2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày
trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận án
Sỏn Thạ Nu Kẹo Mưn Hương
3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
Chương 1 Ý THỨC DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA SĨ
QUAN CẤP PHÂN ĐỘI QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.
Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa và quan niệm về ý thức
dân chủ xã hội chủ nghĩa của sĩ quan cấp phân đội Quân đội
nhân dân Lào
1.2.
Vai trò và tính quy luật hình thành, phát triển ý thức dân
chủ xã hội chủ nghĩa của sĩ quan cấp phân đội Quân đội
nhân dân Lào
Chương 2 THỰC TRẠNG Ý THỨC DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CỦA SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT
RA CẦN GIẢI QUYẾT
2.1.
2.2.
Những thành tựu và hạn chế về ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa
của sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Lào hiện nay
Nguyên nhân và một số vấn đề cần giải quyết từ thực trạng
ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sĩ quan cấp phân đội
Quân đội nhân dân Lào hiện nay
Chương 3 DỰ BÁO CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU VÀ
5
10
30
30
54
77
77
10
2
GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA CỦA SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI QUÂN
131
ĐỘI NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
3.1.
Dự báo các nhân tố tác động và yêu cầu nâng cao ý thức
dân chủ xã hội chủ nghĩa của sĩ quan cấp phân đội Quân đội
nhân dân Lào hiện nay
131
3.2.
Một số giải pháp chủ yếu nâng cao ý thức dân chủ xã hội chủ
nghĩa của sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Lào hiện nay 142
KẾT LUẬN
177
KIẾN NGHỊ
18
0
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
18
4
1
18
2
199
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
1 Chủ nghĩa xã hô ôi
CHỮ VIẾT TẮT
CNXH
2
Chủ nghĩa xã hô ôi khoa học
CNXHKH
3
Nhân dân cách mạng
NDCM
4
Quân đội nhân dân
QĐND
5
Sĩ quan cấp phân đội
SQCPĐ
6
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Công trình: “Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sĩ quân cấp phân đội
Quân đội nhân dân Lào hiê ên nay” là ý tưởng đã được ấp ủ, tâm huyết từ
lâu của nghiên cứu sinh trong nhiều năm công tác tại đơn vị cơ sở và học
tâ ôp, giảng dạy ở nhà trường Quân đội nhân dân Lào. Đề tài nghiên cứu của
tác giả được thực hiện dựa trên hê ô thống lý luâ nô của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản, đường lối, quan
điểm của Đảng NDCM Lào về vấn đề dân chủ, ý thức dân chủ XHCN. Đề tài
còn dựa trên các chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân đội về thực
hiện dân chủ XHCN trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: Đường lối, chủ
trương, chính sách xây dựng đô iô ngũ cán bộ lực lượng vũ trang trong sạch,
vững mạnh nói chung, SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào nói riêng; phương
châm xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, từng bước hiê ôn
đại, hoàn thành xuất sắc mọi nhiê ôm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao
cho. Quá trình thực hiê ôn đề tài tác giả đã nghiên cứu khảo sát thực tế một số
đơn vị chọn điểm, tiếp thu, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các
công trình khoa học có liên quan ở nước ngoài và trong nước.
Đề tài nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề cơ bản về
lý luận và thực tiễn ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân dân
Lào. Đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, rút ra một số vấn đề phải giải
quyết từ thực trạng ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ. Trước sự phát triển
của tình hình thế giới và trong nước, nhiê ôm vụ xây dựng quân đô ôi trong
thời gian tới, đề tài dự báo các nhân tố tác động, đề xuất yêu cầu và xác định
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ
Quân đội nhân dân Lào hiê ôn nay.
6
2. Lý do chọn đề tài
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển của
mọi cuộc cách mạng, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Ở Lào, sau thắng lợi của
cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc năm 1975, Đảng NDCM Lào chủ trương
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước đưa nước Lào tiến lên CNXH.
Để thực hiện được điều đó, vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là Đảng và
Nhà nước phải từng bước xây dựng ý thức dân chủ XHCN cho nhân dân nói
chung và cho quân đội nói riêng. Thực tiễn cách mạng Lào những năm qua cho
thấy, ở đâu ý thức dân chủ XHCN được xây dựng và dân chủ XHCN được thực
hiện tốt, thì ở đó sự ổn định chính trị được giữ vững, kinh tế - xã hội phát triển
tốt, đời sống của nhân dân ngày càng được được nâng cao.
Đối với Quân đội nhân dân Lào nói chung và SQCPĐ nói riêng, ý thức
dân chủ XHCN là một bộ phận quan trọng cấu thành phẩm chất chính trị, giúp
họ vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Nhờ có ý thức dân chủ XHCN mà SQCPĐ có nhận thức, niềm tin đúng đắn
về chế độ dân chủ nhân dân và dân chủ XHCN; củng cố ý chí quyết tâm xây
dựng và bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên CNXH. Đồng
thời giúp họ nhận thức sâu sắc hơn về giá trị của sự cống hiến cho sự nghiệp
cách mạng Lào, phát huy được khả năng, trí tuệ, tinh thần chủ động sáng tạo,
hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ được Đảng, nhân dân giao cho.
SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào là lực lượng trẻ, đông đảo, chiếm tỷ lệ cao
trong đội ngũ sĩ quan; là nguồn kế cận trực tiếp của sĩ quan cấp trung, sư
đoàn. Họ là những người trực tiếp chỉ huy, lãnh đạo, trực tiếp sống và hoạt
động cùng hạ sĩ quan, binh sĩ ở cấp phân đội. Nhưng mặt khác, SQCPĐ là
những người tuổi quân, tuổi đời còn ít, chưa từng trải nhiều trong cuộc sống,
họ chưa được học tập, rèn luyện nhiều … nên nhận thức dân chủ và bản lĩnh
chính trị của họ cũng còn những hạn chế nhất định, dễ bị chao đảo khi gặp
khó khăn. Do đó, nghiên cứu ý thức dân chủ XHCN của nhóm sĩ quan đặc thù
7
này để có phương hướng xây dựng họ, càng có ý nghĩa sâu sắc trong xây
dựng quân đội nhân dân Lào hiện nay.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, trong đó
có yêu cầu thực hành dân chủ XHCN trong quân đội đang đặt ra những yêu
cầu mới phải nâng cao hơn nữa về chất lượng chính trị, làm cơ sở nâng cao
chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Do đó, nâng cao ý
thực dân chủ XHCN cho mọi quân nhân và SQCPĐ trong giai đoạn cách
mạng hiện nay là một yêu cầu khách quan, cấp bách.
Thực trạng xây dựng nền dân chủ nhân dân hướng tới xây dựng nền dân chủ
XHCN trong quân đội những năm qua bên cạnh mặt làm tốt cũng còn nhiều bất
cập, yếu kém. Sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường đang hàng ngày,
hàng giờ ảnh hưởng đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm và lối sống của SQCPĐ.
Cùng với đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ra sức đẩy mạnh thực
hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm chống phá chế độ dân chủ nhân ở
Lào. “Dân chủ” là mũi nhọn được kẻ địch sử dụng hòng “phi chính trị hóa” quân
đội. Trong đó, SQCPĐ là đối tượng mà chúng tập trung tuyên truyền, kích động
và lôi kéo. Mặt khác, trong quân đội những năm qua vấn đề giáo dục ý thức dân
chủ XHCN cho SQCPĐ tuy đã được quan tâm, nhưng chưa thường xuyên, chưa
được các cấp, các đơn vị chú trọng đúng mức. Do đó, một bộ phận sĩ quan nói
chung, SQCPĐ nói riêng đã bị phai nhạt lý tưởng cách mạng, nhận thức chưa đầy
đủ, sâu sắc về dân chủ XHCN và chế độ dân chủ trong quân đội; niềm tin, ý chí
quyết tâm bảo vệ và xây dựng chế độ dân chủ XHCN chưa cao; đã xuất hiện một
số khuynh hướng lệch lạc, lợi dụng dân chủ, vi phạm phẩm chất đạo đức cách
mạng, kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước. Thực trạng trên đã gây ảnh hưởng
không nhỏ đến bản chất, truyền thống và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Vì vậy, đề tài: “Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của sĩ quan cấp phân
đội Quân đội nhân dân Lào hiện nay” mà tác giả lựa chọn nghiên cứu có ý
nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, góp phần xây dựng Quân đội nhân
dân Lào ngày càng vững mạnh trong tình hình hiện nay.
8
3. Mục đích và nhiê êm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào; để tài dự báo những
nhân tố tác động, xác định các yêu cầu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ở nước
ngoài và trong nước; từ đó xác định những vấn đề đặt ra luận án phải giải quyết.
Làm rõ quan niệm, biểu hiện, vai trò và tính quy luật hình thành, phát
triển ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào hiê ôn nay.
Đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và rút ra những vấn đề cần giải quyết
từ thực trạng ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào hiện nay.
Dự báo các nhân tố tác động, đề xuất những yêu cầu và một số giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân
dân Lào hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về ý thức dân chủ XHCN của
SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ
Quân đội nhân dân Lào hiện nay là vấn đề rất rộng lớn, luận án chỉ tập trung
khảo sát đội ngũ sĩ quan và SQCPĐ ở một số trung đoàn: 497, 279, 11, 641;
sư đoàn 1 Quân đội nhân dân Lào và tham khảo tư liệu, số liệu ở các đơn vị
có liên quan đến đề tài từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luâ ên, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản,
quan điểm của Đảng NDCM Lào về dân chủ, ý thức dân chủ XHCN; về xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, nhất là xây dựng đội ngũ SQCPĐ.
9
Cơ sở thực tiễn: Luận án dựa vào những biểu hiện ý thức dân chủ XHCN
của SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào được thể hiện trong hoạt động thực tiễn ở các
đơn vị. Trong đó, chú trọng nghiên cứu báo cáo sơ kết, tổng kết, đánh giá của đơn
vị và kết quả điều tra, khảo sát, trao đổi trực tiếp ở một số đơn vị chọn điểm.
Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp lôgíc - lịch sử, phân
tích, so sánh, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Trên cơ sở khoa học, luận án phân tích và luận giải quan niệm về ý
thức dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào; khái quát những
vấn đề có tính quy luật hình thành, phát triển ý thức dân chủ XHCN của
SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào hiện nay.
Luận án đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân thành tựu, hạn chế của
ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào hiện nay.
Từ thực trạng và nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới, luận
án đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa ý thức
dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học để nhận thức đầy đủ hơn về
ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ Quân đội nhân dân Lào; làm rõ những vấn
đề cần giải quyết từ thực trạng ý thức dân chủ XHCN của SQCPĐ.
Luận án góp phần định hướng quá trình thực tiễn xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị, đồng thời trực tiếp thúc đẩy việc thực hiện tốt hơn
những quy định về thực hiện dân chủ trong Quân đội nhân dân Lào.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy, giáo
dục về dân chủ XHCN trong các nhà trường và đơn vị Quân đội nhân dân Lào.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu luận án gồm: Mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài, 3 chương (6 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục công trình
của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài
1.1.1. Công trình nghiên cứu về dân chủ trong xã hội
Từ khi CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông âu bị sụp đổ, nhiều học giả
ở Nga đã bắt đầu nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân của nó, trong đó vấn đề
dân chủ được họ quan tâm nhiều nhất. Trong số đó nổi lên có NM.
Voskresenskaia, N.B. Davletshina trong cuốn: “Chế độ dân chủ, nhà nước và
xã hội” [69] đã trình bày nhiều vấn đề về dân chủ, phân tích các quan niệm
khác nhau về dân chủ; giá trị dân chủ; cơ chế dân chủ; thể chế dân chủ, cấu
trúc của chế độ dân chủ. Tác giả cho rằng, dân chủ XHCN theo mô hình
Xôviết chỉ là một chế độ toàn trị, xa lạ với nguyên tắc, giá trị dân chủ nên nó
đã thành quá khứ của nước Nga.
O.T.Bogomolov trong bài: “Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội” [11], đã trình bày các nguyên tắc nền tảng của dân chủ; cuộc
khủng hoảng của dân chủ Phương Tây; mối quan hệ giữa dân chủ và phát
triển ở các nước trên thế giới và ở Nga. Tác giả cho rằng, chính ảnh hưởng
của Liên Xô và những thành tựu mà Liên Xô đạt được trong lĩnh vực xã hội
đã thúc đẩy sự ra đời của mô hình nhà nước phúc lợi. Theo đó, ở Nga hiện nay,
việc xây dựng nhà nước phúc lợi theo mô hình Bắc Âu là phù hợp với tâm lý
của nhiều người và phù hợp với kinh nghiệm lịch sử của thời kỳ XHCN.
Kế thừa các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và thành tựu những năm
cải cách mở cửa ở Trung Quốc, những năm gần đây đã có nhiều công trình của
các nhà khoa học nghiên cứu lý luận xung quanh vấn đề xây dựng nền chính trị
dân chủ XHCN và ý thức dân chủ XHCN. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh đã dịch sang tiếng Việt và xuất bản cuốn sách: “Quan điểm của giới lý
11
luận Trung Quốc về thực thi dân chủ trong hệ thống chính trị” [19]. Trong công
trình này các tác giả đã chỉ ra một số quan điểm, lý luận như sau:
Vấn đề dân chủ. Đa số giới lý luận Trung Quốc đều cho rằng: Dân chủ
là một phạm trù chính trị xã hội mang tính giai cấp sâu sắc; dân chủ XHCN là
chế độ chính trị căn bản của nhà nước, là giai cấp vô sản, nhân dân lao động
nắm quyền lực tối cao quản lý nhà nước. Để nhân dân thực hiện quyền lực
của mình, phải cải cách thể chế chính trị; mở rộng dân chủ trong Đảng là nhân
tố quyết định của một nền chính trị dân chủ XHCN.
Về thực hiện dân chủ ở cơ sở và quy chế dân chủ ở nông thôn Trung
Quốc. Tổng kết thực tiễn xây dựng nền chính trị dân chủ từ sau cải cách, mở
cửa (1978), giới lý luận Trung Quốc khẳng định: Sự sáng tạo to lớn cả về lý
luận và thực tiễn xây dựng nền dân chủ XHCN ở nông thôn là việc xác lập và
từng bước thực hiện cơ chế bầu cử dân chủ ở cấp thôn, xã; mở rộng quyền
tham gia có tổ chức của nông dân vào đề cử, ứng cử trong chi bộ thôn và
chính quyền xã; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực
tiếp với nhiều hình thức để nông dân tham gia quản lý, xây dựng chính quyền.
Tại lễ kỷ niệm 30 năm cải cách mở cửa, Hồ Cẩm Đào đã có bài diễn văn
quan trọng, được in trong “Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30
năm đổi mới” [47, tr.299-300], khẳng định:“Nước Trung Quốc là nhà nước
XHCN chuyên chính dân chủ nhân dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng,
do giai cấp công nhân lãnh đạo. Dân chủ nhân dân là sinh mệnh của XHCN,
nhân dân làm chủ là hạt nhân và bản chất của chính trị dân chủ XHCN. Không
có dân chủ là không có XHCN, cũng là không có hiện đại hóa XHCN”.
Hoàng Chí Bảo có nhiều công trình, liên quan đến vấn đề dân chủ, trong
đó nổi lên một số công trình: Hoàng Chí Bảo và Thái Ninh (đồng chủ biên) có
cuốn sách: “Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa” [48], tác giả cho
rằng, để tiến tới CNXH, không thể không xây dựng, phát triển, hoàn thiện nền
dân chủ XHCN, nền dân chủ và tự do dân chủ của nhân dân, đưa nhân dân tới
12
vị trí của người làm chủ xã hội, phát huy mọi khả năng chủ động sáng tạo của
quần chúng trong mọi hoạt động. Nền dân chủ đó không chỉ là một nhân tố
hợp thành của CNXH, mà còn có vai trò một trong những động lực phát triển
của CNXH. Nền dân chủ mà chúng ta đang xây dựng khác hẳn về chất so
với nền dân chủ tư sản và các nền dân chủ đã tồn tại trong lịch sử, gắn với
chế độ áp bức, nô dịch lao động. Ngoài ra Hoàng Chí Bảo còn có một số
công trình khác: Cuốn sách “Xây dựng cơ chế dân chủ trong nghiên cứu
khoa học xã hội - nhân văn ở nước ta hiện nay” [7]. Tác giả đã để cập đến vai
trò của dân chủ đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội, vai trò của cơ chế dân
chủ và chính sách tạo động lực đối với hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội
nhân văn, đặc biệt là phát triển nghiên cứu lý luận trong tiến trình đổi mới,
hội nhập kinh tế. Cuốn sách có ba phần, trong đó ở phần hai đã nói đến cơ chế
dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn với mục tiêu khơi dạy
những khả năng tiềm ẩn và khả năng sáng tạo của mọi công dân trong nghiên
cứu bổ sung phát triển lý luận mới trong sự nghiệp đổi mới hiện nay...
Trong cuốn sách: “Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình
đổi mới” [8], dân chủ được xác định là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền
với sự tồn tại và phát triển đời sống con người, dân chủ là bản chất của
CNXH; phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần củng cố,
kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân, là giải pháp
để hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham nhũng, khơi
dậy sức mạnh tiềm năng của quần chung lao động, phát huy cao độ mọi
tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Từ đó, tác giả nêu tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở,
đặc biệt là dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, những hạn chế yếu
kém trong thời gian qua; đề xuất một số giải pháp khắc phục nhằm góp
phần thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn việc phát huy dân chủ trong đời
sống xã hội, tạo động lực cho sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam
XHCN, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ văn minh.
13
Phạm Hồng Chương có nghiên cứu viết cuốn sách: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ” [12]. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ
thống các luận điểm về dân chủ, từ quan niệm đến sự thể hiện của chúng
trong các lĩnh vực đời sống - xã hội, cùng các phương thức hiện thực hóa nó
trong đời sống. Tác giả đã giới thiệu một cách khái quát tư tưởng của Người
về dân chủ và sự thể hiện chúng trong thực tiễn qua 5 chương. Ở chương 2 và
3, đã đưa ra quan niệm về dân chủ “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất
là dân, vì dân là chủ” [12, tr.38] và những quan niệm cơ bản của người về dân
chủ, đưa ra khái niệm, vị trí, vai trò của dân chủ, dân chủ theo quan điểm
mácxít và dân chủ phải được tiến hành trên mọi lĩnh vực đời sống - xã hội...
Đỗ Trung Hiếu có cuốn sách: “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ
ở Việt Nam hiện nay” [23]. Luận giải dân chủ từ khái lược chung đến vấn đề
chinh trị của nó. Từ trình bày sơ lược về thuật ngữ, về lịch sử của “dân chủ”, tác
giả nhận định nội dung của khái niệm dân chủ: về cơ bản vẫn giữ nguyên nghĩa
cho đến ngày nay. Điểm khác biệt căn bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại
với thời hiện đại là ở tính trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng
và cách hiểu cũ hạn hẹp về khái niệm nhân dân. Nghiên cứu sự khác nhau về các
quan niệm dân chủ, tác giả chỉ ra: Sự phức tạp của vấn đề dân chủ cũng nằm ở
chỗ: Bản thân thuật ngữ dân chủ ngày nay được hiểu và sử dụng theo nhiều
nghĩa. Bởi vậy, phân biệt các chiều cạnh khác nhau của nó cũng là việc làm rất
cần thiết. Tác giả đã nghiên cứu vấn đề dân chủ từ những chiều cạnh khác nhau
đó. Song để luận giải cho vấn đề chính của mình, tác giả tiếp cận dân chủ với tư
cách là một nền dân chủ, mà trung tâm của nó là vấn đề nhà nước.
Nguyễn Vĩnh Thắng có bài viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và
thực hiện trong điều kiện hiện nay” [66]. Tác giả cho rằng: Dân chủ là quý
báu nhất của nhân dân, do đó trong công tác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay, Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội phải thường
xuyên chăm lo đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ làm chủ thực sự cho nhân dân.
14
Nguyễn Doãn Khánh có bài: “Phát huy dân chủ để xây dựng đội
ngũ cán bộ của dân, do dân, vì dân” [28]. Tác giả cho rằng, nghiên cứu việc
đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với việc xây dựng đội ngũ cán
bộ, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt của công tác xây dựng đảng, là giải
pháp hàng đầu trong thực hiện chiến lược trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa - hiện đại hóa, là việc làm thiết thực, cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”. Tác giả làm rõ thêm vấn đề dân chủ trong
đánh giá, quy hoạch, tuyển chọn, sắp xếp, bố trí, luân chuyển cán bộ, xây
dựng tiêu chuẩn và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ. Từ thực tiễn, bài viết còn kiến
nghị một số vấn đề về phát huy dân chủ trong xây dựng đội ngũ cán bộ của dân,
do dân và vì dân để thực hiện đạt được kết quả cao...
Nguyễn Đình Minh có bài viết: “Về vấn đề phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa” [46]. Tác giả cho rằng: Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu
và động lực của sự phát triển đất nước, như vậy trong từng giai đoạn cách mạng,
Đảng ta luôn coi trọng phát huy dân chủ trong mọi tổ chức, hoạt động; đặc biệt là
quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Để
việc phát huy dân chủ đạt được kết quả tốt hơn, đặc biệt sư nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với những thời cơ, thách thức mới tác giả còn
đưa ra giải pháp cơ bản mà Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt hơn.
Luận án tiến sĩ của Phan Văn Bính: “Vận dụng tư tưởng và phương
pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong quá trình thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” [9]. Tác giả cho rằng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam có
một trong những nội dung cốt lõi là dân chủ hóa. Dân chủ hóa là hiện thực
hóa quyền làm chủ của nhân dân trên mọi mặt đời sống xã hội. Xét từ góc độ
dân chủ, đổi mới theo hướng XHCN thực chất là quá trình xây dựng hoàn
thiện nền dân chủ XHCN. Tác giả đã luận giải sự cần thiết phải vận dụng tư
tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong quá trình thực hiện
dân chủ ở Việt Nam; phân tích sự vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ
15
của người trong thực tiễn và khái quát thành các nguyên tắc có tính phương
pháp luận để đánh giá thực trạng dân chủ XHCN ở Việt Nam; để xuất một số
phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục vận dụng tư tưởng và
phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam ...
Luận án tiến sĩ Triết học của Đỗ Trung Hiếu: “Nhà nước xã hội chủ
nghĩa với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” [22]. Nghiên cứu
vấn đề nhà nước và xây dựng nền dân chủ XHCN, tác giả cho rằng, đối với
Việt Nam việc củng cố nhà nước XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN
đang là một trong những nhiệm vụ hết sức cấp bách; bước vào giai đoạn phát
triển mới, bộ máy nhà nước và những cơ chế đảm bảo dân chủ của Việt Nam
đã bộc lộ một số điểm bất cập. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN với nhiều giải pháp cơ bản... Luận án đã
góp phần làm rõ khái niệm cơ bản về dân chủ, nhà nước pháp quyền, thông qua
việc tổng kết các quan điểm triết học, chính trị trong lịch sử và kế thừa những
tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luận án đã luận giải mối quan
hệ giữa dân chủ với nhà nước một cách có hệ thống theo tiến trình lịch sử và
chứng minh bằng thực tiễn, góp phần khẳng định dân chủ hóa nhà nước là vấn
đề có tính quy luật, là nhu cầu nội tại trong sự phát triển lịch sử nhà nước, từ đó
đề xuất một số phương hướng cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhà nước
trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn Anh Tuấn: “Nhận thức mới về dân
chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời
kỳ mới” [65], Nghiên cứu vấn đề nhận thức mới về dân chủ XHCN và xây
dựng nền dân chủ XHCN, tác giả cho rằng, lịch sử phát triển xã hội loài người
là lịch sử không ngừng vươn lên để đạt những giá trị dân chủ ngày một cao,
sâu sắc và phổ biến. Xây dựng, phát triển nền dân chủ là xu thế tất yếu khách
quan của sự tiến hóa lịch sử nhân loại. Con đường tạo lập dân chủ, biện pháp
16
phát triển dân chủ bao hàm sự thống nhất biện chứng giữa giá trị, nguyên tắc,
biện pháp chung, phổ biến với giá trị, nguyên tắc, biện pháp riêng, đặc thù.
Mỗi loại hình dân chủ, mỗi chế độ dân chủ ở từng quốc gia, dân tộc, trong
những thời kỳ, điều kiện lịch sử khác nhau sẽ có cách thức, con đường, biện
pháp khác nhau để thiết lập và phát triển nền dân chủ. Trên cơ sở đó tác giả
phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của những nhận thức mới
về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta qua 30 năm
đổi mới; phân tích, làm rõ những nội dung mới trong nhận thức về dân chủ
XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta qua 30 năm đổi mới;
Trình bày, phân tích những vấn đề đặt ra trong nhận thức về dân chủ XHCN
và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta qua 30 năm đổi mới, cả về lý
luận và thực tiễn; đề xuất một số quan điểm, giải pháp phù hợp nhằm tiếp
tục bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân
chủ XHCN ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về dân chủ trong Quân đội có liên quan đến đề tài
Những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính
trị QĐND Việt Nam đã có nhiều quyết định, chỉ thị, hướng dẫn về thực
hiện dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở trong quân đội; có nhiều báo cáo
đánh giá về thực hiện và đề xuất các giải pháp thực hiện dân chủ trong
quân đội, như: “Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chỉ thị 30/CT-TW của
Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
trong Quân đội” của Đảng ủy Quân sự Trung ương (2003); “Nghiên cứu
giải pháp phòng chống vi phạm kỷ luật nghiêm trọng trong Quân đội hiện
nay” của Tổng cục Chính trị, năm (2007)… Các văn bản đều khẳng định
dân chủ và kỷ luật là những thuộc tính bản chất và truyền thống tốt đẹp của
QĐND Việt Nam; xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là nội
dung quan trọng nâng cao chất lượng tổng hợp của QĐND Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
17
Nguyễn Văn Dũng có viết đề tài: “Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế
dân chủ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh” [13]. Tác giả cho rằng, quân đội ta là quân đội kiểu mới của giai
cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc; trong mọi thời kỳ quân đội luôn
luôn xây dựng và phát huy quyền làm chủ của mọi quân nhân trong mọi hoạt
động. Dân chủ thực sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng góp phần
tạo thành sức mạnh của quân đội trong các thời kỳ cách mạng, phát huy truyền
thông quý báu đó, quân đội ta đã quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy
chế dân chủ ở cơ sở. Đây là một trong những động lực mạnh mẽ phát huy vai trò
tích cực của quân nhân, tạo nên bầu không khí dân chủ và đoàn kết thống nhất
trong đơn vị và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Việc vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh trong nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nói
riêng, xây dựng nền dân chủ XHCN nói chung có tầm quan trọng đặc biệt. Tác
giả đã khái quát những vấn đề lý luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện
quy chế dân chủ trong xã hội và quân đội. Nghiên cứu hiệu quả thực hiện quy
chế dân chủ ở đơn vị cơ sở QĐND Việt Nam, để làm cơ sở cho đề ra phương
hướng, xác định giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân
chủ đơn vị cơ sở QĐND Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân có cuốn sách: “Hồ Chí Minh về kỷ luật
và dân chủ trong quân đội” [52]. Cuốn sách lược trích trong những bài viết,
bài nói của Hồ Chí Minh về kỷ luật và dân chủ trong quân đội; kết cấu thành
hại Phần: Thứ nhất, nói về đoàn kết, kỷ luật và dân chủ trong Đảng, tác phong
công tác, tác phong lãnh đạo của cán bộ đảng viên. Hai là, nói về kỷ luật và
dân chủ trong quân đội, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân...Theo cuốn sách,
Hồ Chí Minh cho rằng, dân chủ tốt, kỷ luật nghiêm vừa là một nguyên tắc xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vừa là truyền thống tốt đẹp của QĐND
Việt Nam. Đó là một yếu tố tạo thành sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ
trang nhân dân, thực hiện dân chủ rộng rãi, kỷ luật nghiêm minh là trách
18
nhiệm chính trị của toàn thể cán bộ và chiến sĩ. Năm 1976, Nhà xuất bản
QĐND tiếp tục phát hành cuốn sách: “Hồ Chí Minh về đoàn kết dân chủ và
kỷ luật trong quân đội ta” [53]. Tại đây, Nhà xuất bản lược trích và biên soạn
lại cuốn sách trên, bổ sung thêm vấn đề học tập, làm theo lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về đoàn kết, dân chủ và kỷ luật. Cuốn sách gồm 2 phần: Phần thứ
nhất - Đoàn kết, dân chủ và kỷ luật là truyền thống tốt đẹp, là sức mạnh của
quân đội ta, đại đoàn kết là nền tảng của đại thắng lợi; Phần thứ hai - Quân đội
ta phải để cao phê bình và tự phê bình để thực hiện dân chủ tốt, kỷ luật nghiêm,
đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, cán bộ phải luôn luôn gương mẫu, lãnh đạo
đơn vị triệt đề thi hành mệnh lệnh cấp trên, tuyệt đối chấp hành đường lối,
chính sách của Đảng và Chính phủ, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ...
Tổng cục Chính trị đã xuất bản cuốn sách:“Dân chủ và kỷ luật trong
Quân đội nhân dân Việt Nam” [54]. Cuốn sách gồm bốn phần, trong phần thứ
nhất đã đề cập đến nâng cao trình độ dân chủ kỷ luật của QĐND trong giai
đoạn hiện nay, đã nghiên cứu, luận giải khá toàn diện, sâu sắc mối quan hệ
dân chủ và kỷ luật trong QĐND Việt Nam; chứng minh bằng hoạt động thực
tiễn của một số đơn vị quân đội...
Tạ Việt Hùng có cuốn sách chuyên khảo: “Chất lượng thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở đơn vị cơ sở quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [26]. Tác giả
đã đi sâu nghiên cứu về việc thực hiện quy chế dân chủ gắn với tăng cường hệ
thống chính trị ở cơ sở các lĩnh vực, môi trường khác nhau, chỉ ra các giải pháp cụ
thể để thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở đơn vị cơ sở QĐND Việt Nam.
Nguyễn Văn Quang có Luận án Tiến sĩ Triết học: “Ý thức dân chủ xã
hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay” [57]. Luận án đã trình bày khá toàn diện về ý thức dân
chủ XHCN, chỉ ra những nội dung cơ bản về bản chất dân chủ XHCN, ý thức
dân chủ XHCN và vai trò của nó trong xây dựng phẩm chất cách mạng của
công dân nói chung và hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở QĐND Viê ôt Nam
19
nói riêng. Chỉ ra các biểu hiện ý thức dân chủ XHCN ở hạ sĩ quan, binh sĩ ở
đơn vị cơ sở; đưa ra 3 yêu cầu, xác định 4 giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý
thức dân chủ XHCN ở đối tượng này.
1.2. Tình hình nghiên cứu về vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Lào
có liên quan đến đề tài
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về dân chủ trong xã hội Lào
Nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng, củng cố chế độ dân
chủ nhân dân, tạo cơ sở để tiến lên CNXH, đã có nhiều nhà khoa học, nhà lãnh
đạo Đảng, Nhà nước quan tâm nghiên cứu về dân chủ, dân chủ XHCN có liên
quan trực tiếp đến đề tài. Trong đó nổi lên có các công trình như sau:
Viê nô Khoa học - xã hô iô quốc gia đã có nhiều có công trình nghiên cứu về
vấn đề dân chủ, nhân quyền, nổi lên các công trình sau:“Chế đô ê dân chủ nhân
dân và xây dựng nhân tố để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hô êi ở Lào” [134].
Tác giả luận giải: Trên tinh thần đổi mới toàn diê ôn đất nước, Đảng NDCM
Lào đã đề ra đường lối tiếp tục xây dựng, củng cố chế đô ô dân chủ nhân dân,
tạo nhân tố từng bước tiến lên CNXH. Thực hiê ôn đường lối đó, 30 năm qua
đã làm cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có bước phát triển toàn diê ôn, đất
nước hòa bình, ổn định, đời sống vâ ôt chất, tinh thần của nhân dân ngày càng
được củng cố tốt hơn. Công trình kết cấu thành 3 chương. Trong Chương 2,
Quá trình hình thành phát triển của chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta. Công
trình đã luận giải việc thực hiê ôn đường lối cải cách và xây dựng XHCN trong
những năm đầu (1976 - 1986). Cuốn “Quan điểm đường lối chính sách của
Đảng - Nhà nước về thực hiê ên nhân quyền ở Cô êng hòa dân chủ nhân dân
Lào” [132]. Đây là công trình đầu tiên, trực tiếp công bố và tuyên truyền cho
cán bô ô - viên chức, bô ô đô iô , công an và nhân dân các bô ô tộc Lào về quyền cơ
bản của mình theo Hiến pháp và pháp luâ tô nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào đã quy định, góp phần vào sự nghiê pô xây dựng và bảo vê ô Tổ quốc. Công
20
trình nghiên cứu khái quát thông tin lý luâ nô , thực tiễn về sự quản lý và phát
huy nhân quyền ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và trên thế giới. Trong cuốc
sách “Nhân quyền và sự phát triển xã hội - tộc người” [135]. Tác giả cho rằng:
Nhân quyền có mối quan hệ biện chứng với sự phát triển, với tư cách con
người là trung tâm của sự phát triển. Nhưng trình độ phát triển kinh tế - xã hội
của các bộ tộc Lào chưa đồng đều. Do vậy, để làm cho các bộ tộc sinh sống ở
mọi miền Tổ quốc có sự phát triển đồng đều là cần thiết, đảm bảo được quyền
công bằng, bình đẳng giữa các bộ tộc. Cùng với đó, công trình đã đưa ra
những kết luâ nô về thực tiễn xây dựng, củng cố và phát triển xã hội, tộc người
ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong nhiều năm qua. Trong cuốn sách:
“Nhân quyền và mầu sắc văn hóa” [133]. Tác giả cuốn sách chỉ ra rằng: Để
bảo vệ và phát huy văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tọa sự hiểu biết đúng đắn với
mầu sắc về văn hóa và tiếp thu, có chọn lọc văn hóa tiến bộ của nhân loại, mà
còn mở rộng dân chủ trong nghiên cứu khoa học để đưa những giá trị văn hóa
vào phát triển đời sống xã hội, bảo vệ và phát huy nhân quyền góp phần vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sy Bun Hương Phăn Đa Vông có bài viết: “Nhân tố văn hóa - xã hội của
chế độ dân chủ nhân dân để tiên lên xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào” [113]. Tác giả chỉ rõ vai trò tầm quan trọng của yếu tố văn hóa - xã
hội, trong đó có truyền thống văn hóa đặc sắc của dân tộc Lào là cơ sở tạo nên
nhân tố cơ bản hình thành văn hóa - xã hội của chế độ dân chủ nhân dân ở Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào; sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về văn hóa; tìm ra
những giải pháp cơ bản nhằm bảo vệ và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, tăng cường tính tích cực, ảnh hưởng của văn hóa - xã hội đối với xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Vi Xay Kẹo Đuông Đi có bài viết: “Phát huy dân chủ và thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở” [130]. Bài viết cho rằng, thực hiện
21
quyền làm chủ của nhân dân và phát huy dân chủ phải đi song song với nhau,
hai vấn đề này có mỗi quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời. Bước
vào giai đoạn cách mạng mới thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược - xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta đã coi trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân các bộ tộc Lào trọng sự nghiệp xây dựng, bảo vệ thành quả của cách
mạng và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, trên cơ sở đoàn kết toàn dân mà giành
được thắng lợi từng bước. Ngoài ra bài viết còn đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm phát huy dân chủ và thực hiê ôn quyền tự quyết của nhân dân ở cơ
sở.
Vi Xúc Phôm Phị Thắc có bài viết: “Dân chủ hóa trong lãnh đạo, tổ
chức và hoạt động của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hô êi chủ nghĩa” [131, tr.1]. Bài viết cho rằng, dân chủ là quy luật chính trị
được biểu hiện dưới hình thức hay chế độ tổ chức, quản lý của một nhà nước,
của các tổ chức chính trị; dân chủ có tính giai cấp, tính lịch sử nhất định, nó
chỉ ra mỗi quan hệ giữa nhà nước với công dân; dân chủ là kết quả cuộc đấu
tranh của nhân dân lao động đã đạt được trong điều kiện lịch sử nhất định. Bài
viết còn cho rằng, dân chủ hóa vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm, thể hiện
bằng sự quy định đối với các tổ chức của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội và
đảng viên, cán bộ và công dân bằng Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước,
nhằm giải quyết hài hòa mỗi quan hệ trong tổ chức, hoạt động của Đảng trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN.
K.O La Bun đã có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết liên quan đến
vấn đề dân chủ ở Lào, trong đó nổi lên có cuốn sách: “Đảng và nhân dân Lào
lựa chọn và kiên định xã hội chủ nghĩa” [100]. Tác giả đã nghiên cứu nhiều
vấn đề liên quan đến vấn đề chính trị, dân chủ trong xã hội Lào, từ việc lựa
chọn con đường, bài học kinh nghiệm các nước XHCN, cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước… Trong đó nổi lên: Ở trang 131, có bài “Nên mở
- Xem thêm -