LUẬN VĂN:
Xuất khẩu quế ở Công ty XNK
tổng hợp 1-Bộ thương mại: Thực
trạng và giải pháp
Lời mở đầu
Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế, các
quốc gia đang tham gia ngày một tích cực vào quan hệ kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh
doanh quốc tế với các hình thức đa dạng và phong phú đang trở thành một trong những
nội dung quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong đó hình thức xuất nhập khẩu
được coi là “chiếc chìa khoá” mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho mỗi một quốc
gia, tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho nước đó khi tham gia vào các hoạt động
kinh tế quốc tế.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu sẽ có ý nghĩa chiến lược trong sự
nghiệp CNH- HĐH, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế cất cánh trong thiên niên kỷ
mới. Vì vậy, Đảng và Nhà Nước đã đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác
xuất nhập khẩu và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn phải thực hiện.
Quế là cây đặc sản của vùng nhiệt đới được trồng ở nước ta từ lâu. Do giá trị sử
dụng ngày càng lớn nên ngày nay Quế trở thành một mặt hàng được các nước trên thế
giới ưa chuộng. Quế của Việt Nam vốn có điều kiện phát triển và nổi tiếng thế giới từ
lâu, càng ngày càng nổi lên như là một đặc sản và có nhiều ưu thế hơn so với các nước
khác.
Với thuận lợi này, thời gian qua cùng với các doanh nghiệp khác Công ty XNK
tổng hợp 1 đã không ngừng mở rộng hoạt động xuất khẩu quế và đã có những đóng
góp tích cực vào hoạt động xuất khẩu chung của đất nước. Xuất khẩu quế đã chiếm
một tỷ trọng không nhỏ trong tổng giá trị xuất khẩu của Công ty nói riêng và của Việt
Nam nói chung. Tuy mới tham gia vào đầu tư xuất khẩu quế, nhưng Công Ty đã thu
được những thành tựu đáng khích lệ đó là: Mở rộng thị trường sang nhiều nước và khu
vực, tạo được sự tin cậy đối với các bạn hàng trên thế giới, góp phần cải thiện đời sống
của cán bộ công nhân viên và mặt hàng này chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong toàn bộ
kim ngạch xuất khẩu quế của Việt Nam. Mặc dù vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được Công Ty còn gặp rất nhiều khó khăn cần giải quyết. Đó là, chất lượng hàng xuất
khẩu chưa cao, Công ty chủ yếu là xuất khẩu qua sơ chế và xuất khẩu thường phải qua
trung gian đã gây nên một thiệt hại không nhỏ cho Công ty. Ngoài ra, công tác tìm
nguồn hàng từ khâu thu mua đến khâu xuất khẩu chưa được đồng bộ, thống nhất. Bởi
thế, để Công ty phát huy hết tiềm năng, xứng đáng là một doanh nghiệp Nhà Nước
lớn thuộc Bộ thương mại thì việc nhìn nhận lại thực trạng kinh doanh xuất khẩu Quế
với những đánh giá chân thực về những thành tựu và hạn chế, từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu quế là một yêu cầu cần thiết. Với
lý do đó, đề tài “xuất khẩu quế ở Công ty XNK tổng hợp 1-Bộ thương mại: Thực
trạng và giải pháp ” đã được chọn làm nội dung nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp
này.
cấu trúc của khoá luận : Ngoài phần mởi đầu và phần kết luận, bài khóa luận tốt
nghiệp này được trình bày thành 4 phần.
- Phần 1: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
- Phần 2: Vài nét về tình hình hoạt động xuất khẩu Quế ở Việt Nam.
- Phần 3: Thực trạng hoạt động xuất khẩu Quế của Công Ty XNK tổng hợp 1.
- Phần 4: Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp 1
– Bộ thương mại.
Phần 1
Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
1.1- Khái niệm xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác
trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện so sánh. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối
với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia
và phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi,
các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Thực tế cũng cho thấy nếu
một quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mình, áp dụng phương thức tự cung tự cấp
thì không bao giờ có cơ hội vươn lên để khẳng định vị trí của mình và nâng cao đời
sống nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất
lâu đời và ngày càng phát triển. Hình thức đầu tiên của hoạt động xuất khẩu là trao đổi
hàng hoá giữa các nước cho đến nay xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu gia công, xuất khẩu uỷ thác, buôn bán
đối lưu, xuất khẩu theo nghị định thư, gia công quốc tế, xuất khẩu tại chỗ, tạm nhập tái
xuất.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế từ xuất
khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị đơn
giản cho đến những máy móc công nghệ cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều
nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về không gian và thời
gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một thời gian rất ngắn nhưng cũng có thể kéo dài
nhiều năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay của nhiều
quốc gia khác nhau.
