Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
MỞĐẦU
Trong xu hướng tự do hoá thương mại ngày nay,
chiến lược phát triển của toàn ngành Thuỷ Sản Việt
Nam không chỉ tập trung vào xuất khẩu đi các thị
trường quen thuộc, mà còn tranh thủ các khai thác
các thị trường mới, tạo thêm nhiều bạn hàng lớn đặc
biệt ở các nước phát triển.
Một trong những thị
trường cóảnh hưởng không nhỏđến sự phát triển của
kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đó
là thị trường Mỹ. Mỹ là một thị trường xuất nhập
khẩu khổng lồ với sức mua lớn, đa dạng vềthu nhập,
chủng loại và nhu cầu hàng hoá, trong đó thuỷ sản là
một trong những mặt hàng nhập khẩu lớn nhất của
Mỹ. Được xác định là một mũi nhọn trong phát triển
kinh tế của Việt Nam, trong những năm qua xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ không ngừng
tăng nhanh tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó
hiệp định phát triển thương mại Việt Nam-Hoa
Kỳđãđược ký kết lại càng gắn chặt mối quan hệ
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
thương mại giữa hai nước tạo cơ hội cho thuỷ sản
Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ một cách mạnh
mẽ hơn.Tuy nhiên cũng chính hiệp định thương mại
song thương Việt Nam – Hoa Kỳđãđặt ra thách thức
không nhỏđối với các nhà doanh nghiệp Việt
Nam.Mặt khác mặc dù Mỹđang dẫn đầu thị trường
xuất khẩu trong ngành thuỷ sản Việt Nam, nhưng thị
phần thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ còn khá
khiêm tốn. Do đó vấn đềđặt ra không chỉ cho Nhà
Nước ta, mà còn cho cả các doanh nghiệp hiện nay
là làm thế nào để tận dụng được cơ hội, đối đầu trước
thách thức và có những biện pháp thích hợp để nâng
cao hiệu quả của sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản cho
tương xứng với khả năng của Việt Nam và quy mô
của thị trường Mỹ. Chính vì vậy em đã tiến hành đề
tài với mục tiêu phân tích thực trạng của tình hình
xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường
Mỹ, từđóđềxuất những kiến nghị thích hợp nhằm
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
thúc đẩy hoạt động này ngày càng phát triển mạnh
mẽ hơn.
CHƯƠNG I:
THỰCTRẠNGXUẤTKHẨUTHUỶSẢN VIỆT
NAM
1. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào
thị trường Mỹ trong thời gian qua:
Mỹ là thị trường luôn luôn sôi động vàđặc biệt
hấp dẫn thu hút tới 130 nước xuất khẩu hàng hoá
vào thị trường này.
Thực tế cho thấy thuỷ sản
cũng đã chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào
thị trường Mỹ.
Từ ngay sau khi lệnh cấm vận của Mỹđối với Việt
Nam được bãi bỏ thì xuất khẩu hàng hoá nói
chung và thuỷ sản nói riêng vào Mỹđược tăng lên
đáng kể. Nếu như năm 1986 hàng thuỷ sản Việt
Nam vào Mỹ mới chỉ là 8 triệu USD, năm 1987
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
tăng lên so với năm trước và gấp 4,5 lần, năm
1999 xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ tăng gấp 18 lần
so với năm 1986. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản sang Mỹ là 320 triệu USD, gấp 40 lần so
với năm 1986 và gấp 4 lần so với năm 1998, năm
2001 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ là 70.
931 ngàn tấn thuỷ sản các loại trị giá 489 triệu
USD, tăng lên so với năm 2000 là 1,8 tỷ USD và
số lượng 538. 833 tấn thuỷ sản đã xuất khẩu trong
năm thì xuất khẩu vào thị trường là rất đáng
kể.Với những thành tựu đãđạt được năm 2001 thì
thị trường Mỹđược đánh giá là thị trường dẫn đầu
của ngành thuỷ sản Việt Nam. Mặc dù Mỹ là thị
trường khó tính, yêu cầu về chất lượng và vệ sinh
an toàn cao nhưng không khắt khe như thị trường
EU. Giá bán thuỷ sản sang Mỹlại cao hơn so với
thị trường khác do đó hàng thuỷ sản vào Mỹ ngày
càng mở rộng.
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
Thuỷ sản là một ngành kinh tế chủ lực của Việt
Nam, ngay trong năm 2000 với khối lượng sản
phẩm và doanh số xuất khẩu là 1,475 triệu USD
đã trở thành ngành kinh tếđứng thử 3 về xuất khẩu
sau dầu thô và dệt.
Mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào thị
trường Mỹ phải kểđến cá bá sa,cá tra, và phile đạt
giá trị xuất khẩu năm 2000 là 60 triệu USD, đứng
đầu trong các nước cung cấp các loại sản phẩm cá
này cho thị trường Mỹ. Năm 2001 xuất hiện chiến
dịch chống lại việc nhập khẩu cá tra và cá bá sa
của Việt Nam vào thị trường với những lập luận
công khai bôi nhọ sản phẩm cá Việt Nam, thậm
chí còn nói rằng cá da trơn Việt Nam nuôi ở sông
Mêkông có thể chứa cả dư lượng chất độc mầu da
cam mà quân đội Mỹđã rãi xuống trong thời gian
chiến tranh. Hơn thế nữa họ còn phát động chiến
dịch “Người Mỹăn cá Mỹ” và sáng tác ra nhãn
hiệu “cá catfish nuôi của Mỹ”. Theo phân tích của
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
cơ quan nghiên cứu kinh tế (ERS)thì việc tăng
nhập khẩu cá da trơn của Việt Nam không phải là
nguyên nhân làm giảm giá bán và lượng tiêu dùng
sản phẩm cá nheo nội địa của Mỹ,mà giá giảm chỉ
là một hiện tượng kinh tế. Còn nếu xết về góc
độan toàn của cá Basa và cá tra Việt Nam thì môi
trường nước nuôi là sông Mêkông không bịô
nhiểm như nước sông Miissipi của Mỹ. Về nhãn
mác các DN xuất khẩu thuỷ sản đa sốđều nghiêm
túc thực hiện các qui định của FDA và của chính
phủ Việt Nam về việc sử dụng các tên thương mại
cho cá Basa và cá tra cũng như tất cả các sản
phẩm khác. Bất chấp những khó khăn trở ngại, các
DN Việt Nam đã cố gắng không ngừng.
Trong
tháng 1/2002 sau khi xảy ra cuộc tranh chấp
thương mại Việt-Mỹ về cá da trơn(catfish) lô hàng
100 tấn cá Basa đầu tiên mang tên Việt Nam
đãđược xuất sang Mỹ.
Từđầu 2/2002 giá xuất
khẩu cá Basa và cá tra của Việt Nam sang thị
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
trường Mỹ liên tục tăng, giá xuất khẩu trung bình
đạt 3. 120USD/tấn FOB cảng Việt Nam, L/C tăng
300USD/tấn so với đầu tháng1/2002.
Cùng với cá tra,cá Basa, tôm cũng được coi là sản
phẩm chủ lực của Việt Nam XK sang Mỹ. Trong
tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang
thị trường Mỹ thì tôm chiếm gần 2/3 trị giá hàng
xuất khẩu năm 1994 mặt hàng tôm sang Mỹ với
tổng giá trị là 5,121 triệu USD chiếm một tỷ trọng
trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ
là 88,26%. Năm 1995 tăng hơn gấp 3 lần so với
năm 1994, năm 1996 tăng gấp đôi so với 1995 và
những năm tiếp sau nữa sản phẩm tăng lên liên
tục. Đến năm 2000 Việt Nam đã xuất khẩu tôm
sang Mỹ là 200 triệu USD tăng lên gấp 2 lần so
với năm 1999. Đến nay Việt Nam đãđứng hàng
thứ 8 trong tổng số 50 nước cung cấp tôm cho thị
trường Mỹ. Tuy nhiên vào ngày 1/1/2004, Liên
minh tôm miền Nam (SSA) đãđệđơn lên Bộ
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
Thương mại Mỹ (DOC) và Uỷ ban thương mại
Quốc tế (USITC)của nước này để kiện 6 nước
gồm Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ,
Ecuador và Brazil trong đó có bán phá giá tôm
vào thị trường Mỹ, làm tổn hại đến hoạt động của
ngành sản xuất của nước này. Mặt hàng khởi kiện
bao gồm hầu hết các loại sản phẩm tôm nước ấm,
cả đông lạnh và đóng hộp.Mức thuế yêu cầu áp
đặt từ 30% đến 267% riêng cho từng nước.Mức
thuế cho Việt Nam dao động từ 30% đến 99%.
Theo thống kê, trong 9 tháng đầu năm 2003, giá
tôm giảm bình quân 3,4%, riêng tại Mỹ giảm
9,5%. Năm 2002 giá tôm của ở Hoa Kỳđã giảm
50% và hiện đang giảm xuống mức thấp nhất
trong lịch sử nước Mỹ. Tôm được đánh bắt từ biển
Hoa Kỳ chỉ chiếm 20% thị phần vàđang có nguy
cơ giảm mạnh trong thời gian tới. Sản lượng khai
thác tôm của các chủ tàu ở Mỹđang bị sụt giảm do
thời tiết, nguồn tài nguyên cạn kiệt…Trong khi
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
ngành sản xuất tôm trong nước Mỹđang gặp nhiều
khó khăn, khối lượng tôm nhập khẩu vẫn tiếp tục
tăng mạnh.
Thị trường tôm Hoa Kỳ phân chia
theo tỉ lệ 88% nhập khẩu, 12% làđánh bắt trong
nước. Trong đó tôm đông lạnh nhập khẩu vào thị
trường Mỹ hầu hết là tôm nuôi có giá thành rẻ hơn
rất nhiều so với nguồn tôm đánh bắt tự nhiên của
Mỹ, mà nguồn này ngày càng cạn kiệt,chi phí
càng cao. Mặt khác trong thời gian qua, các nước
châu á như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan,
Philipin đều trúng mùa tôm, các nước này lại giảm
chi phí từ khâu sản xuất đến chế biến XK. Vì vậy
tôm NK vào thị trường Mỹ từ các nước Châu Á
thường rẻ hơn tôm sản xuất tại Mỹ từ 10-20%.
Hiện nay, giá tôm ở Mỹ xuống thấp ngang với giá
của những năm 70, khiến nhiều nhà chế biến rơi
vào thế tiến thoái lưỡng nan khi phải lựa chọn các
bạn hàng cũ, trong khi tôm NK giá rất rẻ. Cùng
với những khó khăn kinh tế của bản thân nước
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
Mỹđã góp phần làm cho bộ phận kinh tế nông
nghiệp, thuỷ sản của Mỹ không cạnh tranh được
với hàng hoá từ các quốc gia đang phát triển. Một
số nhà sản xuất tôm Mỹ kêu gọi, nếu chậm trễ
trong việc tiến hành kiện chống bán phá giá, thì
mùa thu hoạch tôm năm sau sẽ không có sự cải
thiện nào và họ buộc phải phá sản. Có những lý do
chính khiến cho các nhà sản xuất tôm Mỹ muốn
tiến hành vụ kiện chống bán phá giá tôm,đó là:
Thứ nhất: DN của Mỹ muốn dùng đến chiêu bài
khởi kiện chống bán phá giáđể bảo hộ mậu dịch,
ngăn chặn hàng NK từ các nước và tranh thủ tài
trợ từ phía Chính phủ Mỹ. Vụ kiện này đã diễn
ra vào thời điểm có lợi nhất cho người đi kiện:
trước thềm cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm
2004 vào tháng 11.
Thứ hai: Chính quyền Bush có chương trình hỗ
trợ giải quyết tranh chấp về bán phá giá nhằm
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
lấy lòng cử tri và giới công nghiệp, nên vụ kiện
có nhiều khả năng sẽđược sựủng hộ từ phía
chính quyền Mỹ.
Thứ ba: Các luật sư Mỹ lợi dụng vấn đề bán phá
giáđể trục lợi các nhà sản xuất tôm Mỹ và Châu
Á.
Về phía Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái
Lan cũng đã hoạch định nhiều chương trình hợp
tác với các nhà NK và phân phối tôm của
Mỹđểđưa ra những chứng cứ thuyết phục là tôm
của mình không bán phá gía, nhằm bảo vệ cho
người tiêu dùng trên đất Mỹ. Tất cả khẳng định,
đây chỉ là sự ngụy biện của người Mỹ, bất chấp
nguyên tắc tự do thương mại để bảo vệ lợi ích của
mình. SSA đang đi ngược lại xu thế mở rộng tự do
thương mại toàn cầu mà Mỹ là quốc gia đề xướng
và yêu cầu các nước trên thế giới, đặc biệt là các
quốc gia đang phát triển tham gia thực hiện.
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
Song với sự chỉđạo sâu sát của Bộ thuỷ sản,
với sự hoạt động năng động, linh hoạt của Hiệp
hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản VN mà công
tác xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ trong
thời gian qua cũng thuđược những thành tựu đáng
kể. Con số xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã vượt
lên trên 1 tỷ USD từ năm 2000, nâng cao thị
trường Mỹ lên vị trí số một của nghành thuỷ sản.
Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ
gắn liền với sự tiến bộ trong quan hệ hợp tác kinh
tế giữa Việt Nam và Mỹ, đặc biệt sau hiệp định
thương mại Việt –Mỹđược kí kết vào ngày
13/7/2000.Sự kiện đóđã mở ra những cơ hội kinh
doanh lớn cho DN Việt Nam. Tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu trên thị trường Mỹ rất nhanh,
bình quân giai đoạn 1994-1999 là 90,98% nâng
Việt Nam lên vị trí thứ 17 trong số các nước xuất
khẩu hàng thuỷ sản vào Mỹ. Cạnh tranh trên thị
trường đã tạo ra một sức ép cho các DN Việt Nam
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
phải tìm tòi, đổi mới công nghệ nuôi đánh bắt, sơ
chế biến thuỷ sản, xây dựng tiêu chuẩn vệ sinh an
toàn thực phấm sao cho phù hợp với nhu cầu của
người dân Mỹ, từđóđóng góp đáng kể vào sự tăng
trưởng của ngành thuỷ sản nói riêng và nền kinh
tế Việt Nam nói chung.
2. Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu
thuỷ sản cuả Việt Nam:
* Khó khăn đầu tiên: Thị trường XK thuỷ sản
của Việt Nam chưa phải là thị trường NK trọng
điểm, lớn của Thế giới, chủ yếu là thị trường Nhật
Bản và các nước láng giềng Châu Á.
* Khó khăn thứ hai: Chủng loại thuỷ sản XK
của Việt Nam chủ yếu là tôm, mực đông lạnh sơ
chế (chiếm hơn 80% khối lượng), tỷ lệ sản phẩm
có giá trị tăng cao thấp, chất lượng sản phẩm chưa
phù hợp vơí yêu cầu chất lượng thuỷ sản của các
nước nhập khẩu lớn. Vấn đềđảm bảo chất lượng
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
và an toàn vệ sinh thực phẩm theo các tiêu chuẩn
HACCP rất quan trọng, vìđây làđiều kiện để nâng
cao sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam.
* Khó khăn thứ ba: Xâm nhập vào một thị
trường tiềm năng như Mỹ, khó khăn mà Việt Nam
gặp phải, phải kểđến đó là tính cạnh tranh trên thị
trường này rất cao, hàng thuỷ sản Việt Nam phải
gặp những đối thủ cạnh tranh lớn như: Thái Lan,
Ấn Độ. Giá cả sản phẩm thuỷ sản XK của Việt
Nam nhìn chung là thấp, chỉ bằng khoảng 70%
mức giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan và
Indonesia nhưng vẫn không cạnh tranh nổi với
hàng của các nước XK khác. Mạng lưới kênh phân
phối để thực hiện XK trực tiếp vào thị trường tiêu
thụ chính chưa tốt, chủ yêú xuất qua trung gian
môi giới và trung tâm tái xuất như Singapo, Hông
Kông. Xuất khẩu chủ yếu theođiều kiện FOB,
chưa đủ khả năng bán hàng theo điều kiện CIF và
các điều kiện có hàm lượng dịch vụ bán hàng cao
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
hơn, nên không tận dụng được các cơ hội thị
trường đểđẩy mạnh XK. Hơn nữa các DN Việt
Nam là những người đến sau so với các đối thủ
cạnh tranh khác trên thị trường này, trong khi các
nước khác đã có một chỗđứng khá vững chắc thì
Việt Nam mới đang tìm cách thâm nhập, do đó
càng có nhiều khó khăn hơn.
* Khó khăn thứ 4: Các DN Việt Nam chủ yếu
có qui mô vừa và nhỏ, khả năng về vốn công nghệ
còn thấp chưa phù hợp với nguồn nguyên liệu sẳn
có của Việt Nam, các máy móc thiết bị còn lạc
hậu với công nghệ chế biến đơn giản, chủ yếu là
công nghệđông lạnh, tỷ lệ lao động thủ công lớn,
yêu cầu về vệ sinh chưa đảm bảo. Trong khi đó
các yêu cầu vệ sinh thực phẩm, vệ sinh môi
trường sinh thái lại là những rào cản kĩ thuật làm
hạn chế khả năng xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ.
Mặc dù Nhà nước đã ban hành những tiêu chuẩn
kĩ thuật nhưng hầu như chỉ tồn tại trên lý thuyết
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
chưa được áp dụng vào thực tế. Về phía các DN,
một phần do cơ sở hạ tầng, một phần do thói quen
chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của
việc đảm bảo chất lượng sản phẩm đối với tạo chữ
tín nên công tác quản lý chất lượng chưa được
quan tâm một cách thường xuyên, chủđộng. Mặt
khác, về hoạt động xúc tiến thương mại còn yếu
kém, các DN Việt Nam chỉ mới tiếp cận được với
các nhà nhập khẩu mà chưa tiếp cận với các nhà
bán lẻ hay siêu thị, hàng bán chưa đến tay người
tiêu dùng, do đó chưa nhận được thông tin phản
hồi một cách trực tiếp để từ dó có các biện pháp
cải tiến, nâng cao chất lượng phù hợp với thị hiếu
của khách hàng
* Khó khăn thứ 5: Chưa cóđược một kế hoạch
và chương trình tổng thể xúc tiến hàng thuỷ sản
Việt Nam ở nước ngoài, mặc dù có tiến hành một
số hoạt động xúc tiến như việc tham gia các hội
chợ thương mại và việc cử các đoàn cán bộđi khảo
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
sát ở nước ngoài nhưng nhìn chung hoạt động này
còn mang tính tự phát và chưa thể coi là hoạt động
xúc tiến XK thực sự. Hầu như các DN xuất khẩu
thuỷ sản sang Mỹ chưa có DN nào mởđược văn
phòng đại diện tại nước Mỹ, do vậy các DN Việt
Nam ít có cơ hội giao thương với các nhà phân
phối của Mỹ, nhất làđể tìm hiểu luật chơi của thị
trường này. Hệ thống luật chơi của Mỹ khá phức
tạp, chặt chẽ và mới lạ với các DN xuất khẩu Việt
Nam.Nếu không nghiên cứu hiểu rõ thì họ sẽ phải
gánh chịu nhiều thua thiệt nặng nề trong kinh
doanh.
* Khó khăn cuối cùng: đó là nguồn nguyên vật
liệu đảm bảo chất lượng cho hoạt động chế biến
XK còn thiếu, không đồng bộ, đồng đều và kịp
thời.
Trên đây là một số nguyên nhân làm cản trở
việc xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị
trường Mỹ. Để khắc phục được những khó khăn
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
này đòi hỏi phải có sự cố găng, có các giải pháp
thích hợp từ phía Nhà nước cũng như các Doanh
nghiệp Việt Nam.
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
CHƯƠNG II:
MỘTSỐBIỆNPHÁPĐẨYMẠNHXUẤTKHẨU
THUỶSẢN VIỆT NAM
1. Dự báo khả năng phát triển thị trường thuỷ
sản của Việt Nam
Trong khoảng 5 năm gần đây, kim ngạch xuất
khẩu (XK) thủy sản luôn duy trì được tốc độ tăng hơn
200 triệu USD/năm. Song bước vào năm 2004, XK
thủy sản gặp rất nhiều khó khăn.Trước hết, dự đoán năm
nay sản lượng tôm thế giới có thể đạt mức tương đương
hoặc cao hơn năm 2003. Ðiều đáng chú ý nhất là lượng
tôm thẻ chân trắng của Trung Quốc xuất khẩu sang thị
trường Mỹ với số lượng lớn, giá rất rẻ, chắc chắn sẽ làm
giá tôm của năm nay rớt xuống, gây bất lợi cho nhiều
nước cung cấp tôm sang thị trường này, trong đó có Việt
Nam - nước có khoảng 50% giá trị XK thủy sản từ mặt
hàng tôm. Kinh tế thế giới (đặc biệt là tại các thị trường
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
lớn và tiềm năng) suy thoái do ảnh hưởng của chiến
tranh Irắc và dịch SARS. . . tiếp tục là những tác động
xấu đối với XK thủy sản của Việt Nam. Thị trường XK
lớn nhất là Hoa Kỳ (năm 2002 chiếm 31,96%), cũng có
hàng loạt cản trở, đặc biệt là vụ kiện cá tra, cá ba sa
(Catfish) và vừa qua là kiện tôm. Việc XK vào Mỹ tới
đây được Bộ Thủy sản đánh giá là sẽ rất khó khăn, tuy
nhiên do đây là thị trường lớn, nên các DN Việt Nam
cần phảI tìm ra các giảI pháp thiết thực để giữ vững và
phát triển. Trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam là việc đảm bảo chất lượng và an toàn ngành
hàng thuỷ sản theođiều kiện HACCP. Dựđoán tỷ trọng
XK thuỷ sản sang EU và Mỹ năm 2005 có thểđạt mức
30-35% và năm 2010 là 35-40% kim ngạch XK thuỷ sản
của cả nước. Bên cạnh đó, cần phải chúý tới các thị
trường truyền thống của Việt Nam ởĐông Âu,Trung Âu,
Bắc Phi và các thị trường khác,trong đó có thị trường
Đông á vàĐông Nam á.
- Xem thêm -