Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Y lý cơ bản

.DOCX
13
347
73

Mô tả:

Y LÝ CƠ BẢN NGŨ TẠNG : là 5 cơ quan tàng trữ * tâm tàng thần * phế tàng phách *can tàng hồn *tỳ tàng ý và trí * thận tàng tinh và chí TÂM : a/ chủ thần minh b /chủ huyết mạch , ứng ở mặt c/ quan hệ với lưỡi CAN : a / can tàng huyết b / can chủ mưu lự -(mưu kế , lo nghỉ ) c / can quan hệ với gân, móng tay móng chân d / can quan hệ với mắt TỲ : a/ tỳ chủ vận hoá b / tỳ thống huyết c/ tỳ quan hệ với tứ chi, cơ nhục cho đến miệng ,môi PHẾ : a/ phế chủ khí b/ phế chủ tiết , điều hoà huyết dịch của thân thể c/ phế hiệp với da lông d/ phế khai khiếu ở mũi e/phế quan hệ với cuống họng âm thanh THẬN : a/ thận tàng tinh b/ thận quan hệ với sinh trưởng phát dục c/ thận chủ về hoả của mệnh môn d/ thận chủ xương tuỹ thông với não e/ thận khai khiếu ở tai và nhị âm ( đại tiểu tiện ) Y LÝ CƠ BẢN LỤC PHỦ : 6 kho ĐỞM a/ đởm chủ quyết đoán b/ đởm là kho chứa tinh ở giữa c/ can và đởm có quan hệ với nhau VỊ : ( dạ dày ) a/ vị là biển của thuỷ cốc ( nước , gạo , cơm ),làm nát nhừ cơm nước b /vị quan hệ với tỳ ĐẠI TRƯỜNG - TIỂU TRƯỜNG : ( ruột non , ruột già ) a/ ruột non chủ tiêu hoá mà phân ra chất trong , chất đục b/ ruột già chủ việc truyền tống chất cặn bã c/ ruột già quan hệ với ruột non d/ ruột già quan hệ với phế e/ ruột non quan hệ với tâm BÀNG QUANG a// bàng quang chủ việc chứa tân dịch b/ bàng quang quan hệ với thận TAM TIÊU - bộ vị của tam tiêu gồm : a/ thượng tiêu : từ miệng của dạ dày đến lưỡi b/ trung tiêu : từ miệng trên của dạ dày đến miệng dưới của dạ dày c/ hạ tiêu : từ miệng dưới của dạ dày đến nhị âm ( đại tiểu tiện ) công năng của tam tiêu thượng tiêu : chủ nạp như hit hơi thở vào phế , ăn uống vào vị , đem khí đi khắp cơ thể làm âm da, nhuần lông trung tiêu : đem chất hoá sinh của thức ăn nuôi dưỡng khí huyết tân dịch hạ tiêu : chủ xuất mà không nạp như đại tiểu tiện , bài tiết tưới rưới cho thuỷ dịch ,tiết biệt chất trong , chất đục -- để giúp các bạn có một chút khái niệm về tạng phủ và làm quen với những danh xưng trong y lý đông y LE THAO dành phần đầu nói về lý thuyết - mong các bạn cố gắng theo dõi - sau đó ta sẽ cùng nhau hướng dẫn thực hành DỊCH LÝ CƠ YẾU A / DỊCH là gì Dịch là thay đổi vận chuyển biến hóa Vạn vật thay đổi không ngừng , cho nên dịch là lý đương nhiên tất yếu Của vũ trụ , của thế giới của mọi sự vật kể cả con người và sự sống Việc chữa bệnh tất phải luôn luôn chú trọng tới sự kiện biến đổi trong sinh lý và cơ thể người bệnh .Y khoa cổ truyền có câu : ‘’BẤT TRI DỊCH ,BẤT KHẢ DĨ NGÔN Y ‘’( không biết dịch , không thể nào nói chuyện chữa bệnh được ) Hiểu biết dịch tức là chú trọng tới sự biến chuyển cuả người bệnh ,biết những quy luật của sự biến chuyển , mới có thể tác động vào cơ thể một cách hữu hiệu , tức là đem lại sức khỏe cho người bệnh Trong vũ trụ vạn vật cũng như trong cơ thể con người ( một tiểu vũ trụ thu nhỏ ) Sự biến dịch sở dĩ có là do hai tính chất khác nhau : ÂM – DƯƠNG B / ÂM –DƯƠNG Tính âm và tính dương là hai tính chất có trong sự vật đặc biệt là trong cơ thể con người Và những bộ phận , cơ quan trong đó . Thông thường ai cũng thấy được tính ÂM và DƯƠNG của sự vật , như Bóng tối ( âm ) và ánh sáng ( dương ) Lạnh ( âm ) và nóng ( dương ) Nặng ( âm ) nhẹ ( dương ) Bên trong ( âm ) bên ngoài (dương ) Phía dưới ( âm ) và phía trên ( dương ) vv … Vậy âm và dương là hai mặt đối chọi nhau , nhưng tồn tại thống nhất với nhau Đối chọi để tiết chế nhau hầu điều hòa nhau , cùng nhau làm cho mọi sự vật được tồn tại hiện hữu Cần ghi nhớ những quy luật sau đây : 1/ có âm tất phải có dương ( và ngược lại ) mới thành sự vật 2/ trong âm có dương và trong dương có âm 3/ âm sinh trong dương và dương sinh trong âm 4 /âm và dương sinh ra nhau và khống chế nhau Trong lý luận âm và dương được ký hiệu như sau : _____ dương --- --- âm C/ NGŨ HÀNH Nếu âm dương là những nguyên tính gây ra biến chuyển ( dịch biến ) thì ngũ hành là quy luật chung nhất của dịch biến Ngũ hành là 5 bước đi có khi gọi là ngũ vận ( là 5 đoạn chuyển đổi ) Vậy ngũ hành là 5 giai đoạn biến đổi , chuyển hóa của sự vật đặc biệt là sự sống , sinh lý con người Mộc- hỏa- thổ - kim- thủy ( gỗ - lửa – đất – vàng -nước ) không phải là chất liệu ,mà chỉ là những tên gọi tiện lợi của 5 đoạn chuyển biến , chúng chỉ có tính tượng trưng cho quá trình dịch biến Mộc ( thuộc gỗ) tượng trưng cho trạng thái phát triển ,mùa xuân thuộc mộc Hỏa ( lửa ) tượng trưng cho mức cùng tột lớn nhất của sự vật , mùa hạ thuộc hỏa Thổ ( đất ) biểu tượng cho mức trung hòa của biến hóa : mùa trường hạ ( khi hè sắp sang thu ) thuộc hành thổ Kim ( vàng , kim loại ) tượng trưng cho chức năng đang hoái hóa ) , mùa thu thuộc kim Thủy ( nước ) biểu tượng sự ngưng đứng yên tỉnh chuẩn bị cho một ký biến đổi khác , mùa đông thuộc thủy , nó chuẩn bị cho muà xuân tới Về y lý cần nhớ những sự vật tương ứng với ngũ hành như sau MỘC - HỎA - THỔ - KIM - THỦY Can - tâm - tỳ - phế - thận Đởm - tiểu. trường – vị - đại trường - bàng quang Cân mạch - nhục - bì - cốt Nộ ( giận ) hỷ ( mừng ) tư ( nghĩ ) bi ( buồn ) kinh ( sợ ) Phong ( gió ) nhiệt ( nóng ) thấp ( ướt ) táo ( khô ) hàn ( lạnh ) Giữa các hành có 2 quan hệ sau : Quan hệ tương sinh : ( hỗ trợ - giúp đỡ ) Mộc sinh hỏa , hỏa sinh thổ , thổ sinh kim , kim sinh thủy , thủy sinh mộc Quan hệ tương khắc : ( ức chế -điều tiết ) Mộc khắc thổ , thổ khắc thủy ,thủy khắc hỏa ,hỏa khắc kim , kim khắc mộc THẤT TÌNH : NGUYÊN NHÂN NỘI THƯƠNG THẤT TÌNH ( 7 tình huống ) hỷ ( mừng ) - nộ ( giận ) ai ( thương xót )- tư ( lo nghỉ ) ưu ( buồn rầu , lo lắng ) khủng ( sợ hãi ) kinh ( hoãng - loạn ) MỨNG: thì khí bị tán - mừng quá thương tâm . lưu ý : '' thương = hại '' GIẬN : thì khí nghịch - giân quá thương can LO: thì khí bị hãm - lo quá hại phổi NGHỈ : thì khí bị kết - nghỉ nhiều hại tỳ vị SỢ : thì khí bị khiếp - sợ hại thương thận KINH : thì khí bị loạn - kinh hoãng hại đởm THƯƠNG : Thì khí bị hao LỤC KHÍ : NGUYÊN NHÂN NGOẠI CẢM Lục khí là : PHONG ( gió ) - HÀN (lạnh) - THỬ ( nắng )- THẤP ( ẩm ướt ) -TÁO ( khô ráo ) HOẢ ( lửa , nóng ) HÀN hại khí thì run rẫy THỬ hại khí thì nóng bức TÁO hại khí thì bí kết THẤP hại khí thì phù thủng PHONG hại khí thì đau nhức HOẢ hại khí thì loá , mờ mắt -----------------NGŨ TẠNG BỊNH CƠ Bệnh ghẻ phát ngứa đều thuộcTÂM bệnh phong làm xây xẩm đều thuộcCAN bệnh thấp làm đầy trướng đều thuộc tỳ bệnh về uất hơi đều thuộc PHẾ bệnh lạnh dẫn phát đều thuộcTHẬN ---------------NGŨ LÃO SỞ THƯƠNG Nhìn lâu hại huyết nằm lâu hại khí ngồi lâu hại thịt đứng lâu hại xương đi lâu hại gân TỨ CHẨN : LÀ 4 phép xem xét hay 4 phép khám để biết bệnh - VỌNG CHẨN : trông , nhìn hình sắc , điệu bộ -VĂN CHẨN : là nghe ngóng âm thanh , hơi thở ,ý tứ - VẤN CHẨN : là hỏi rỏ căn bệnh , trạng chứng - THIẾT CHẨN : Là xét đoán bộ mạch vọng -văn - vấn - thiết tuy có sếp thứ tự trước sau đó là nói trước ,ta nhìn hình sắc người bệnh ( vọng ) rồi nghe tiếng nói ( văn ) hỏi thêm căn bệnh ( vấn ) sau cùng mới thiết mạch ( thiết ) .hầu như thứ tự này khôg thể đão lộn nhưng chỉ cần biết rằng VỌNG là sơ khởi còn THIẾT là tối hậu vọng văn vấn có thể linh động trong chung một lúc , hay thiết mạch có thể cùng vọng -văn -vấn cũng được . M iễn la người thầy thuốc có đủ khả năng , tinh thần và tài nghệ phép TỨ CHẨN là là công việc đầu của người thầy thuốc và là chủ chốt rất cần thiết khi khám bệnh và điều trị người làm công việc khám và điều trị phảỉ sử dụng cả ngũ quan của mình - THỊ GIÁC : thần kinh để xem xét -THÍNH GIÁC thần kinh để nghe ngóng -KHẨU GIÁC thần kinh để hỏi đáp -XÚC GIÁC thần kinh để chẩn đoán - KHỨU GIÁC thần kinh để đánh hơi mặc dù ngày nay đã văn minh hay sau này còn văn minh đến cực độ mãi mãi trước sau vẫn lấy TỨ CHẨN làm căn bãn để thi dụng trong việc trị bệnh khôg thể chê bỏ được bởi đó chính là bộ môn khoa học tinh kỳ ,giao hoà với âm dương ,ứng với ngũ hành , đối chiếu với kinh lạc tạng phủ của con người , có kỷ cương , có đạo lý , uyên thâm mà phong phú vô tận NGŨ SẮC : đỏ , xanh ,trắng , vàng , đen đó là những màu sắc có thần khí hiện lên trên sắc diện mỗi người - Đỏ thì đỏ tươi - Xanh thì xanh