1.2- Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Phương thức cơ bản nhất để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị trường
nước ngoài là thông qua xuất khẩu. Xuất khẩu cũng là một hoạt động kinh doanh quốc
tế đầu tiên của doanh nghiệp. Hoạt động này tiếp tục cả khi doanh nghiệp đã đa dạng
hoá các hoạt động kinh doanh của mình và có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Trước hết, xuất khẩu giải quyết vấn đề ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo nguồn
vốn để nhập khẩu. ở những nước kém phát triển, phần lớn các doanh nghiệp nằm trong
tình trạng thiếu vốn, công nghệ, thừa lao động phổ thông, thiếu lao động đã qua đào
tạo. Để giải quyết tình trạng này thì buộc họ phải nhập từ bên ngoài vào những yếu tố
mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng nhưng làm được điều đó thì cần phải có một
khối lượng ngoại tệ rất lớn.
Thiếu
vốn
Khả năng sản xuất
Công nghệ lạc
kém Có thể nói đây là “vòng luẩn quẩn” mà các doanh nghiệp
hậu
tại các nước này gặp
phải. Nếu thiếu vốn, doanh nghiệp không thể nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ
hiện đại, không thể tăng khả năng sản xuất, tạo thế cạnh tranh trên thị trường và cái
“vòng luẩn quẩn” đó sẽ ngày càng khép chặt hơn, muốn giảm bớt tình trạng thiếu thì
lại càng thiếu hơn, yếu sẽ càng yếu hơn.
Vốn - đây là câu hỏi hóc búa nhất không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn rất
nan giải đối với chính phủ và các nhà hoạch định chính sách. Vì vậy, một trong những
vật cản chính trong quá trình phát triển của doanh nghiệp là thiếu tiềm lực về vốn.
Thực tế cho thấy để có vốn một doanh nghiệp có thể huy động nội lực và ngoại lực.
Nguồn vốn huy động từ bên ngoài là vô cùng quan trọng, song để huy động được
nguồn vốn này doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Mọi cơ hội để doanh nghiệp
được đầu tư hay vay nợ chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được
khả năng trả nợ của công ty, trong đó họ rất chú ý đến hoạt động xuất khẩu. Và cuối
cùng, thì bằng cách này hay cách khác doanh nghiệp cũng phải hoàn lại vốn cho đối
tác. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu.
Với đặc điểm của đồng tiền thanh toán phần lớn là ngoại tệ đối với một bên
hoặc hai bên, xuất khẩu làm tăng ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo vốn để đổi mới máy
móc thiết bị nhập công nghệ mới hiện đại từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa và
tạo năng lực sản xuất mới. Vì vậy, xuất khẩu thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển làm
tăng giá trị máy móc thiết bị và làm giảm giá trị lao động cấu thành trong giá trị của
hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu tư bản. Từ đó, xuất khẩu tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp tăng khả năng khai thác lợi
thế so sánh của quốc gia. Có thể nói, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng
trưởng nhập khẩu của doanh nghiệp. Tóm lại, xuất khẩu là phương tiện quan trọng thu
hút lượng ngoại tệ, tạo vốn giúp doanh nghiệp thực hiện tái đầu tư mở rộng sản xuất
không những về chiều rộng mà còn về chiều sâu.
Thứ hai, xuất khẩu là bước quan trọng để doanh nghiệp xâm nhập và hội nhập
vào thị trường thế giới, một thị trường rộng lớn và đa nhu cầu, một thị trường nhiều
triển vọng của doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu. Mục tiêu cuối cùng và bao trùm
của mỗi doanh nghiệp là lợi nhuận. Song lợi nhuận sẽ chỉ đạt được thông qua việc thoả
mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, hiểu đầy đủ nhu cầu của khách hàng là cơ
sở để doanh nghiệp tìm cách thoả mãn tối đa nhu cầu đó. Điều này lại phụ thuộc rất
nhiều vào yếu tố chủ quan và khách quan, vĩ mô và vi mô. Song một thực tế không thể
phủ nhận là việc vươn ra thị trường quốc tế làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô khách
hàng, cung cấp sản phẩm cho một thị trường rộng lớn đa dân tộc, đa nhu cầu. Đặc biệt,
tại thị trường quốc tế sức mua của khách hàng rất phong phú, đa dạng mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc đều có sức mua khác nhau tuỳ theo điều kiện như : Thu nhập, sức mua của
đồng tiền, tập tính, thói quen tiêu dùng. Và đây chính là căn cứ giúp doanh nghiệp lựa
chọn được những đoạn thị trường phù hợp nhằm tối ưu hoá kết quả kinh doanh. Tham
gia hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có thể giảm được chi phí cho một đơn vị sản
phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất nhờ quy mô.
