại diện cho giai cấp cầm quyền, chỉ ban hành những quy
phạm pháp luật phù hợp với ý chí của giai cấp cầm quyền, nhằm giữ gìn trật
tự xã hội, và bảo vệ hài hoà giữa lợi ích giai cấp và xã hội. Là một hình thái ý
thức xã hội cho nên ý thức pháp luật cũng tuân thủ những quy luật, đặc điểm
chung của ý thức xã hội. Song nó lại có tính độc lập tương đối so với tồn tại
xã hội và các hình thái xã hội khác nên cũng có những đặc điểm riêng của
mình [29, tr 23].
Các đặc điểm của ý thức pháp luật được thể hiện như sau:
Thứ nhất, ý thức pháp luật mang bản chất giai cấp, cũng như bất kỳ
hình thái ý thức nào, ý thức pháp luật của một thời đại bao giờ cũng phản ánh
tồn tại xã hội của thời đại đó. Nó chịu sự tác động của các hoàn cảnh vật chất
của xã hội (như cơ sở kinh tế, quan hệ kinh tế ... Trong một xã hội, quan hệ
sản xuất luôn là nền tảng kinh tế cho việc hình thành nên kiến trúc thượng
tầng hay chính là các hình thái ý thức xã hội (trong đó có ý thức pháp luật).
8
Sự chuyển biến của nền kinh tế - xã hội sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi
trong ý thức pháp luật và tất yếu dẫn đến sự biến đổi trong pháp luật.
Tuy nhiên, ý thức pháp luật cũng có tính độc lập tương đối. Tính
độc lập tương đối được thể hiện ở tính lạc hậu và tính vượt trội của ý thức
pháp luật. Ý thức pháp luật phần lớn lạc hậu hơn, chậm biến đổi hơn so với
trình độ phát triển của tồn tại xã hội. Thực tế cho thấy nhiều khi tồn tại xã hội
cũ mất đi nhưng ý thức pháp luật của xã hội cũ do nó sinh ra vẫn còn được
duy trì trong một thời gian dài, đặc biệt là tâm lý pháp luật do ảnh hưởng của
thói quen và truyền thống. Mặt khác, trong những điều kiện nhất định, ý thức
pháp luật, đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học lại có thể vượt trước so với
sự phát triển của tồn tại xã hội, vạch đường cho sự phát triển của pháp luật và
tồn tại xã hội.
Thứ hai, ý thức pháp luật có tính kế thừa sâu sắc. Mặc dù nó phản
ánh tồn tại xã của một thời đại nhất định, nhưng nó cũng kế thừa những yếu tố
của ý thức pháp luật trong các thời đại trước đó. Đặc biệt là những tư tưởng,
quan điểm pháp luật tiến bộ, có giá trị nhân bản đối với sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, ý thức pháp luật có khả năng tác động trở lại đối với tồn tại
xã hội. Sự tác động ngày càng mạnh mẽ, trực tiếp hơn bởi vì nó có khả năng
phản ánh tồn tại xã hội và cải tạo xã hội. Ý thức pháp luật tiến bộ, phù hợp
với sự phát triển của xã hội sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, nếu ý
thức pháp luật trở nên lạc hậu, không theo kịp sự biến đổi của tồn tại xã hội
hay phản ánh không đúng tồn tại xã hội thì sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Thứ tư, ý thức pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại với các
hình thái ý thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức chính trị, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật.
Tuy cùng ra đời và tồn tại với ý thức chính trị trong những xã hội có
giai cấp, ý thức pháp luật vừa có tính độc lập tương đối lại vừa chịu sự chi
9
phối của ý thức chính trị. Nếu ý thức chính trị phản ánh những nguyên tắc
trong mối quan hệ giữa các tập đoàn người trong xã hội đối với quyền lực nhà
nước, thì ý thức pháp luật phản ánh mối quan hệ của các cá nhân với nhà
nước với tư cách là những chủ thể mang quyền lợi và có nghĩa vụ. Tuy ý thức
pháp luật và ý thức chính trị khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết, ảnh
hưởng và gắn bó lẫn nhau trong đó ý thức pháp luật chịu sự tác động trực tiếp
của ý thức chính trị; bởi vì, bản chất của pháp luật là ý chí của giai cấp cầm
quyền được thể hiện thành “luật lệ”; mà mỗi chế độ xã hội có giai cấp, có nhà
nước chỉ có một hệ thống pháp luật duy nhất, thể hiện ý chí của giai cấp cầm
quyền. Mặc dù trong xã hội còn có những giai cấp và các tầng lớp khác nhau,
có ý chí, quan điểm, lợi ích riêng khác nhau nhưng đều bị chi phối bởi ý chí
của giai cấp cầm quyền. Như vậy, trong mối quan hệ với ý thức chính trị, ý
thức pháp luật bị chi phối, định hướng bởi ý thức chính trị và điều đó quy
định tính giai cấp của ý thức pháp luật. Theo Lênin, một đạo luật cũng là một
biện pháp chính trị và là chính trị [24, tr 116].