láng -Trắng thì trắng bóng -đen thì đen nhánh - Vàg thì vàng tươi , nếu trên gương mặt thể hiện rỏ nét ngũ sắc có thần có khí thì bệnh nhân có sức sống động , bệnh không nguy kịch , và ngược lại * NHÌN TOÀN BỘ MẶT mặt đỏ hồng là phong mặt tái xanh là đau bụng mặt trắng lợt là hàn mặt thẳm đen là lao mặt vàng là đại tiểu tiện khó khăn *NHÌN MŨI đầu mũi bình thường đỏ và ngứa là phong nhiệt bất thường đỏ là bệnh nặng đầu mũi xanh là đau bụng đầu mũi trắng là mất máu đầu mũi đen là trong người tích nhiều nước đầu mũi vàng là trong bụng lạnh * NHÌN : MÔI -MIỆNG - LƯỠI môi dưới tự nhiên thâm đen là tỳ , thận hàn môi đỏ là tâm , vị nhiệt lưỡi sưng to đầy trong miệng nói khôg ra tiếng là ''trùng thiệt '' ăn uống không tiêu lưỡi sưng trong miệng mà cứng là ''mộc thiệt ''làm khó thở đầu lưỡi nhọn và đỏ , đỏ cả hai môi là tâm nhiệt lưỡi cứng lưỡi co rụt là nguy chứng giữa lưỡi trũng xuống chung quanh lưỡi như răng cưa là bệnh bất trị phía trên và phía dưới lưỡi phồng lên như bong bóng là bệnh bất trị * NHÌN MẮT mắt đỏ sưng là can nhiệt mắt không đỏ nhưng nước mắt sống chảy ra hoài là can huyết hư mí mắt dưới phía trong trắng lợt là can huyết hư hàn * NHÌN CHUNG HÌNH SẮC TRONG LÚC BỆNH NẶNG hơi người xông ra hôi thúi là thịt đã chết lưỡi rụt , bìu dái xăn là can đã tuyệt miệng há hốc là tỳ đã tuyệt tóc dựng đứng da thịt và xương khô là thận đã tuyệt vành mắt trũng xuống , mồ hôi ra từng giọt trên mắt dính lại không rớt xuống là dương khí tuyệt móng tay móng chân biến sắc xanh là can thận tuyệtPhương pháp đông y nói chung và y học dân tộc nói riêng đã có nhiều mặt đứng đắn khoa học nên qua nhiều thử thách vẫn luôn đóng vai trò chỉ đạo xuyên suốt y học cổ truyền chúng ta càn thừa kế , phát huy những mặt tích cực đó trong những tài liệu của rất nhiều tác giả viết sách về đông y, châm cứu xưa và nay đóng vai trò thiết yếu trong cách đièu trị bệnh liệu pháp châm cứu được xem là liệu pháp truyền thống của trung y ,từ lâu đã được đông đảo mọi người biết đến .Liệu pháp điểm huyệt ( bấm huyệt ) có lịch sử còn sớm hơn so với liệu pháp châm cứu .tuy nhiên liệu pháp này thường bị quên lãng , cho nên nó chỉ được xem là một liệu pháp dân gian được ứng dụng rộng rãi và hữu hiệu khởi nguồn của liệu pháp châm cứu có từ thời cổ xưa ,con người chưa có phương pháp và kỹ thuật trị liệu một cách hệ thống , mọi người dùng những hình thức như dùng ngón tay , cành cây ,mảnh trúc hoặc miếng đá ấn hoặc gõ vào nhưng bộ phận trên cơ thể của bệnh nhân ,những vùng đang chịu sự đau đớn ,để làm giảm đi những cơn đau nhất thời rất hữu hiệu. dần dần trãi qua tích luỹ những kinh nghiệm lâu dài nên phương pháp ứng dụng các dung cụ phát triển ,người ta sáng tạo ra những