Tuy nhiên, lý thuyết này cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp chỉ có lợi thế nhờ quy
mô khi tăng sản lượng tới một giới hạn cho phép. Và những sản phẩm này phải được
thị trường chấp nhận, tiêu thụ. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể xác định
được nhu cầu của khách hàng cũng như mức độ chấp nhận sản phẩm của doanh
nghiệp, từ đó áp dụng hiệu quả lý thuyết nhờ quy mô.
Đặc biệt, thông qua hợp đồng xuất khẩu, khả năng vượt trội của doanh nghiệp
có thể khai thác được. Bởi lẽ, có những sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ cung
cấp cho thị trường trong nước mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường
nước ngoài. Doanh nghiệp sẽ tận dụng khả năng vượt trội về chất lượng, uy tín sản
phẩm của mình để vươn ra chiếm lĩnh thị trường nước ngoài thông qua hoạt động xuất
khẩu. Như vậy, doanh nghiệp sẽ khắc phục quy mô nhỏ bé của thị trường nội địa hay
tình trạng trì trệ, giảm sút của nó trong những giai đoạn kinh doanh nhất định. Đồng
thời, khả năng phân tán rủi ro cũng là một ưu điểm rất lớn mà hoạt động xuất khẩu
mang lại cho doanh nghiệp và khuyến khích doanh nghiệp tham gia lĩnh vực này. Nói
tóm lại, hoạ động xuất khẩu giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu cuối cùng và bao
trùm của mình là tăng lợi nhuận bằng việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm, tăng
doanh số bán, hạn chế rủi ro.
Thứ ba, thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia
vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới (về giá cả, uy tín, chất lượng). Để
tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình,
hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường, tạo ra những sản phẩm được
tiêu chuẩn hoá cao nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng ngày càng cao của thị trường quốc
tế. Thực hiện Marketing quốc tế với những nỗ lực về chính sách giá cả, phân phối, xúc
tiến bán hàng, mở rộng thị trường nhằm tăng khả năng thâm nhập vào các thị trường
lớn đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh với giá thị trường của nước mình
nhằm tăng khả năng phát triển sản phẩm của mình trên thị trường thế giới cũng là
những biện pháp cần thiết để từ đó tái đầu tư phát triển sản xuất đặc biệt. Xuất khẩu
cũng buộc các doanh nghiệp luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh
doanh, đây là một yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Cuối cùng, một vai trò đặc biệt quan trọng nữa của hoạt động xuất khẩu đó là
thông qua xuất khẩu doanh nghiệp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của mình. Con
người luôn là chủ thể trong các quan hệ kinh tế xã hội, vì vậy doanh nghiệp muốn hoạt
động có hiệu quả, nhất thiết phải có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đặt ra trong kinh
doanh. Hoạt động xuất khẩu giúp thu hút nhiều lao động, từ đó có thể tuyển lựa được
một đội ngũ lao động có khả năng đáp ứng được nhu cầu công việc, có chất lượng và
hiệu quả. Đặc biệt doanh nghiệp tham gia xuất khẩu còn nâng cao đời sống của mọi cá
nhân trong doanh nghiệp. Đây chính là động lực để người lao động làm việc có chất
lượng và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, do các
điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ
hiện đại nếu trình độ của người lao động của toàn doanh nghiệp nói chung và trình độ
nghiệp vụ của cán bộ quản lý nói riêng được nâng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu của
thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, song song với cơ hội cũng là những thách thức mà doanh nghiệp
phải đối mặt. Những thách thức này không thể làm nản lòng và hạn chế sự phát triển
của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài, ngược lại điều đó buộc các doanh nghiệp
phải nhận thức một cách rõ ràng về sự cần thiết của việc thâm nhập thị trường nước
ngoài.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng quyết định sự tồn
tại và phát triển của một doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp chuyên doanh XNK.
1.3 - Nội dung của hoạt động xuất khẩu
1.3.1 - Nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Nghiên cứu thị trường là một công việc quan trọng trong chu kì sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đối với các đơn vị hoạt động ngoại thương thì việc nghiên
cứu thị trường quốc tế lại càng có ý nghĩa hơn bởi vì nó liên quan trực tiếp đến việc
tiến hành giao dịch, thâm nhập vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp.
* Nghiên cứu thị trường trước tiên cần phải nhận biết hàng hoá
Hàng hoá mua bán phải được tìm hiểu kỹ về khía cạnh thương phẩm để hiểu rõ
giá trị, công dụng, nắm bắt được những đặc tính của nó và những yêu cầu của thị
trường về hàng hoá đó như: quy cách phẩm chất bao bì, cách trang trí bên ngoài, cách
lựa chọn, phân loại vv..
Bên cạnh đó, cần nắm vững tình hình sản xuất của mặt hàng đó như: thời vụ,
khả năng về nguyên vật liệu, công nhân tay nghề, nguyên lý cấu tạo… cũng như phải
biết mặt hàng đang lựa chọn đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm
trên thị trường. Thông thường tiến trình phát triển việc tiêu thụ một mặt hàng gồm bốn
giai đoạn: thâm nhập, phát triển, bão hoà và thoái trào. Nắm vững được giai đoạn mà
sản phẩm đang tồn tại sẽ giúp ta đưa ra những phương sách hợp lý giúp công ty phát
triển cùng với sản phẩm của mình.
* Nắm vững thị trường nước ngoài
Đối với những đơn vị kinh doanh với nước ngoài, việc nghiên cứu thị trường
nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Vì vậy, khi nghiên cứu cần chú ý đến những
điều kiện về chính trị – thương mại chung, luật pháp, chính sách buôn bán, điều kiện
về tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận tải , tình hình giá cước…
Ngoài ra, đơn vị kinh doanh cần nắm vững những điều có liên quan đến mặt
hàng kinh doanh của mình trên thị trường nước ngoài đó như: Dung lượng thị trường,
tập quán và thị hiếu tiêu dùng, những kênh tiêu thụ, sự biến động giá cả…
* Lựa chọn khách hàng
Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh có thể lựa
chọn thị trường, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao
dịch thích hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh còn
phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng những điều kiện như nhau, việc giao dịch với
khách hàng cụ thể này thì thành công với khách hàng khác thì bất lợi. Vì vậy, một
nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị kinh doanh trong giai đoạn chuẩn bị là lựa chọn
khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng thường không căn cứ vào những lời quảng cáo,
tự giới thiệu mà cần tìm hiểu khách hàng, về thái độ chính trị của thương nhân, khả
năng tài chính, lĩnh vực kinh doanh và uy tín của họ trên trường quốc tế.
1.3.2 - Nghiên cứu nguồn hàng và tổ chức thu mua xuất khẩu
Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng: lấy mặt hàng làm đối tượng
nghiên cứu và lấy đơn vị sản xuất kinh doanh làm cơ sở nghiên cứu.
*Lấy mặt hàng làm đối tượng nghiên cứu: Theo phương pháp này người ta
nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ của từng mặt hàng. Nhờ đó có thể biết được
tình hình chung và khả năng sản xuất cũng như nhu cầu xuất khẩu của từng mặt hàng.
* Lấy đơn vị sản xuất kinh doanh làm cơ sở nghiên cứu: Theo phương pháp
này người ta theo dõi năng lực sản xuất và cung ứng của từng cơ sơ sản xuất. Năng lực
sản xuất này thể hiện ở các chỉ tiêu sau:
+ Số lượng, chất lượng hàng hoá cung ứng.
+ Giá thành
+ Trình độ công nhân
+ Trang thiết bị, máy móc
Phương pháp lấy đơn vị sản xuất kinh doanh làm cơ sở nghiên cứu giúp nắm
bắt được tình hình cung ứng của từng xí nghiệp, địa phương nhưng lại không nắm bắt
được tình hình sản xuất và tiêu thụ mặt hàng nên thông thường các đơn vị kinh doanh
xuất khẩu áp dụng cả hai phương pháp.
Công tác thu mua cũng là một công đoạn quan trọng, do đó cần xây dựng công
tác thu mua hợp lý thông qua các đại lý các chi nhánh của mình. Như vậy, sẽ giúp
doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua.
1.3.3 - Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Để có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài, doanh nghiệp cần phải lựa
chọn được đối tác đang hoạt động trên thị trường và có thể thực hiện các hoạt động
kinh doanh của mình. Việc lựa chọn này có thể thông qua các bạn hàng đã có quan hệ
kinh doanh với doanh nghiệp trước đó, thông qua tin tức thu thập và điều tra được, các
phòng thương mại và công nghiệp, ngân hàng, các tổ chức tài chính để họ giúp đỡ
nhằm tìm hiểu về năng lực tài chính, uy tín, kinh nghiệm, năng lực pháp lý… của đối
tác kinh doanh đó. Việc lựa chọn đúng đối tác để giao dịch tránh cho doanh nghiệp
những phiền toái, rủi ro, mất mát… dễ gặp phải trong quá trình kinh doanh trên thị
trường quốc tế, đồng thời có điều kiện để thực hiện thành công các kế hoach kinh
doanh của mình.
1.3.4 - Đàm phán và kí kết hợp đồng
Đàm phán, kí kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng của
hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định đến khả năng, đều kiện thực hiện những công
đoạn mà doanh nghiệp thực hiện trước đó, đồng thời cũng quyết định đến tính khả thi
hay không khả thi của các kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp.
Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu trên thị trường, vào đối thủ cạnh tranh,
khả năng, điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và đối tác. Nếu đàm phán diễn ra tốt đẹp thì kết quả của nó là hợp đồng sẽ được
kí kết. Mỗi cam kết trong hợp đồng sẽ là một quy định pháp lý quan trọng, vững chắc
và đáng tin cậy để các bên thực hiện đúng lời cam kết của mình.
Đàm phán có thể được thực hiện thông qua thư tín, qua điện thoại hay gặp gỡ
trực tiếp và được tiến hành qua các bước sau:
+ Chào hàng: Đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của
doanh nghiệp, là lời đề nghị kí kết hợp đồng.
+ Hoàn giá: Khi nhận đựơc lời chào hàng và không chấp nhận giá chào hàng đó
đồng thời đưa ra những đề nghị gọi là chào hoàn giá.
+ Xác nhận: Là việc xác nhận lại điều kiện mà hai bên đã thoả thuận trước đó.
Việc này đồng nghĩa với việc kí kết hợp đồng.
+ Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện chào hàng mà bên kia
đưa ra.
Khi kí kết hợp đồng cần chú ý:
* Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sạch đẹp, nội dung phải phản ánh đúng,
đầy đủ các vấn đề đã thoả thuận.
* Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng phải là ngôn ngữ phổ biến và là ngôn ngữ mà
cả hai bên cùng thông thạo.
* Người kí kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền kí kết.
* Hợp đồng phải đề cập rõ vấn đề khiếu nại, trọng tài để giải quyết các vấn đề
tranh chấp phát sinh nếu có tránh tình trạng tranh cãi, kiện tụng kéo dài thời gian và
chi phí tốn kém.
1.3.5 - Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi kí kết hợp đồng mua bán ngoại thương doanh nghiệp xuất khẩu, với tư
cách là một bên kí kết, phải thực hiện hợp đồng đó. Việc này đòi hỏi phải có sự tuân
thủ những quy định của luật quốc gia và luật quốc tế, cũng như các tập quán quốc tế.
Đồng thời, phải bảo đảm được quyền lợi của quốc gia cũng như quyền lợi và uy tín
của doanh nghiệp. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc để
thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp xuất khẩu cần có sự cố gắng tiết kiệm chi phí lưu
thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch.
Các bước tiến hành để thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
+ Xin giấy phép xuất khẩu.
+ Giục mở L/C và kiểm tra L/C
+ Chuẩn bị hàng để xuất khẩu
+ Kiểm tra hàng hoá
+ Thuê tàu hoặc uỷ thác thuê tàu
+ Mua bảo hiểm
+ Làm thủ tục Hải quan
+ Làm thủ tục thanh toán
+ Khiếu nại trọng tài (nếu có)
1.3.5.1 - Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá
Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác
trong quá trình xuất khẩu hàng hoá với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác Quốc tế.
Với chiến lược hướng về xuất khẩu như hiện nay, Nhà nước ta đã và đang tạo ra những
điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
1.3.5.2 - Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu thông qua việc mua đứt bán đoạn ,
gia công, hàng đổi hàng, đại lý thu mua, hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu.
Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng bởi nó đảm bảo
được phẩm chất hàng hoá khi vận chuyển, tạo điều kiện nhận biết và phân loại hàng
hoá, đồng thời gây ấn tượng có thể làm người mua thích thú. Trong kinh doanh Quốc
tế người ta dùng nhiều loại bao bì khác nhau, thông thường được phân loại theo dụng
cụ của nó như: hòm, bao, kiện, ...
Kẻ kí mã hiệu hàng hoá xuất khẩu: Kí mã hiệu là những kí hiệu bằng chữ, bằng
số hoặc bằng vẽ hình được ghi trên bao bì nhằm thông báo những thông tin cần thiết
cho việc giao nhận, bốc dỡ, bảo quản. Kí mã hiệu cần phải sáng sủa, rõ ràng, dễ đọc,
không phai mờ, không ảnh hưởng tới phẩm chất của hàng hoá.
1.3.5.3 - Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu
Đây là công việc cần thiết, nhằm bảo đảm quyền lợi của nhà nhập khẩu, ngăn
chặn kịp thời các hậu quả xấu, phân định trách nhiệm rõ ràng của các khâu trong sản
xuất tạo nguồn hàng và đảm bảo uy tín cho nhà xuất khẩu.
Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm nghiệm và kiểm
dịch hàng hoá. Việc kiểm tra chất lượng hàng hoá do hai bên tự chịu trách nhiệm
thông qua hợp đồng. Cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra chất lượng hàng hoá
xuất khẩu, có quyền thu hồi giấy phép về tự kiểm tra hàng hoá đó đối với các doanh
nghiệp kinh doanh xuất khẩu tự kiểm nghiệm mà không làm đúng chức năng của
mình. Việc kiểm tra có thể tiến hành ở cửa khẩu hoặc tại cơ sở, tuỳ thuộc vào đặc điểm
của từng loại hàng hoá.
1.3.5.4 - Thuê tàu
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, người có hàng
nhưng lại không có công cụ, phương tiện vận tải biển để chuyên chở cho nên khi giành
được “quyền thuê tàu” họ phải đi thuê các tổ chức vận tải biển để chuyên chở hàng
hoá xuất nhập khẩu. Vì vậy nảy sinh nghiệp vụ thuê tàu. Việc thuê tàu chở hàng dựa
vào các căn cứ sau:
+ Những điều khoản hợp đồng mua bán
+ Điều kiện vận tải.
Tuỳ theo điều kiện hàng đối lưu, người ta có thể thuê khứ hồi hoặc chuyên chở
liên tục. Nếu hàng hoá không có khối lượng lớn thì người ta thường đăng kí (lưu cước)
chỗ của một tàu trọ để chở hàng. Thông thường, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp
kinh doanh xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty vận tải:
Letfracht, Transimex...
1.3.5.5 - Mua bảo hiểm:
Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì
vậy, trong kinh doanh quốc tế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ
biến nhất. Căn cứ vào các điều khoản, phương thức vận chuyển mà nhà xuất khẩu hay
nhập khẩu tiến hành mua bảo hiểm hay không. Hợp đồng bảo hiểm có thể chia thành:
+ Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp đồng bảo hiểm một chuyến hàng từ nơi
này đến nơi khác ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Trách nhiệm của người bảo hiểm bắt
đầu và kết thúc theo điều khoản “từ kho đến kho”.
Hợp đồng bảo hiểm chuyến thể hiện bằng đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận
bảo hiểm do công ty bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm có giá
trị pháp lý như nhau.
+ Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng trong một
thời gian nhất định, thường là một năm. Đối với các chủ hàng có khối lượng hàng hoá
xuất nhập khẩu lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với công ty bảo hiểm một hợp
đồng bảo hiểm bao, trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ bảo hiểm tất cả các chuyến
hàng xuất nhập khẩu trong năm.
Tuỳ theo phương thức mua bán của nhà kinh doanh xuất khẩu mà mua bảo
hiểm nào. Khi kí kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm sau:
- Bảo hiểm mọi rủi ro ( Điều kiện bảo hiểm A)
- Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng ( Điều kiện bảo hiểm B)
- Bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng ( Điều kiện bảo hiểm C)
1.3.5.6 - Làm thủ tục hải quan:
+ Khai báo hải quan: Chủ hàng phải khai báo hải quan đầy đủ các chi tiết cần
thiết về hàng hoá lên tờ khai. Việc kê khai này đòi hỏi phải trung thực và chính xác.
+ Kiểm tra hải quan : Các hàng hoá xuất khẩu qua biên giới đều phải làm thủ
tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật
của Nhà nước, chống hành vi buôn lậu đồng thời cũng để thống kê số liệu hàng hóa
xuất nhập khẩu.
Thủ tục hải quan gồm các bước:
* Khai báo hải quan: Kê khai chi tiết về hàng hoá để kiểm tra và có các giấy tờ
khác có liên quan.
* Xuất trình hàng hoá: đưa hàng hoá đến địa điểm kiểm tra để kiểm tra tính hợp
lệ của hàng hoá, làm thủ tục hải quan và nộp thuế, sau đó sẽ niêm phong kẹp chì.
* Thực hiện các quyết định của hải quan: Đây là khâu cuối cùng của thủ tục hải
quan, các doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện quyết định này.
Thực hiện các điều kiện giao hàng trong trường hợp hợp đồng đến thời hạn giao
hàng, các nhà xuất khẩu hàng hoá phải làm thủ tục giao hàng theo các bước sau:
- Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu để lập bảng đăng kí chuyên chở
- Xuất trình bảng đăng kí chuyên chở cho người vận tải để lấy tờ hồ sơ xếp
hàng và bố trí các phương tiện xếp hàng lên tàu.
- Lấy biên lai thuyền phó và đổi lấy vận đơn ( phải có vận đơn hoàn hảo có thể
chuyển nhượng) . Vận đơn có giá trị là cơ sở để xử lý các tranh chấp có thể xảy ra
đồng thời nó được chuyển về bộ phận kế toán để làm chứng từ thanh toán.
1.3.5.7 - Thanh toán hợp đồng:
Thanh toán là khâu trọng tâm, là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch
trong kinh doanh nên thủ tục này thường rất phức tạp.
Có nhiều phương thức thanh toán nhưng trong xuất khẩu người ta chủ yếu sử
dụng các phương thức sau:
+ Thanh toán bằng hình thức chuyển tiền .
+ Thanh toán bằng thư tín dụng ( L/C), đây là một loại giấy mà ngân hàng hứa
bảo đảm hoặc hứa trả tiền. Thanh toán bằng L/C là phương thức đảm bảo hợp lý, thuận
tiện, an toàn và hạn chế rủi ro cho cả hai bên đặc biệt là bên bán.
+ Thanh toán bằng phương thức nhờ thu. Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định
thanh toán bằng phương thức này sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thành
việc lập chứng từ cho ngân hàng để uỷ thác.
1.3.5.8 - Giải quyết tranh chấp:
Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, hai bên nên tìm cách hoà giải, khắc
phục trong sự hợp tác thiện chí, giúp đỡ lẫn nhau. Nếu không tự giải quyết được thì hai
bên phải giải quyết tranh chấp của mình thông qua Trọng tài Quốc tế.
Phần 2
Tình hình hoạt động xuất khẩu Quế ở Việt Nam
2.1 - Vài nét về thị trường xuất khẩu quế trên thế giới
2.1.1 - Nhu cầu về sản phẩm quế trên thế giới
Sản phẩm quế được ưa chuộng và buôn bán trên thị trường thế giới từ rất xa
xưa. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sản phẩm quế ngày càng được sử dụng
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như trong sản xuất mỹ phẩm, trong công nghiệp dược
phẩm, trong công nghiệp thực phẩm... Theo tài liệu “Plantation Crops”, thị trường của
sản phẩm quế hiện nay bao gồm cả Châu Mỹ, Châu á và một phần Châu Phi. Nước tiêu
thụ sản phẩm quế nhiều nhất là Mỹ, mỗi năm có nhu cầu 20 - 22 ngàn tấn, nhưng chỉ
mua được 12-15 ngàn tấn, Nhật Bản có nhu cầu khoảng 8.000 tấn/năm, nhưng thường
chỉ mua được trên dưới 1.000 tấn. Mehico có nhu cầu hơn 3.000 tấn/năm, Đức là
1.000-1.200 tấn/năm, Cộng hoà liên bang Nga, Balan, Bungari cũng có nhu cầu lớn
nhưng khả năng nhập khẩu còn ít. Chẳng hạn Nga, có nhu cầu trên dưới 8.000tấn/năm
nhưng chỉ nhập khẩu một khối lượng nhỏ, thậm chí chỉ mấy trăm tấn trên một năm. Đó
chưa kể các nước sản xuất quế có nhu cầu lớn nhưng để xuất khẩu nên chỉ dành cho
tiêu dùng trong nước một phần nhỏ.
Ta nhận thấy nhu cầu về quế là rất lớn, tuy nhiên số lượng thực tế nhập được
của các nước là không đáng kể so với lượng nhu cầu ấy. Không một nước nào có thể
nhập được khối lượng lớn bằng đúng nhu cầu thực tế của mình. Chênh lệch giữa số
lượng của nhu cầu mặt hàng quế với số lượng thực nhập thường cao hơn gấp 3-4 lần
(Thái Lan, Mêhico, Pháp) cá biệt có những nước số chênh lệch này lên tới gấp 15-20
lần (Nga, ấn Độ).
Như vậy, nhu cầu sản phẩm quế nói chung là lớn và phạm vi ngày càng rộng.
Ngày nay, thế giới đang hướng vào con đường bào chế thuốc chữa bệnh bằng nguyên
liệu dược thảo nhiều hơn hoá dược. Sản phẩm quế cũng như các dược liệu khác vì vậy
có nhu cầu lớn và tăng nhanh trên nhiều thị trường. Nhu cầu lớn nhưng khả năng sản
xuất lại hạn chế. Chính sự mất cân đối giữa cung và cầu đó đã tạo cho quế một giá trị
đặc biệt. Giá trị của quế nhiều khi vượt xa giá trị thực tế sản xuất ra nó. Cho nên sản
xuất quế đem lại lợi nhuận rất lớn cho người sản xuất, nhất là những nước có điều kiện
tự nhiên phong phú, thuận lợi như nước ta. Tuy nhiên, khả năng sản xuất quế bị hạn
chế là do một số đặc điểm sau đây:
- Thời gian sản xuất dài là đặc trưng cơ bản của ngành sản xuất quế. Quy trình
sản xuất (trồng cây, gieo hạt... cho đến khi thu hoạch) trung bình mất 10-15 năm, thậm
chí còn lâu hơn, tuỳ theo yêu cầu sản xuất và đời sống. Đặc điểm này đã hạn chế rất
nhiều khả năng sản xuất, kể cả việc mở rộng quy mô cũng như kích thích người sản
xuất. Do thời gian sản xuất dài nên ngành sản xuất quế không thể sản xuất ngay một
khối lượng lớn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tăng lên thường xuyên và nhiều khi có tính
chất đột biến trên một số thị trường.
- Thời gian sản xuất quế dài nên yêu cầu vốn đầu tư lớn, khiến cho việc mở rộng
quy mô sản xuất gặp nhiều khó khăn, vì nói chung hiện nay hầu hết các nước có khả
năng sản xuất quế thường là những nước kinh tế đang phát triển. Những vùng có tập
quán sản xuất quế lại thường ở vùng trung du miền núi, phần nhiều thuộc các dân tộc ít
người với phương thức canh tác còn lạc hậu. Cho nên, cho đến nay, khả năng sản xuất
quế vẫn ngày càng cách xa nhu cầu.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến những lý do khác nữa khiến cho nhu cầu về sản
phẩm quế lớn trong khi khối lượng nhập lại hạn chế. Đó là:
- Sự đa dạng hoá thị trường xuất khẩu của các nước sản xuất quế chính. Trong
nền kinh tế toàn cầu ngày nay, thị trường không còn bó hẹp hạn chế như trước kia,
trước năm 1990 khi thế giới còn chia làm hai cực: các nước tư bản chủ nghĩa và các
nước xã hội chủ nghĩa. Các nước sản xuất quế chính mở rộng thị trường, mở rộng bạn
hàng của mình với nhiều quốc gia khác nhau cho nên lượng quế xuất khẩu bị phân tán.
- Theo quy luật cung cầu về giá nhu cầu lớn trong khi lượng cung cấp không
tăng không đáp ứng ngay được nên giá của sản phẩm tất yếu sẽ tăng lên. Với mức giá
này nhiều nước có nhu cầu lớn song lại không có khả năng mua với khối lượng lớn.
Cho nên họ chỉ mua được ở một khối lượng nhất định nhằm đáp ứng phần nào phục vụ
cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng sản phẩm quế trong nước.
2.1.2 – Tình hình cung cấp sản phẩm quế trên thị trường thế giới
Trong những năm gần đây khối lượng sản phẩm quế trên thế giới không ngừng
gia tăng về số lượng xuất khẩu, bình quân mỗi năm trên dưới 30 ngàn tấn. Những nước
tiêu dùng nhiều quế lại chính là những nước không tự sản xuất được quế vì thiếu những
điều kiện tự nhiên và môi trường. Do đó, điều kiện này chính là yếu tố quyết định, là
lợi thế lớn cho những nước sản xuất và xuất khẩu sản phẩm quế chính trên thế giới.
Cây quế sinh trưởng và phát triển ở vùng nhiệt đới. Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần
trên, ở những nơi này quế cũng chỉ phát triển tốt và thích hợp ở một số vùng. Cung cấp
sản phẩm quế trên thị trường thế giới chủ yếu là Indonesia, Trung Quốc, Việt Nam và
quần đảo Xrilanca. Trong đó nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất là Indonesia
(chiếm khoảng 42% tổng khối lượng xuất khẩu của toàn thế giới), tiếp đó là Trung
Quốc (40%), trong đó Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ (10%) mặc dù nước ta
phong phú về chủng loại quế, chất lượng quế tốt... Nguyên nhân của việc khối lượng
nước ta chiếm một phần nhỏ trong khối lượng xuất khẩu trên thị trường thế giới là do
diện tích trồng sản phẩm quế của ta nhỏ so với các nước xuất khẩu chính khác. Bên
cạnh đó, một phần cũng do trình độ sản xuất khai thác quế của nước ta còn lạc hậu, phụ
thuộc nhiều vào kinh nghiệm sản xuất của người dân.
Nhận biết được nhu cầu sản phẩm quế là rất lớn trên thị trường thế giới, những
vùng thích hợp cho việc sản xuất quế đã không ngừng mở rộng diện tích trồng quế.
Tuy nhiên sản xuất cần thời gian dài, cây quế lại cho thu hoạch một lần nên sự gia tăng
về sản lượng quế xuất khẩu của các nước này không mang tính chất đột biến.
Như vậy, so với các sản phẩm xuất khẩu khác trong ngành nông lâm nghiệp
(chè, hạt điều, cà phê), quế là sản phẩm có khối lượng xuất khẩu tương đối khiêm tốn
mặc dù giá trị xuất khẩu khá cao. Tình hình cung cấp sản phẩm quế so với nhu cầu sản
phẩm này có một khoảng chênh lệch khá lớn, nhu cầu sử dụng quế cho sinh hoạt cũng
như sản xuất không ngừng tăng cao trong khi nguồn cung cấp tăng lên không đáng kể.
- Xem thêm -