Trong mối quan hệ giữa ý thức pháp luật với ý thức đạo đức, cả hai
cùng phản ánh tồn tại xã hội, nhưng chúng khác nhau ở phương thức và kết
quả phản ánh. Ý thức pháp luật phản ánh đời sống pháp luật xã hội, mà kết
quả phản ánh sẽ được mô hình hóa thành quyền và nghĩa vụ mang tính bắt
buộc chung để điều chỉnh hành vi con người. Còn ý thức đạo đức phản ánh
tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc, điều chỉnh hành vi con người bằng lương
tâm và sự tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, tự đánh giá mang tính tự nguyện của
bản thân; mặt khác, nội dung ý thức đạo đức không bao hàm quyền mà chỉ có
nghĩa vụ. Nghĩa vụ ở đây cũng khác nghĩa vụ trong ý thức pháp luật, đó là
nghĩa vụ từ nội tâm và sự tự giác. Ý thức pháp luật và ý thức đạo đức cùng
chịu sự quy định của tồn tại xã hội và cùng tác động trở lại đối với tồn tại xã
hội, chúng cùng tham gia điều chỉnh hành vi con người trong xã hội. Do đó,
10
cả hai luôn có mối quan hệ tác động qua lại và hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau
trong sự hình thành và phát triển của nhau. Trong đó, ý thức đạo đức có vai
trò đặc biệt quan trọng trong sự hình thành và nâng cao ý thức pháp luật, nhất
là đối với ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Sự khác nhau giữa ý thức pháp luật và ý thức tôn giáo được thể hiện
ở chỗ: ý thức tôn giáo là sự tự nhân cách hóa đến thần bí các lực lượng siêu
nhiên của các cá nhân rong xã hội mà không phải do bị cưỡng chế hay ép
buộc và ý thức tôn giáo thường mang tính chủ quan của từng cá nhân trong xã
hội. Còn bản chất ý thức pháp luật là sự nhận thức, đánh giá có sự điều chỉnh,
có sự cưỡng chế, ép buộc của các quy định chung mang tính khách quan trong
xã hội mà bắt buộc mọi cá nhân đều phải tuân thủ. Điều đó, C.Mác đã viết:
“Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm được bản
thân mình hoặc đã lại để đánh mất mình một lần nữa…”[34, tr569]. Khác tôn
giáo, ý thức pháp luật lại sản phẩm của sự nhận thức lý tính, dù ở trình độ
khác nhau nhưng đều có sự sàng lọc của con người về những điều được coi là
cần thiết, bắt buộc phải tuân theo trong mọi hoạt động, mọi ứng xử để đảm
bảo lợi ích của toàn xã hội, mà trước hết là lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Ý thức pháp luật khác ý thức thẩm mỹ ở chỗ, ý thức thẩm mỹ là ý
thức về sự thỏa mãn trước cái đẹp. Về cái đẹp có thể có những điểm chung
không mang tính bắt buộc đối với tất cả mọi người. Trong xã hội, khó có một
tiêu chuẩn chung về cái đẹp cho mọi người và nó không mang tính cưỡng chế
như ý thức pháp luật. Vì thế, ý thức thẩm mỹ, cho phép các cá nhân có sự lựa
chọn rộng rãi, điều này khác với ý thức pháp luật. Nhà nước và giai cấp cầm
quyền luôn thông qua việc đặt ra quy phạm pháp luật làm chuẩn mực xử sự
cho hành vi của mỗi người trong xã hội, tức là áp đặt ý thức pháp luật cho xã
11
hội. Việc không thừa nhận ý thức này có nghĩa là chống lại ý chí của nhà nước
và sẽ bị cưỡng chế bằng các chế tài của pháp luật.
1.1.1.3. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Quá trình phân tích, làm rõ được cấu trúc của ý thức pháp luật là tiền
đề quan trọng giúp chúng ta tìm ra những phương thức phù hợp tác động để
nâng cao ý thức pháp luật. Có thể hiểu cấu trúc của ý thức pháp luật là cấu tạo
bên trong của ý thức pháp luật, trong đó, giữa các nhân tố cấu thành của ý
thức pháp luật vừa thống nhất với nhau, vừa tác động ảnh hưởng lẫn nhau và
với các hiện tượng khác trong đời sống xã hội [29, tr 26].
Ý thức pháp luật là hiện tượng xã hội phức tạp, theo các lát cắt khác
nhau, có thể chia ý thức pháp luật thành những yếu tố cấu thành khác nhau.
Mỗi cách phân chia đều có ý nghĩa nhất định trong việc tìm hiểu bản chất, đặc
điểm và vai trò của ý thức pháp luật.
Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi theo cách
tiếp cận truyền thống. Theo đó cấu trúc của ý thức pháp luật gồm 2 bộ phận:
Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật.
Tâm lý pháp luật được hình thành trong hoạt động thực tiễn của con
người trên bình diện cá nhân và các nhóm xã hội. Tâm lý pháp luật gắn liền
với các hiện tượng tâm lý của con người, đó chính là tâm trạng, tình cảm, cảm
xúc, thói quen, thái độ, … đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác.
Trong hoạt động giao tiếp hằng ngày thường xuất hiện những trạng
thái tâm lý pháp luật trong con người bao gồm: tình cảm, tâm trạng, truyền
thống, thói quen, niềm tin, thành kiến … Tâm lý pháp luật được hình thành
một cách tự phát, nó là nấc thang đầu tiên của nhận thức con người về vấn đề
liên quan đến pháp luật, là kết quả của nhận thức trực tiếp, mang nhiều yếu tố
chủ quan, cảm tính, thiếu tính hệ thống nhưng nó có tính bền vững, ít biến đổi và
tính bảo thủ cao.
12
Tâm lý pháp luật tồn tại phổ biến trong mọi cá nhân, nó là yếu tố ảnh
hưởng lớn đến sự hình thành ý thức pháp luật nước ta hiện nay. Tâm lý pháp
luật của các cá nhân chịu sự tác động mạnh mẽ và thường xuyên từ phía các
yếu tố chủ quan và khách quan như môi trường xã hội, tình trạng kinh tế, văn
hoá, tôn giáo, học vấn, tính cách, các mối quan hệ gia đình và xã hội của các
cá nhân …
Trình độ nhận thức cảm tính trong tâm lý pháp luật thể hiện ở thái độ
của nhân dân đối với pháp luật hiện hành và việc chấp hành các quy định của
pháp luật. Thái độ này có thể biểu hiện khi chưa có hiểu biết pháp luật và có
thể khi đã có kiến thức pháp luật thông thường nhưng về thái độ lại xem
thường pháp luật. Chính vì thế, quá trình hình thành ý thức pháp luật, trước
tiên cần cho mọi người hiểu biết pháp luật và xây dựng thái độ tôn trọng pháp
luật. Trình độ hiểu biết pháp luật, văn hóa pháp lý luôn là cơ sở cho sự nhận
thức để hình thành ý thức pháp luật và củng cố thái độ, niềm tin đối với pháp luật.
Trong những trạng thái của tâm lý pháp luật thì tình cảm pháp luật là
yếu tố năng động. Nếu chủ thể nhận thức được giá trị của pháp luật và cơ chế
điều chỉnh của pháp luật phù hợp với nguyện vọng, lợi ích nhu cầu của mình
thì nảy sinh tình cảm pháp luật tích cực. Ngược lại, sẽ xuất hiện tình cảm tiêu
cực. Tình cảm pháp luật này ảnh hưởng rất lớn tới thái độ tích cực hoặc tiêu
cực của con người đối với pháp luật.
Truyền thống, thói quen, niềm tin pháp luật là nhân tố tương đối ổn
định trong tâm lý pháp luật. Nó được hình thành trong một thời gian dài và
trải qua thử thách, giúp cho con người hoạt động một cách tự tin và kiên định.
Vì vậy nó là yếu tố quan trọng trong việc hình thành ý thức pháp luật.
Trong mọi lĩnh vực cũng phải cân nhắc cẩn thận việc tiếp thu, kế thừa
truyền thống thói quen, bởi vì truyền thống thói quen có cả mặt tích cực và
mặt tiêu cực. Chẳng hạn, do điều kiện lịch sử, đất nước ta nhìn chung chưa có
13
thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, do vậy trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền chúng ta phải khắc phục hạn chế này.
Là một bộ phận của ý thức xã hội, luôn gắn liền với truyền thống tập
quán, thói quen của con người, tâm lý pháp luật, ít biến đổi, biến đổi chậm
chạp, do đó nó bền vững, bảo thủ hơn so với tư tưởng pháp luật. Cho nên
muốn xóa bỏ ý thức pháp luật lạc hậu, xây dựng ý thức pháp luật XHCN thì
cần phải có quá trình lâu dài, phức tạp.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các quan điểm, ý niệm, tư tưởng, của
con người về đời sống pháp luật hợp thành hệ thống thống nhất, phản ánh một
cách sâu sắc đời sống pháp luật trên lập trường của một giai cấp nhất định.
Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh hiện thực một cách không trực tiếp,
trực diện mà phản ánh một cách gián tiếp dưới dạng các khái niệm, phạm trù,
quan điểm, tư tưởng… Hệ tư tưởng pháp luật là sự nhận thức ở trình độ lý
luận, có tính hệ thống về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện
tượng pháp luật.
Nội dung của hệ tư tưởng pháp luật chủ yếu là những tri thức về vai trò,
chức năng, bản chất giai cấp của pháp luật, về mối quan hệ giữa pháp luật với
dân chủ, bình đẳng, công bằng tự do của con người, mối quan hệ giữa quyền
và nghĩa vụ pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước về
sáng tạo pháp luật và thực hiện pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật chính thống của một quốc gia bao giờ cũng là hệ
tư tưởng của giai cấp thống trị (trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp thống
trị là giai cấp tư sản, trong XHCN giai cấp thống trị là giai cấp công nhân và
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản). Khi giai cấp thống
trị là lực lượng tiến bộ của xã hội, có lợi ích phù hợp với lợi ích căn bản của
đông đảo các lực lượng khác trong xã hội thì tính khoa học, tính dân chủ, và
tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật sẽ thể hiện nổi bật, rõ nét. Ngược lại, nó
14
sẽ trở thành hệ tư tưởng lạc hậu, thậm chí phản động. Song, dù có tiến bộ hay
lạc hậu thì trong quá trình tồn tại và phát triển, các hệ tư tưởng này luôn có ý
thức chuyển hóa mạnh mẽ thành ý thức pháp luật của toàn xã hội.
Những quan điểm, tư tưởng, học thuyết pháp luật chủ yếu đề cập đến
vai trò, bản chất giai cấp, các thuộc tính, giá trị của pháp luật cũng như mối
quan hệ giữa pháp luật với dân chủ, công bằng, tự do, quyền con người, mối
quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ pháp lý trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, về nhận thức, sáng tạo và thức hiện pháp luật.
So với tâm lý pháp luật thì hệ tư tưởng pháp luật mang tính lý luận
khoa học, tính hệ thống hơn. Tư tưởng pháp luật thể hiện sự nhận thức khoa
học về pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, nó có tính
chiều sâu hơn tâm lý pháp luật trong nhận thức pháp luật. Nhưng điều đó
không có nghĩa là hệ tư tưởng pháp luật có vị trí cao hơn, quan trọng hơn hay
đứng trước so với tâm lý pháp luật. Đây là hai bộ phận của ý thức pháp luật,
tồn tại trong mối quan hệ biến chứng, tác động qua lại chặt chẽ với nhau. Tâm
lý pháp luật ra đời một cách tự phát, nhưng chịu sự chi phối của hệ tư tưởng
pháp luật. Mức độ xúc cảm, tình cảm pháp luật của cá nhân phụ thuộc vào đặc
điểm và trình độ nhận thức của cá nhân đó. Ngược lại, sự phát triển của hệ tư
tưởng pháp luật cũng chịu ảnh hưởng của tâm lý pháp luật, nó là điều kiện, là
tiền đề kích thích tư duy sáng tạo của con người, hướng họ vươn lên trình độ
tư tưởng pháp luật. Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật là hai trình độ
phản ánh đời sống pháp luật, nhưng có mối quan hệ tác động lẫn nhau trong
sự hình thành ý thức pháp luật.
Ngoài việc xem xét, nghiên cứu cấu trúc ý thức pháp luật về cấp độ
chúng ta có thể phân chia theo trình độ nhận thức. Theo đó, ý thức pháp luật
có kết cấu bao gồm: ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật khoa học.
15
- Xem thêm -