vật dụng thích hợp và an toàn hơn để châm cứu , điểm huyệt như đá , kim ,,vv,và cuối cùng kim châm là dụng cụ tất yếu nhất cho đến giờ ,và cũng từ đó liệu pháp điểm huyệt rút lui khỏi vũ đài trị liệu thật ra liệu pháp điểm huyệt ( bấm huyệt ) cũng như liệu pháp châm cứu đầu có tác dụng thông kinh mạch điều hoà âm dương , bổ tả hư thực hoạt huyết khử ứ , điều hoà chức năng tạng phủ .những điều đó giúp cơ thể người bệnh được khôi phục bình thường gần ba mươi năm các báo cáo về phương pháp điểm huyệt trị liệu các loại bệnh luôn được đăng tãi trên các tạp chí y học ,những loại nệnh như nhi khoa nội khoa , phụ khoa hô hấp ,cao huyết áp tim mạch , thấp khớp đã chứng minh được phạm vi rộng rãi của phương pháp điểm huyệt trị liệu ưu thế của phương pháp nàu không tạo vết thương , không gây nhiễm trùng lỡ loét , ít gây sốc, đơn giãn , hữu hiệu rỏ rệt thông thường ta có thể sử dụng thủ pháp gọi là CHỈ CHÂM : ''dùng ngón tay điểm huyệt trị liệu hy vọng những bài hướng dẫn tiếp theo sau đây sẽ giúp các bạn tự điều trị một số bệnh thông thường , xảy ra trong gia đình và bạn bè chung quanh bằng những gì đơn giãn nhất ĐIỂM MÔN PHÁP Ta dùng ngón tay hoặc dụng cụ để ấn lên ngay huyệt vị khác nhau trên cơ thể người bệnh. Thi triển kỹ thuật điểm ấn với cường độ nặng nhẹ, kích thích sao cho cảm giác tê buốt căng, thông. Để cách trị liệu đạt được hiệu quả tối ưu hầu mang lại cho người bệnh niềm phấn khởi, ta cần chú ý những điều cần thiết sau đây : - Phép bổ tả thuận nghịch theo hướng ly tâm và hướng tâm của từng kinh mạch - Đếm thời gian đủ cho từng vị trí huyệt sử dụng - Vần thành thạo tính âm dương của từng bộ phận thủ - túc trên cơ thể - Xét tứ chẩn để không nhầm lẫn bộ huyệt sử lý điều tri Ngoài việc sử dụng liệu pháp điểm huyệt, cần phải tập cho nhuần nhuyễn việc đốt thuốc cứu. Đây cũng là cách trị liệu song song với điểm huyệt " không thể thiếu ''. Khi ta đã thành thạo những cần thiết cơ bản của phương pháp điểm huyệt, ta có thể giúp bất kể nơi nào có người bệnh, chỉ với đôi tay và điếu thuốc cứu, những hiệu quả mang đến có thể nói ngoài sự suy nghỉ mà ta chưa hề có hoặc chưa thể tự tin. --MƯỜI BỆNH THÔNG THƯỜNG : tự điểm huyệt điều trị 1/-Nhiễu nước miếng 2/-Lạnh bàn chân 3/-Chảy nước mắt sống 4/-Cao huyết áp 5/-Bồi hồi nhịp tim 6/-Nhức đầu do viêm xoang 7/-Tiểu đêm 8/-Trúng gió á khẩu -nói ngọng 9/-Mất ngủ HƯỚNG DẪN BẤM HUYỆT TỰ TRỊ BỆNH NHIỄU NƯỚC MIẾNG Ta có thể dùng cây tăm nhỏ châm nhè nhẹ vào giữa hai khóe mép miệng, (khóe góc giữa môi trên và môi dưới). Lưu ý ta xoay nhẹ đầu tăm, tránh va chạm mạnh làm tổn thương vì phần da nơi này rất mỏng. Thời gian khỏang 40 giây cho mỗi lần của mỗi khóe, ngày có thể châm 2 lần. Người bệnh do không khép được cơ miệng nên nhiễu nước miếng cả ngày. - Công dụng chỉ trong vòng 7 ngày là có hiệu quả Huyệt này có tên gọi : Yến khẩu - CẤM KHẨU (hoặc nói ngọng, líu lưỡi, nói khó nghe ) Ta cũng dùng que tăm, nhưng cách xử lý có hơi khó. Ta bảo người bệnh há miệng, đưa lưỡi lên, nhìn nhanh phía dưới lưỡi chính giữa có một sớ như sợi gân mỏng, hai bên sợi gân đó có phần thịt nhô lên cở 2 hạt đậu đỏ, dùng que tăm ve nhẹ vào 2 phần thịt nhô lên đó. Người bệnh sẽ rât khó chịu và sẽ ngậm miệng lại rất nhanh. Ta dùng biện pháp tâm lý dỗ bệnh rồi lại tiếp tục ve đầu tăm vào cũng khoảng thời gian từ 30 giây cho mỗi bên phần thịt nhô lên đó. Kết qua tùy thuộc vào thời gian người bệnh á khẩu. Nếu mới trúng phong - á khẩu trong vòng 1 tuần cho đến 1 tháng thì châm khoảng 1 tuần là người bệnh sẽ bắt đầu nói lại được nếu thời gian á khẩu đã lâu từ 6 tháng, ta châm giai đoạn dài hơn 2 huyệt này có tên là Kim Tânvà Ngọc dịch - LẠNH BÀN CHÂN Thông thường người bị lạnh dưới bàn chân, khí kém và dễ bị nhiễm cảm. Người già trở trời mưa hay lạnh bàn chân, người bệnh suy nhược cũng lạnh lòng bàn chân, có những người hay ngất xỉu tay chân, nhất là lòng bàn chân lạnh buốt. Ta dùng điếu thuốc cứu hơ ấm dưới lòng bàn chân. Ta lấy huyệt từ ngón chân giữa phía dưới lòng bàn chân kéo xuống khoảng cách bằng 4 ngón tay đặt nằm ngang , lưu ý nơi này có chỗ hõm rất dễ dàng nhận ra. Ta hơ ấm bằng điếu thuốc cứu. Thời gian khoảng 30 giây cho mỗi bên và hơ tiếp tục như vậy 3 lần (tất cả lả 90 giay). Muốn biết sức chịu nóng của người bệnh như thế nào để không bị bỏng, ta hơ trực tiếp lên chân mình trước. khoảng cách điêu thuốc cứu và da là hơn 2 phân. Tuy nhiên, mỗi người có tầng số chịu đựng độ nóng khác nhau, tùy theo sự lên tiếng của bệnh nhân mà ta nâng điếu thuốc cứu lên cao hay hạ xuống thấp. Mỗi ngày ta hơ như thế khí nóng được đưa vào huyệt đầu tiên của kinh thận giải quyết được bệnh lạnh chân rất hay. Huyệt này có tên là Dũng tuyền. Bấm huyệt tự điều trị nhữg bẽnh thông thường -- CẢM - CÚM Người bị cảm - cúm do thời tiết , do đi mưa nhiễm lạnh , do cơ thể suy yếu mà lại làm việc dưới một áp lực thời tiết không ổn định vv... ta dùng điếu thuốc cứu hơ phía sau cổ ta cho người bệnh cúi đầu xuống chút xíu , khoảng giữa vai ta nhận thấy có một đốt sống nhô lên cao hơn , ta lấy từ điểm u nhô lên đó gôi là 1 điểm , lấy lẹn phía trẹn một điểm nữa khoảng cách 2 phân , và cũng từ điểm u nhô lên ta lấy xuống dưới 1điểm nữa , tất cả là 3 điểm , ta hơ ấm cho đến nóng dần song song với việc hơ nóng ta dùng ngón tay bấm mạnh vào cả 3 điểm trên vén tóc ổ cuối gáy tóc ta hơ ấm một vòng ngang từ trái qua phải , cố gắng đừng để cháy tóc cách này làm giảm đi phần khó chịu của một hệ thống cảm mạo và xây xẩm chóng mặt , nôn mữa 3 huyệt trên có tên là : đào dạo - đại chùy -sùng cốt - MẤT NGŨ Có 3 cách để tìm nguyện nhân xử lý mất ngủ đơn giãn nhất 1/ mát ngủ đầu giờ , nguyên nhân do tâm 2/ mất ngủ giữa đêm do thận 3 / mất ngủ cận sáng do tâm thận bất tương giao ta cứu một huyệt duy nhất trên đỉnh đầu , lấy từ vành tai lên đến giữa đầu, hơ bằng điếu thuốc cứu khỏang 30 giây cho mỗi lần hơ ta làm lại động tác hơ ấm như thế 3 lần hơ vài ngày đến 1 tuần , nếu thấy dễ ngủ thì ngưng vuốt nhẹ vào huyệt sẽ giúp giấc ngủ dễ dàng hơn huyệt này có tên là bách hội lưu ý chỉ dùng khi mất ngủ , không dùng huyệt này thường xuyên bí quyết sống khỏe.Để sống hạnh phúc "Thở thật thâm sâu, thức chẳng lo âu, ngủ không mộng mị, ăn không cầu kỳ" là bốn bí quyết sống khỏe người xưa truyền lại cho đến giờ vẫn còn nguyên giá trị. Thiết nghĩ trong thời đại mà bệnh tật bủa vây, những bí kiếp của cha ông rất đáng suy ngẫm và cần khai thác triệt để. Thở thật sâu Nhờ hô hấp thở ra hít vào mà cơ thể ta mới được cung cấp đủ dưỡng khí (khí oxy) từ khí trời và đào thải thán khí ( khí Cacbonic) từ trong cơ thể ra ngoài. Nhờ hít thở mà duy trì sự sống. Hít thở bình thường chỉ dùng một phần hai lá phổi. Còn thở thật thâm sâu là hít thở với gần trọn cả hai lá phổi, với cơ hoành hoạt động tích cực xoa bóp các phủ tạng ở bụng. Thở thâm sâu không chỉ cho nguồn sống nhờ thu thật nhiều khí oxy, thải gần hết khí CO2 ở phổi, mà còn tác động giúp thanh lọc tâm ý. Thở thật thâm sâu là hít thở với trạng thái tỉnh thức hoàn toàn: “Hít vào thấy bụng phình ra, thở ra, thấy bụng xẹp lại”, với tâm ý thanh tịnh và hân hoan. Thức chẳng lo âu Stress là những áp lực về mặt tâm lý và những biến động trong gia đình, trong xã hội tác động lên con người gây mất cân bằng. Đáp ứng của con người bị stress là cảm thấy có “sự căng thẳng, lo âu”. Cần lưu ý, stress không phải luôn luôn xấu. Với liều lượng vừa phải, chính stress giúp ta có sự hưng phấn, cảnh giác, tập trung cao độ để đối phó lại tình huống không thuận lợi. Ta sẽ có những suy nghĩ tích cực, tìm cách làm chủ thực tế, quyết tâm giải quyết khủng hoảng đó và thường là thành công trong việc vượt qua stress mà chẳng cảm thấy quá lo âu. Tuy nhiên, nếu stress cứ lặp đi lặp lại và chúng ta không làm chủ được nó, không thích ứng với những biến đổi do nó đưa đến, cơ thể sẽ bị rối loạn về mặt thể chất và tâm thần. Người bị stress thường xuyên ăn uống kém, hoạt động thể chất kém và dễ tìm đến rượu, thuốc gây nghiện (có người tìm đến ma túy) dùng làm phương tiện giảm thiểu stress, do đó dễ trở thành người nghiện. Ngủ không mộng mị Giấc ngủ không phải là sự ngưng nghỉ hoạt động hoàn toàn mà là dạng đặc biệt của hoạt động cơ thể giúp cơ thể phục hồi năng lượng đã tiêu hao khi thức. Giấc ngủ không mộng mị là giấc ngủ đủ, sâu và là cách phục hồi sinh lực tốt nhất. Ngủ có đủ thì mới say giấc nồng, nếu ngủ sâu thì dù có nằm mộng, khi thức dậy chẳng nhớ gì hết. Thời lượng trung bình của giấc ngủ đủ khoảng tám giờ nhưng không nhất thiết luôn luôn như vậy (có người ngủ đủ với ít hơn hoặc nhiều hơn so với tám giờ). Dấu hiệu cho biết ngủ đủ là có sự sảng khoái, tươi tỉnh, thoải mái khi thức giấc, làm việc bình thường vào ban ngày. Ngủ không sâu sẽ bị mộng mị và cơ thể không khỏe dễ bị ác mộng. Ác mộng được kể là một loại rối loạn giấc ngủ. Rối loạn giấc ngủ có nhiều loại và ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, đó là mất ngủ, ngủ nhiều, ác mộng, miên hành (mộng du), nói mớ, nghiến răng, hoảng sợ khi ngủ... Riêng mất ngủ là rối loạn thường gặp và làm khổ sở khá nhiều người. Ăn không cầu kỳ Ăn không cầu kỳ là ăn “đủ” và ăn “lành”. Trước hết là ăn uống sao cho đầy đủ và cân bằng năm nhóm chất dinh dưỡng (nhóm chất đạm, chất béo, chất đường bột, vitamin và chất khoáng). Chữ “cân bằng” trong ăn uống rất quan trọng. Chúng ta không nên ăn thừa mứa quá nhiều mà thật vừa đủ chất đạm, chất béo, chất đường bột (một bộ phận ủng hộ không ăn đạm động vật như heo, bò, gia cầm... để cải thiện môi sinh và hạn chế bệnh tật). Nên ăn nhiều rau cải tươi, trái cây, các loại ngũ cốc còn nguyên vì những loại này rất tốt cho sức khỏe. Ăn “lành” còn có nghĩa là biết cách ăn uống. Chẳng hạn luôn thực hiện ăn chín, uống sôi; thức ăn cũ cần hâm kỹ trước khi ăn; bảo quản tốt thực phẩm đã chế biến, chống ruồi, gián, bụi bặm xâm nhập; rửa tay bằng xà bông trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và lao động... Nếu vận dụng nhịp nhàng 4 "động tác" ăn-ngủ-thức-thở như trên, tin tưởng rằng các bạn sẽ có một cuộc sống khỏe mạnh cả thể chất lẫn tinh thần. Khi đó không phải tìm kiếm đâu xa, niềm hạnh phúc luôn tràn ngập trong tâm hồn bạn. Phương Pháp Thực Hành CHO NHƠN THẦN Ở TRONG CƠ THỂ MỔI NGÀY CỬ ĐỐT LỂ BẤM HUYỆT NGÀY MÙNG....CHƠN THẦN Ở TẠI 1. Ngón chân cái 2. Mắt cá 3. Bắp vế , bắp chân phía trong 4. Lưng ( phía sau bụng 5. Miệng 6. Lổ tai 7. Mắt cá phía trong 8. Cổ tay 9. Chớn thủy 10. Lưng ( phía sau ngực ) 11. Sóng mũi 12. Mí tóc 13. Răng ( chơn Răng nướu ) 14. Cuốn bao tử 15. Khắp thân thể 16. Ngực 17. Hang khí sung ( dưới rốn ) 18. Bắp vế phía trong 19. Bàn chân 20. Mắt cá phía trong 21. Ngón tay út 22. Mắt cá ( phía ngoài ) 23. Gan bàn chân 24. Mạch dương mình nơi tay 25. Mạch dương mình nơi chơn 26. Ngực 27. Đầu gối 28. ÂM HỘ 29. Đầu gối và ống quyển 30. Bàn chơn và mắt cá DIÊU TRÌ KIM MẪU
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng