Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ý chí của chủ thể trong giáo dục dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay Luận v...

Tài liệu Ý chí của chủ thể trong giáo dục dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay Luận văn ThS. Luật

.PDF
89
190
146

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HOÀI THANH Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HOÀI THANH Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu HÀ NỘI - 2014 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn Hoµi Thanh 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ GIAO 5 DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ 1.1. Khái niệm và phân loại giao dịch dân sự 5 1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự 5 1.1.2. Phân loại giao dịch dân sự 8 1.2. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 12 1.2.1. Điều kiện về chủ thể 12 1.2.2. Điều kiện về nội dung, mục đích 15 1.2.3. Điều kiện về ý chí 16 1.2.4. Điều kiện về hình thức 18 1.3. Khái niệm giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí 20 Chương 2: 24 CÁC TRƯỜNG HỢP GIAO DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ 2.1. Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể 24 2.1.1. Giao dịch dân sự nhầm lẫn 24 2.1.2. Giao dịch dân sự lừa dối 30 2.1.3. Giao dịch dân sự đe dọa 34 4 2.1.4. Giao dịch dân sự giả tạo 40 2.1.5. Giao dịch dân sự được thiết lập do người thiết lập tại thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình 43 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể 47 2.2. 2.2.1. Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối 48 2.2.2. Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối 50 2.3. Hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể 51 Chương 3: 56 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể 56 3.1.1. Thực tiễn về giao dịch dân sự nhầm lẫn 56 3.1.2. Thực tiễn về giao dịch dân sự lừa dối 59 3.1.3. Thực tiễn về giao dịch dân sự bị đe dọa 62 3.1.4. Thực tiễn về giao dịch dân sự giả tạo 64 3.1.5. Thực tiễn về giao dịch dân sự do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi 67 Một số kiến nghị hoàn thiện vấn đề giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể 71 3.2.1. Các quy định chung về sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự 71 3.2.2. Quy định cụ thể về những trường hợp vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể 74 3.2. KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Việc xác lập các giao dịch dân sự giữa các chủ thể là một hiện tượng tất yếu khách quan trong cuộc sống, là một đặc trưng cơ bản của xã hội loài người. Trình độ phát triển, tiến bộ xã hội ngày càng cao, các quyền dân chủ, tự do giành cho cá nhân ngày càng lớn, hoạt động của mỗi cá nhân ngày càng đa dạng, thì các giao dịch dân sự ngày càng phong phú và phức tạp. Việc đảm bảo cho các giao dịch dân sự đó diễn ra theo đúng ý chí của chủ thể xác lập, mang lại lợi ích mà chủ thể mong muốn và không ảnh hưởng đến sự ổn định, trật tự của xã hội có ý nghĩa hết sức to lớn. Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc giải quyết vấn đề trên càng trở nên cấp thiết. Cách thức được lựa chọn là tạo ra những quy chuẩn, giới hạn của tự do ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự. Bởi ý chí chủ thể là yếu tố hình thành và có tính chất quyết định đến nội dung cũng như hiệu lực của giao dịch dân sự. Tuỳ từng trường hợp vi phạm điều kiện về ý chí của chủ thể mà pháp luật đặt ra các cách thức xử lý khác nhau như: bổ sung, giải thích, hoàn thiện và thực hiện giao dịch hoặc tuyên bố giao dịch dân sự bị vô hiệu khi có yêu cầu hay mặc nhiên phủ nhận sự tồn tại của giao dịch dân sự đó. Thực tế hiện nay phát sinh rất nhiều tranh chấp về hợp đồng dân sự hay hành vi pháp lý đơn phương liên quan đến điều kiện về ý chí của chủ thể. Đặc biệt là các hợp đồng quan trọng như: chuyển nhượng quyền sử dụng đất,nhà ở, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm, mua bán hàng hoá hay trong vấn đề lập di chúc của người để lại di sản với những dấu hiệu của sự lừa dối, đe doạ, giả tạo, nhầm lẫn do thiếu hiểu biết và cẩu thả... Có tranh chấp đã được giải quyết song phải trải qua rất nhiều phiên toà với những phán quyết khác nhau, 6 có tranh chấp trải qua nhiều thủ tục tại các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa có được một phán quyết cuối cùng. Nhằm nâng cao hiểu biết, giúp hạn chế khả năng tham gia vào các giao dịch dân sự vi phạm điều kiện về ý chí, giải quyết một cách chính xác các tranh chấp phát sinh. Nghiên cứu các quy định về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự là vô cùng cần thiết. Do đó, tôi chọn đề tài: “Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ. Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự là một nội dung rất rộng và phức tạp, vì vậy luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đến vấn đề sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự cũng đã được đề cập trong các bài viết nghiên cứu trao đổi và các công trình nghiên cứu bảo vệ khoa học. Công trình của tác giả: Nguyễn Thị Nhàn, "Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự", Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2008; Bùi Thị Thu Huyền, "Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về ý chí của chủ thể", Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2010. Hai công trình này trực tiếp đề cập đến ý chí của chủ thể trong thời gian gần đây, song công trình của tác giả Bùi Thị Thu Huyền chỉ nghiên cứu trong phạm vi hợp đồng dân sự còn công trình của tác giả Nguyễn Thị Nhàn lại nghiên cứu theo từng giao đoạn xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Bài viết đăng trên tạp chí của tác giả: Tiến sĩ Ngô Huy Cương "Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2008. Tiến sĩ Đỗ Văn Đại: "Nhầm lẫn trong chế định hợp đồng: những bất cập và hướng sửa đổi", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2008; Lê Thị Bích Thọ: "Lừa dối trong giao kết hợp đồng", Báo Thông tin pháp luật, năm 2008... Các bài viết này một số đi theo hướng hàn lâm, 7 nghiên cứu theo học thuyết tự do ý chí, một số lại chỉ nghiên cứu một trường hợp vi phạm ý chí chủ thể cụ thể. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài "Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay" để làm sáng tỏ các quy định của pháp luật, những vướng mắc trong thực tiễn thực hiện và mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến hoàn thiện pháp luật. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Phân tích những vấn đề lý luận về giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể. - Phân tích các quy định pháp lý về các loại giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể, hậu quả pháp lý của việc vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể, tập trung vào các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể. - Phân tích thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật giải quyết các tranh chấp, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả năng áp dụng pháp luật xung quanh vấn đề vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả đã sử dụng và kết hợp một cách đồng bộ các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh để giải quyết nhiệm vụ đặt ra trong luận văn. 5. Tính mới và những đóng góp của đề tài 8 - Phân tích một cách có hệ thống cách khía cạnh của sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự. Phân tích và so sánh được các quy định về sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự của pháp luật Việt Nam hiện hành và trước đây; so sánh với pháp luật nước ngoài. - Đánh giá được các nguyên nhân dẫn đến việc xác lập giao dịch vi phạm sự tự nguyện về ý chí chủ thể, tình hình tranh chấp và áp dụng các quy định pháp luật xử lý tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự vi phạm các điều kiện về sự tự nguyện. - Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể. Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể. Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể và kiến nghị hoàn thiện. 9 Chương 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI GIAO DỊCH DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự Từ thời cổ đại đến nay giao dịch còn được gọi với các tên khác nhau như khế ước, giao ước, hiệp ước. Theo Từ điển tiếng Việt thì giao dịch là sự giao tiếp, tiếp xúc, giao kèo… giữa hai hay nhiều đối tác với nhau. Hiểu theo khía cạnh pháp lý thì giao dịch chính là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm hướng tới một mục đích làm phát sinh hậu quả pháp lý nhất định. Ngày nay, vị trí và vai trò của giao dịch ngày càng được khẳng định trong các hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia lại có các cách tiếp cận khác nhau. Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp không đưa ra chế định giao dịch dân sự mà chỉ đưa ra chế định hợp đồng dân sự và chế định thừa kế. Bộ luật dân sự Nhật Bản đưa ra chế định hành vi pháp lý bao trùm lên chế định hợp đồng và chế định thừa kế theo di chúc. Hầu như pháp luật của các nước đều không quy định cụ thể về khái niệm giao dịch dân sự mà nó chỉ được đề cập đến dưới góc độ khoa học. Theo các nhà khoa học Nhật Bản thì: "Giao dịch dân sự là hành vi hợp pháp nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự" [53, tr. 114]. Như vậy, các nhà khoa học Nhật Bản không nêu ra cụ thể các loại giao dịch mà nó là tất cả những hành vi tự nguyện của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm thu được một kết quả nhất định với điều kiện các hành vi này không trái pháp luật. Theo pháp luật Việt Nam, trước khi có Bộ luật dân sự 1995 chúng ta chưa có quy định riêng về giao dịch dân sự mà chỉ được đề cập dưới góc độ là hợp đồng dân sự (Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991), hoặc ý chí đơn 10 phương của chủ thể trong việc lập di chúc (Pháp lệnh thừa kế năm 1990). Bộ luật dân sự năm 1995 đã chính thức đề cập đến giao dịch dân sự với quy định cụ thể về khái niệm, điều kiện có hiệu lực của giao dịch, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu… Trong Bộ luật dân sự năm 2005, giao dịch dân sự được quy định trong chương VI, Phần thứ nhất của bộ luật, giao dịch dân sự là hợp đồng được quy định tại Mục 7 Phần 3, giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương được quy định qua các hợp đồng như hứa thưởng, thi có giải. Theo đó, Điều 121 Bộ luật dân sự 2005 quy định: "Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự" [35]. Giao dịch dân sự trước hết phải là hành vi do con người tiến hành một cách có ý thức và có mục đích. Để tham gia vào giao dịch dân sự cụ thể người đó phải có đủ tư cách chủ thể. Tức là phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đủ để đảm bảo họ ý thức được họ muốn gì, ý thức được hành vi họ đang tiến hành và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Nói cách khác, giao dịch dân sự là hành vi có ý chí của chủ thể. Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đa phương (hợp đồng) hoặc đơn phương, tức là một loại sự kiện pháp lý - sự kiện xảy ra trong thực tế mà pháp luật dự liệu, quy định là phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định. Tùy từng giao dịch dân sự cụ thể, hậu quả pháp lý đó là làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Tóm lại, có thể rút ra một số đặc điểm của giao dịch dân sự như sau: Thứ nhất, giao dịch dân sự phải có ý chí và thể hiện được ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Khi tham gia vào giao dịch dân sự, các chủ thể đều mong muốn đạt được những mục đích nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng. Để đạt được mục đích đó, các chủ thể phải thể hiện được ý chí của mình. Khi xác lập giao dịch các bên phải 11 thể hiện ý chí của mình ra bên ngoài và phải có sự thỏa thuận thống nhất những nội dung mà họ đã thể hiện. Nếu các bên không thỏa thuận được thì giao dịch cũng sẽ không được giao kết. Trường hợp giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương mà nội dung chính của giao dịch do một bên đưa ra, tuy bên kia không trực tiếp thỏa thuận nhưng về cơ bản họ phải đồng ý với tất cả nội dung, điều kiện do bên đã đưa ra và tự nguyện tham gia giao dịch. Thứ hai, sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong giao dịch dân sự nhằm hướng tới một hậu quả pháp lý nhất định. Bởi vì không phải bất kì một hợp đồng dân sự hay hành vi pháp lý đơn phương nào cũng được coi là giao dịch dân sự. Chỉ được coi là giao dịch dân sự khi hành vi pháp lý đó phải nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự với chủ thể khác. Thứ ba, mục đích của giao dịch dân sự là những lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Mục đích của giao dịch dân sự chính là hậu quả pháp lý sẽ phát sinh từ giao dịch mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội. Thứ tư, các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện. Sự tự nguyện là một nguyên tắc quan trọng trong quá trình thiết lập giao dịch. Đây là sự phản ánh tính thống nhất giữa ý chí và thể hiện ý chí của các chủ thể. Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí cho nên sự tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí, giữa chúng phải có sự thống nhất với nhau. Nếu không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí hoặc không có sự thống nhất giữa hai yếu tố này thì cũng không có sự tự nguyện. Giao dịch dân sự khi vi phạm sự tự nguyện có thể dẫn đến vô hiệu. Từ những phân tích trên ta có thể kết luận: Giao dịch dân sự là sự thể hiện ý chí một cách tự nguyện của các chủ thể trong khuôn khổ của pháp luật để làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự. Qua đó góp phần cho giao lưu dân sự phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội. 12 1.1.2. Phân loại giao dịch dân sự 1.1.2.1. Căn cứ vào sự thể hiện ý chí của chủ thể Căn cứ vào ý chí của chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự được phân thành hai loại đó là: Hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý đơn phương. Hợp đồng dân sự là loại giao dịch dân sự phổ biến và thông dụng nhất trong đời sống hàng ngày và chiếm một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hợp đồng dân sự có thể diễn ra giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân với pháp nhân, hay giữa các pháp nhân, tổ chức với nhau. Các bên tự do thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đạt được mục đích nhất định về vật chất hoặc tinh thần nhưng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội của quốc gia mà các chủ thể tham gia hợp đồng chịu sự điều chỉnh. Thông thường hợp đồng dân sự có hai bên tham gia, trong đó thể hiện sự thống nhất ý chí của các chủ thể trong một mối quan hệ cụ thể như mua bán, cho thuê, nhưng cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia như hợp đồng hợp tác. Mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia như mua bán tài sản chung. Trong hợp đồng, ý chí của một bên đòi hỏi sự đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chí giữa các bên, từ đó mới hình thành được hợp đồng. Do vậy, hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí của hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Sự thỏa thuận vừa là nguyên tắc, vừa là đặc trưng của hợp đồng dân sự và được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của quan hệ hợp đồng: từ giao kết đến thực hiện hoặc sửa đổi, chấm dứt hợp đồng dân sự. Sự tự do thỏa thuận giữa các chủ thể trong giao dịch dân sự thường là sự bàn bạc, đi đến thống nhất ý chí của các bên trong việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự nhất định. Việc thỏa thuận này không bị cản trở bởi bất cứ yếu tố nào, trừ trường hợp trái pháp luật và đạo 13 đức xã hội. Ví dụ như khi các bên tham gia kí kết hợp đồng mua bán một chiếc xe máy thì chủ sở hữu và người mua xe có quyền tự do bàn bạc giá cả, phương thức thanh toán, thời gian, địa điểm giao xe… Trên thực tế thì sự tự do thỏa thuận mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa phải là điều kiện đủ. Bởi lẽ, sự thỏa thuận phải làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên mới hình thành hợp đồng. Ví dụ lời hứa của cha mẹ với con cái không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Thậm chí trong một số trường hợp hành vi thỏa thuận giữa các bên có ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lý nhưng sau đó nếu các bên không mong muốn tiếp tục thì hậu quả cũng không xảy ra. Đây là yếu tố quan trọng để xác định sự khác nhau giữa hợp đồng với các quan hệ xã hội khác. Sự thỏa thuận phải dựa trên cơ sở pháp luật cho phép, nếu trái với các quy định của pháp luật thì hợp đồng có thể bị vô hiệu, các bên giải quyết hậu quả theo quy định của pháp luật hoặc tự thỏa thuận. Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch dân sự trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hành vi pháp lý đơn phương là sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chủ thể, nên việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Ví dụ như hành vi lập di chúc của một chủ thể đối với tài sản hợp pháp của mình, người đố đã thể hiện ý chí cá nhân để định đoạt tài sản mà họ có, không phụ thuộc vào ý chí của bên nhận di sản. Như vậy, ý chí của người lập di chúc không phụ thuộc vào ý chí của người khác nhưng làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật thuộc giao dịch dân sự. Thông thường hành vi pháp lý đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy nhất (lập di chúc, từ chối hưởng di sản, hứa thưởng…). Có thể có nhiều chủ thể cùng tham gia và một bên của giao dịch (hai cá nhân, tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng, di chúc chung của vợ chồng…). Trong 14 nhiều trường hợp, hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả khi có những người khác đáp ứng được những điều kiện nhất định do người xác lập giao dịch đưa ra. Những người này phải đáp ứng được các điều kiện nhất định đó mới làm phát sinh nghĩa vụ của người xác lập giao dịch (hứa thưởng, thi có giải…). Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên nội dung và hình thức phải phù hợp với các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. 1.1.2.2. Căn cứ vào hình thức của giao dịch dân sự Căn cứ vào hình thức thể hiện của giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự được thể hiện dưới hình thức lời nói, giao dịch thể hiện dưới hình thức văn bản và giao dịch thể hiện dưới hình thức hành vi cụ thể. Thông thường hình thức lời nói của giao dịch dân sự được áp dụng đối với các giao dịch có giá trị không lớn hoặc giữa các chủ thể có sự quen biết, tin cậy lẫn nhau hoặc với các giao dịch dân sự phát sinh hậu quả pháp lý sau khi thỏa thuận và các bên thực hiện nghĩa vụ ngay sau đó giao dịch chấm dứt. Giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức văn bản có thể do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện dưới hình thức văn bản thì các chủ thể tham gia phải tuân theo hình thức này. Ngoài ra giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản như: fax, telex… Giao dịch dân sự thể hiện bằng hành vi cụ thể: hình thức này cũng phổ biến trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi công nghệ ngày càng phát triển với sự tự động hóa được áp dụng ở nhiều nơi như: bán hàng qua máy tự động, rút tiền ở các máy ATM… 1.1.2.3. Giao dịch dân sự có điều kiện Dựa vào thời điểm làm phát sinh, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, giao dịch dân sự được chia thành giao dịch có điều kiện làm phát sinh hiệu lực và giao dịch có điều kiện làm chấm dứt hiệu lực. 15 Trong khi thực hiện giao dịch dân sự, đôi khi các bên xác định là giao dịch dân sự đó chỉ phát sinh hoặc chấm dứt hiệu lực khi xảy ra một sự kiện nhất định. Các giao dịch đó được gọi là giao dịch dân sự có điều kiện và các sự kiện đó được gọi là điều kiện. Các điều kiện đó dự liệu khả năng có thể xảy ra nhưng không chắc chắn xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, sự kiện được coi là điều kiện phải là sự kiện xảy ra một cách tự nhiên. Nếu một trong các chủ thể của giao dịch dân sự có hành vi ngăn cản không cho các điều kiện đó xảy ra hoặc hành vi thúc đẩy cho điều kiện đó nhanh chóng xảy ra để không thực hiện nghĩa vụ thì cũng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự có thể được xác lập với điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ. Trong trường hợp giao dịch dân sự có điều kiện phát sinh, việc xảy ra điều kiện đó sẽ làm phát sinh hiệu lực của giao dịch. Ví dụ: A hứa thưởng cho B chiếc máy tính nếu B đỗ đại học. Trong trường hợp B đỗ đại học thì sẽ phát sinh hậu quả pháp lý là B sẽ được A thưởng cho chiếc máy tính (hợp đồng tặng cho có điều kiện). Nếu B không thi đỗ đại học thì hậu quả pháp lý sẽ không xảy ra. Giao dịch có điều kiện hủy bỏ là giao dịch trong đó việc xảy ra điều kiện sẽ hủy bỏ hiệu lực của giao dịch. Ví dụ: Công ty A cam kết với sinh viên B sẽ cấp học bổng trong thời gian học tập, nếu điểm trung bình của các môn trong 1 học kỳ không đạt được 7,00 trở lên thì công ty A không cấp học bổng cho B nữa. Như vậy, nếu B không đạt được điểm trung bình của kì học từ 7,00 trở lên sẽ dẫn đến việc hủy bỏ việc cấp học bổng. Trên nguyên tắc tự do xác lập và thực hiện giao dịch, các điều kiện của giao dịch thường do chủ thể của giao dịch lập ra. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có một số trường hợp ngoại lệ, pháp luật quy định một số yêu cầu bắt buộc mà nếu các chủ thể không tuân thủ thì sẽ làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Ví dụ như: 16 Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế [35, Điều 635]. Pháp luật không cho phép thực hiện các giao dịch dân sự có điều kiện nếu điều kiện đó vi phạm pháp luật. Ví dụ như A hứa thưởng cho B nếu như B đánh trọng thương C, giao dịch này sẽ bị vô hiệu ngay từ khi giao kết. Ngoài ra, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khi tham gia giao dịch cũng như đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên, pháp luật cũng quy định: Trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của một bên hoặc của người thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; nếu có sự tác động của một bên hoặc của người thứ ba cố ý thúc đẩy cho điều kiện để làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra [35, Điều 125]. 1.2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ 1.2.1. Điều kiện về chủ thể Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự 2005 thì: "người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự" [35, Điều 122]. Khái niệm "người" được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các chủ thể tham gia giao dịch dân sự như: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. 1.2.1.1. Đối với chủ thể là cá nhân Cá nhân được coi là chủ thể phổ biến của các giao dịch dân sự. Có thể nói cá nhân tham gia hầu hết tất cả các giao dịch dân sự, kể cả với các giao dịch dân sự trong đó chủ thể là pháp nhân hay các tổ chức khác, thì cá nhân vẫn tham gia với tư cách người đại diện. 17 Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Vì vậy, giao dịch dân sự do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Căn cứ vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, cũng như khả năng thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân, pháp luật nước ta quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ Điều 17 đến Điều 23 Bộ luật dân sự 2005 như sau: - Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được quyền xác lập mọi giao dịch dân sự, trừ trường hợp họ bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi [35, Điều 22], tuyên bố hạn chế năng lực hành vi [35, Điều 23]. - Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày [35, Điều 20]. - Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được xác lập các giao dịch trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [35, Điều 20] (ví dụ: lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý). - Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự không được phép xác lập mọi giao dịch dân sự. Các giao dịch dân sự của những người này đều do người đại diện theo pháp luật thực hiện. 1.2.1.2. Đối với các chủ thể khác Các chủ thể khác của giao dịch dân sự đó là: Pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình. 18 - Pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân trong phạm vi điều lệ hoạt động của pháp nhân đó [35, Điều 86]. - Hộ gia đình chỉ tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác theo quy định của pháp luật [35, Điều 106]. - Tổ hợp tác chỉ tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ hợp tác được xác định trong hợp đồng [35, Điều 111]. Với tính chất là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự được tạo nên bởi sự liên kết của nhiều cá nhân đơn lẻ, độc lập nên khi xác lập hoặc thực hiện một giao dịch dân sự, chủ thể đó nhất thiết phải thông qua vai trò của người đại diện của mình. Hành vi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác chỉ được coi là hành vi của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác nến những hành vi này được tiến hành phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của chủ thể đó hoặc được ghi nhận trong quyết định thành lập pháp nhân hay trong bản điều lệ của pháp nhân. Hành vi pháp lý do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện thì về nguyên tắc nó sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện. Nó chỉ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện nếu được người đó đồng ý. Hành vi pháp lý do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, nó sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Tuy nhiên, trong trường hợp không được sự đồng ý của người được đại diện thì người đại diện 19 vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện. 1.2.2. Điều kiện về nội dung, mục đích Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì "mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội" [35, Điều 122]. Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà một hoặc các bên xác lập giao dịch đó đưa ra hoặc thỏa thuận với nhau. Các điều khoản này xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể cho các chủ thể tham gia vào giao dịch đó, đồng thời cũng có thể xác định trách nhiệm dân sự của các chủ thể trong trường hợp các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng cam kết. Mục đích của giao dịch dân sự là nhu cầu hay những lợi ích về mặt vật chất hay tinh thần mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào một giao dịch dân sự. Không thể có giao dịch dân sự mào mà người tham gia xác lập, thực hiện nó không có mục đích nhất định. Mục đích này sẽ đạt được khi nó được thể hiện thông qua các điều khoản của giao dịch và các bên thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết khi xác lập giao dịch. Ngoài ra, không phải lúc nào mục đích của các bên tham gia giao dịch cũng được thể hiện rõ ràng chính xác thông qua nội dung của hợp đồng. Trong trường hợp đó cần phải làm sáng tỏ mục đích của giao dịch và cần phân biệt mục đích với động cơ của giao dịch dân sự. Động cơ được hiểu là cái có tác dụng chi phối, thúc đẩy những suy nghĩ, hành động. Động cơ xác lập giao dịch là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia xác lập giao dịch, nó không phải là yếu tố bắt buộc của giao dịch dân sự như mục đích. Vì vậy, nếu không làm rõ được mục đích của giao dịch hoặc mục đích không đạt được thì giao dịch đó coi như vô hiệu, sẽ không làm phát sinh bất cứ quyền và nghĩa 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan