Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xuất khẩu nông sản của việt nam sang thị trường trung quốc trong bối cảnh asean ...

Tài liệu Xuất khẩu nông sản của việt nam sang thị trường trung quốc trong bối cảnh asean và trung quốc

.PDF
67
234
96

Mô tả:

LUẬN VĂN: Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN và Trung Quốc Lời mở đầu Việt Nam là một nước nông nghiệp có lợi thế rất lớn về sản xuất và xuất khẩu nông sản. Hàng năm xuất khẩu nông sản đã đưa về cho Việt Nam một lượng ngoại tệ lớn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trung Quốc là một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng với dân số trên một tỷ người.Trong những thập niên gần đây Trung Quốc đã lớn mạnh không ngừng với tốc độ nhanh chóng mặt. Trung Quốc lại là người bạn láng giềng thân thiết có chung đường biên giới với Việt Nam, cùng thuộc vòng cung châu á-Thái Bình Dương năng động nhất trên thế giới về phát triển kinh tế. Quan hệ thương mại Việt-Trung đã trở lại bình thường và phát triển nhanh chóng kể từ khi hai nước kí Hiệp định thương mại Việt-Trung vào năm 1991. Đặc biệt khi Trung Quốc và ASEAN kí Hiệp định khung về hợp tác toàn diện ASEAN-Trung Quốc(2002), trong đó Trung Quốc dành những ưu đãi cho các nước ASEAN mới trong chương trình thu hoạch sớm, quan hệ giữa hai nước đã có những tiến triển mới. Bộ thương mại Việt Nam cũng đã xác định Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam trong 5 năm tới(2006-2010) nhất là đối với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam-đối tượng ưu tiên trong chương trình thu hoạch sớm. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này nên tôi đã quyết định chọn đề tài “Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN +Trung Quốc” làm đề tài thực tập chuyên ngành. Bài viết của tôi sẽ đi sâu phân tích đánh giá tác động của Hiệp định khung ASEAN -Trung Quốc tới xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Việt Nam được gì, phải làm gì để tận dụng hết những lợi thế và hạn chế tối đa những khó khăn có thể xảy ra trong quá trình thực hiện Hiệp định tới xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. Kết cấu bài viết gồm ba chương Chương I: Tổng quan về xuất khẩu và Hiệp định khung ASEAN + Trung Quốc Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN + 1 Chương III: Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN+Trung Quốc Chương I. Tổng quan về xuất khẩu và Hiệp định khung ASEAN + Trung Quốc 1.1. Khái niệm về xuất khẩu và các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu  Khái niệm Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về xuất khẩu Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hóa, dịch vụ được đưa đưa ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia Xuất khẩu hàng hóa là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước ra ngoài nước để thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Hoạt động xuất khẩu ban đầu là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá cả hàng hoá vô hình và hàng hoá hữu hình trong nước. Nhưng do sản xuất phát triển, các nhà sản xuất vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, việc trao đổi giữa các nước có lợi do lợi thế trong cạnh tranh nên hoạt động này mở rộng ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, hoặc giữa thị trường nội địa và khu chế xuất ở trong nước. Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của ngoại thương, lịch sử phát triển của nó đã có từ rất lâu đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ban đầu, hình thức cơ bản của nó chỉ đơn thuần là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Ngày nay nó đã phát triển rất mạnh và được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rộng khắp trong hầu hết tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế với tỉ trọng ngày càng cao.  Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau thuộc cả về quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu hay chính là chiụ ảnh hưỏng của cả môi trường kinh doanh quốc gia và môi trường kinh doanh quốc tế. Các nhân tố trong hai môi trường này gồm Các yếu tố về chính trị và luật pháp Đó là vấn đề liên quan đến chính trị và luật pháp của chính phủ tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Nó bao gồm sự ổn định của Chính phủ, mức độ tham nhũng trong hệ thống chính trị và tiến trình chính trị có ảnh hưởng đến chính sách kinh tế. Điều dễ hiểu là không một ai muốn bán hàng hoá sang một nước đang có sự tranh chấp về mặt chính trị, có sự đấu tranh giành giật giữa các Đảng phái hay có chiến tranh loạn lạc như irac vừa rồi. Tất cả sẽ thay đổi khi người đứng đầu thay đổi và những thoả thuận đã được đảm bảo bằng luật pháp trước khi có sự thay đổi này đều có thể bị vô hiệu với những điều luật mới ra đời cùng với chính phủ mới. Các yếu tố luật pháp bao gồm các đạo luật điều chỉnh việc trả lương tối thiểu, an toàn lao động cho công nhân, bảo vệ môi trường và người tiêu dùng…và những gì được quy định là hành vi cạnh tranh hợp pháp hay bất hợp pháp. Mỗi nước lựa chọn đi theo con đường chính trị riêng của mình tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tình hình và sự lựa chọn của mỗi nước. Nhưng dù có theo chế độ chính trị nào đi nữa thì sự ổn định hay không của hệ thống chính trị và luật pháp vẫn tác động rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp, nó thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động xuất khẩu Chính sách thương mại quốc tế của Chính phủ Là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp mà Nhà nước áp dụng để thực hiện, điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia trong một thời kì nhất định nhằm đạt được các mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó Nó bao gồm: Chính sách thị trường; Chính sách mặt hàng; Chính sách hỗ trợ có liên quan mật thiết với nhau Nó được thực hiện thông qua hai công cụ chủ yếu là các biện pháp thuế quan và các biện pháp phi thuế quan Các biện pháp thuế quan: gồm có thuế quan nhập khẩu và thuế quan xuất khẩu trong đó được áp dụng chủ yếu là thuế quan nhập khẩu. Thuế quan nhập khẩu ngày nay được áp dụng chủ yếu là hạn ngạch thuế quan là sự kết hợp của thuế quan nhập khẩu và hạn chế về số lượng nhập khẩu. Trong lượng được phép nhập sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi riêng có thể được miễn giảm thuế (thuế từ 0-5%), ngoài hạn ngạch thì phải chịu mức thuế suất cao Các công cụ phi thuế quan: Gồm có các biện pháp hành chính (như hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện…), các biện pháp tiêu chuẩn kĩ thuật (tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh phòng dịch, bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn đo lường, đóng gói, an toàn lao động, kí mã hiệu, nguồn gốc xuất xứ…), các đòn bẩy kinh tế (các biện pháp hỗ trợ tín dụng, trợ cấp trợ giá…) Ngày nay trong xu hướng tự do hoá thương mại, các biện pháp thuế quan được tháo bỏ dần trong các tổ chức như WTO, các khu vực mậu dịch tự do, các liên minh kinh tế…Các biện pháp phi thuế cũng được giảm dần như các biện pháp về hạn ngạch, các đòn bẩy kinh tế…và được sử dụng tăng cường như các biện pháp về tiêu chuẩn kĩ thuật (đặc biệt sử dụng các biện pháp tiêu chuẩn liên quan tới môi trường sinh thái, vệ sinh dịch tễ và các tiêu chuẩn liên quan tới đạo đức xã hội). Hầu hết các biện pháp này đều có tác dụng làm giảm nhập khẩu các sản phẩm từ nước ngoài vào quốc gia đó, khuyến khích tiêu thụ hàng hoá được sản xuất trong nước, nâng cao năng lực sản xuất quốc gia, cản trở hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Các yếu tố văn hoá. Nó phản ánh thẩm mỹ và giá trị, phong tục tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, giao tiếp cá nhân, giáo dục và các môi trường vật chất và môi trường tự nhiên của con người. Mỗi nước có một nền văn hoá mang đậm bản sắc riêng của mình. Do đó hiểu biết về nền văn hoá sẽ giúp cho các quốc gia xuất khẩu có thể hoạch định chính xác chiến lược đối với từng nước nhập khẩu riêng biệt, khả năng thành công cao tránh trường hợp thất bại do không hiểu biết gì về văn hoá của họ mà áp dụng những chiến thuật cho các nước khác nhau vẫn giống nhau dù nền văn hoá của họ hoàn toàn khác nhau. Chúng ta chỉ có thể thất bại khi sản phẩm của ta không đủ sức cạnh tranh trên thị trường do chất lượng và thương hiệu của ta chưa đủ mạnh chứ không thể thất bại do thiếu hiểu biết vì đó là một cái chết ngu ngốc. Như trường hợp của công ty Cocacola, khi quảng cáo sản phẩm ở một nước đạo Hồi đã không chú ý đến văn hoá tín ngưỡng của họ nên sản phẩm của công ty lập tức đã bị tẩy chay mặc dù công ty là một trong số những thương hiệu hàng đầu trên thế giới và chất lượng sản phẩm thì khỏi bàn. Việc tìm hiêu văn hoá của mỗi quốc gia để ta có cách đàm phán sao cho có lợi nhất cho ta trong những hợp đồng kinh doanh xuất khẩu, xuất khẩu với giá lời nhất, điều kiện ưu đãi nhất…cho ta, đem lại lợi nhuận cao nhất, đó chính là mục đích cuối cùng các doanh nghiệp xuất khẩu hướng tới Các yếu tố kinh tế. Bao gồm các biến số về kinh tế và tài chính như lãi suất, thuế suất, cơ cấu tiêu dùng, năng suất và mức sản lượng. Nó còn bao gồm những chỉ số về hạ tầng cơ sở như truyền thông, mạng lưới phân phối , đường cao ốc, sân bay,…mức độ sẵn có và phí tổn về năng lượng. Nó tác động tới hoạt động xuất khẩu cả ở tầm vi mô và vĩ mô. Xét tổng thể chúng tác động đến đặc điểm và sự phân bố các cơ hội kinh doanh quốc tế cũng như quy mô thị trường. Còn ở tầm vi mô, các yếu tố kinh tế ảnh hưởng tới cơ cấu tổ chức và hiệu quả của doanh nghiệp. Các yếu tố giá cả và sự phân bố tài nguyên ở các thị trường khác nhau cũng ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, phân bố nguyên vật liệu, vốn, lao động của và do đó ảnh hưởng tới giá cả, chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Bên cạnh đó, còn có công cụ thuế quan và phi thuế quan mà mỗi quốc gia sử dụng để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Trên thế giới hiện nay, với xu hướng tự do hoá thương mại, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan từng bước được loại bỏ. Thay vào đó nhiều liên minh thuế quan được hình thành trên cơ sở loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các thành viên trong liên minh thuế quan. Các yếu tố cạnh tranh. Các yếu tố cạnh tranh bao gồm số lượng các đối thủ cạnh tranh và chiến lược của chúng. Các đối thủ cạnh tranh bao gồm các đối thủ cạnh tranh hiện tại và các đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Hiện tại là các nước đã thâm nhập được vào thị trường đó và tạo dựng được uy tín thương hiệu trên đất nước đó giống như nhắc đến đồ điện tử ở nước ta người ta nghĩ ngay tới nước Nhật với chất lượng tốt, độ bền cao, tính năng vượt trội…hàng Thái Lan nổi tiếng ở nước ta là các sản phẩm rau quả tươi, gạo, hàng tiêu dùng…với chất lượng tốt, giá cả phải chăng hơn so với các loại hàng hoá cùng loại nhưng được sản xuất ở nước ta. Nhưng ta còn xem xét trong đoạn thị trường mà ta được phân có các đối thủ cạnh tranh nào. Xem xét trên thị trường đồ điện tử thì ta không thể coi Nhật là đối thủ cạnh tranh bởi đoạn thị trưòng mà Nhật chiếm lĩnh là đoạn thị trường cao cấp. Khách hàng cần là những tính năng vượt trội, mới được phát minh, kiểu dáng thời trang… và họ sãn sàng bỏ tiền ra để có được nó. Còn ta phải nói đến là đoạn thị trường với những khách hàng trung bình cấp thấp nên trong đoạn thị trường đó ta có đối thủ đáng gờm nhất là Trung Quốc và các nước ASEAN Với các đối thủ tiềm năng là những đối thủ hiện tại chưa có động tĩnh gì nhưng đang có triển vọng rất lớn trong lĩnh vực đó thì ta phải đề phòng nhiều hơn. Ta ngay từ bây giờ phải làm thế nào để ngày càng mạnh và có chỗ đứng vững chắc trên đoạn thị trường mà ta đang chiếm lĩnh đồng thời có kế hoạch phát triển sang đoạn thị trường khác Các yếu tố cạnh tranh còn phụ thuộc vào sức ép người cung cấp các yếu tố là nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Hầu hết các sản phẩm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu đều được sản xuất bằng nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Với các nước phát triển thì nguồn nguyên liệu này chủ yếu là các nguồn tài nguyên thiên nhiên được nhập từ các nước đang và kém phát triển về để chế biến thành những sản phẩm tinh chế và bán lại cho các nước khác với giá cao. Ví như dầu thô được các nước phát triển nhập về chế biến và bán lại dầu đã tinh chế thành các sản phẩm như xăng, nhớt…cho các nước đang phát triển với mức giá cao hơn rất nhiều. Còn các nước đang phát triển nhập nguồn nguyên liệu do yêu cầu của phía đối tác là nước nhập khẩu đòi hỏi sản phẩm phải được sản xuất bằng nguyên liệu đó. Bên cạnh người cung cấp hoạt động xuất khẩu còn chịu sức ép người tiêu dùng là những người trực tiếp quyết định sự sống còn của sản phẩm trên thị trường đó bằng quyết định có mua hay không. Người tiêu dùng nhạy cảm với thương hiệu sản phẩm, chất lượng sản phẩm và giá cả sản phẩm phù hợp với từng loại khách hàng. Sản phẩm xuất khẩu chịu sự đe doạ của các sản phẩm thay thế và các yếu tố cạnh tranh trong nội bộ ngành. Các sản phẩm thay thế ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật do sự cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái…vì thế để tăng cường hoạt động xuất khẩu thì việc không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, tăng cường tính năng cho sản phẩm là điều cần thiết để sản phẩm không bị xoá sổ. Các yếu tố tỷ giá hối đoái. Trong buôn bán quốc tế, vấn đề thanh toán phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tỷ giá hối đoái do đồng tiền trong thanh toán quốc tế thường là ngoại tệ với một trong hai bên hoặc cả hai bên. Tỷ giá hối đoái tác động làm tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu làm cho hàng hoá trở lên đắt hay rẻ hơn một cách tương đối làm tăng hoặc giảm sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Sức ảnh hưỏng của nó càng mạnh khi quốc gia xuất khẩu kí kết các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá kì hạn chứ không phải hợp đồng giao ngay. Sau một thời hạn nhất định bên bán sẽ đưa hàng và bên mua nhận tiền theo thoả thuận trong hợp đồng đã kí, theo một mức tỷ giá thoả thuận trong hợp đồng mà không được thay đổi dù lúc đó tỷ giá có tăng hoặc giảm, bên bán hay bên mua sẽ chịu thiệt trong độ co dãn phần trăm nào đó. Nó trực tiếp tác động tới lượng hàng hóa được trao đổi trên thị trường quốc tế của một quốc gia, tăng hoặc thu hẹp hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó. Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mạnh lên, có giá trị cao hơn trước sẽ khuyến khích các quốc gia nhập khẩu hàng hoá và khi tỷ giá giảm thì các quốc gia sẽ tăng cường xuất khẩu do lúc này hàng hoá chợt trở lên rẻ hơn một cách tương đối so với trước kia, sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường tăng Các yếu tố về công nghệ Ngày nay với sự phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ, làm thay đổi cục diện của toàn bộ hoạt động xuất khẩu. Đời sống của con người cũng được nâng cao làm cho nhu cầu của họ cũng thay đổi. Con người ngày nay cần những loại hàng hoá và dịch vụ chất lượng cao, đảm bảo các yêu cầu về tiêu chuẩn hàng hoá, giá cả cạnh tranh…Sự phát triển của công nghệ đã đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của con người. Các sản phẩm được tạo ra có chất lượng cao, giá thành phải chăng…công nghệ càng tiên tiến sản phẩm càng có sức cạnh tranh cao. Do vậy hoạt động nghiên cứu và triển khai đang được khuyến khích phát triển và đã phát triển rất mạnh ở các nước như Mỹ, Nhật Bản…, các nước có công nghệ nguồn. Công nghệ tác động tới hoạt động xuất khẩu còn thông qua tác động vào các lĩnh vực như bưu chính viễn thông, vận tải giao nhận hàng hóa, ngân hàng… 1.2. Khu vực mậu dịch tự do và tác động đối với xuất khẩu  Khái niệm Liên kết kinh tế quốc tế là một hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hoá sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng mang tính chất quốc tế với sự tham gia của các chủ thể kinh tế quốc tế dựa trên các Hiệp định đã thoả thuận và kí kết để hình thành nên các tổ chức kinh tế với những cấp độ nhất định Khu vực mậu dịch tự do là một hình thức liên kết kinh tế mà các thành viên cùng nhau thoả thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá trong buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó là  Giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng đối với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau  Tiến tới tạo lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ  Mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các quốc gia ngoài khối Khu vực mậu dịch tự do là hình thức liên kết đầu tiên của Liên kết kinh tế. Trước xu hướng tự do hoá kinh tế ngày nay, hai cấp độ của tự do hoá kinh tế là toàn cầu hoá và khu vực hoá tác động tới tất cả các quốc gia và ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào, một loạt các liên kết kinh tế được hình thành và phát triển với nhiều cấp độ khác nhau trong đó khu vực mậu dịch tự do là cấp độ liên kết kinh tế đầu tiên, từ đó sẽ phát triển và mở rộng thành các liên kết kinh tế ngày càng chặt chẽ hơn và có thể dẫn tới một liên minh chính trị-kinh tế toàn diện, hợp nhất giữa các quốc gia trong khối liên kết đó Khu vực mậu dịch tự do có thể được thành lập dựa trên cơ sở các nước có sự gần gũi về mặt địa lý nhưng cũng có thể là các FTA song phương giữa một khu vực, Hiệp hội với một nước nào đó. Song song với trào lưu toàn cầu hoá, chủ nghĩa khu vực cũng phát triển mạnh với hình thái ngày càng phong phú là các FTA song hoặc đa phương có phạm vi hợp tác rộng, không giới hạn trong việc thực hiện tự do hoá mậu dịch mà còn trong lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, thủ tục hành chính Hải quan…  Tác động của khu vực mậu dịch tự do tới hoạt động xuất khẩu Việc thành lập khu vực mậu dịch tự do có nghĩa là các hàng rào thuế quan và các biện pháp phi thuế sẽ dần dần được tháo bỏ tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các thành viên trong khu vực hay chính là sự tự do hoá thương mại trong khu vực. Tự do hóa thương mại chính là mục đích mà tất cả các nước đều hướng tới, là một trong hai xu hướng cơ bản trong chính sách thương mại quốc tế. Trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia, công cụ để thực hiện gồm hai loại: thuế quan và phi thuế quan. Khu vực mậu dịch tự do tiến tới giảm dần hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế ở một mức độ nhất định, với các mặt hàng cụ thể với các nước thành viên, còn các nước khác thì không có sự thay đổi trừ khi hai nước có kí hiệp định thương mại song phương với những điều khoản tương tự. Tiến tới một mức độ cao hơn khu vực mậu dịch tự do sẽ chuyển thành liên minh thuế quan, liên kết kinh tế hợp tác trên tất cả các lĩnh vực về thương mại dịch vụ, hàng hoá hữu hình Khu vực mậu dịch tự do có tác dụng tạo lập mậu dịch tức là việc thành lập khu vực mậu dịch tự do có tác dụng mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá giữa các nước trong khu vực với nhau do hàng hoá và dịch vụ của các nước trong khu vực giờ đây được tự do di chuyển trong nội bộ mà không phải chịu các hạn chế do các rào cản thuế quan hay các rào cản phi thuế quan mang lại. Hàng hóa chỉ cần có giấy chứng nhận xuất xứ từ khu vực đó là có thể di chuyển tự do trong nội bộ khu vực đó mà không chịu bất kì rào cản gì. Hàng hoá của nước khác ngoài khối xuất sang được một nước thuộc khu vực đó là có thể xuất sang các nước khác thuộc khu vực mà không cần qua các thủ tục rắc rối để kiểm tra về tiêu chuẩn hàng hoá… Tuy nhiên bên cạnh việc tạo lập mậu dịch việc thành lập khu vực mậudịch tự do cũng có tác động tiêu cực là tạo ra sự chuyển hướng mậu dịch. Do nó gần như xoá bỏ hàng rào thuế quan về hàng hoá và dịch vụ của các nước thuộc khu vực nên các nước này sẽ chuyển hướng sang mua hàng hoá và dịch vụ của các nước thuộc khu vực mà bỏ qua hàng hoá và dịch vụ của các nước ngoài khu vực dù cho hàng hoá của các nước đó có tốt hơn hay rẻ hơn một cách tương đối. Như đã nói ở trên, chính sách thương mại của Chính phủ mà cụ thể là bằng các công cụ thuế quan và phi thuế quan tác động tới xuất khẩu qua việc làm cho hàng hoá sản xuất trong các nước thuộc khu vực mậu dịch tự do tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường nước cùng khối so với các sản phẩm khác cùng loại nhưng được sản xuất ở nước ngoài khối. Điều này tạo điều kiện cho các nước thuộc khu vực phát triển các ngành sản xuất để xuất khẩu những sản phẩm mà trước kia họ ít lợi thế tại thị trường các nước trong khu vực so với các nước khác ngoài khối. Việc chuyển dịch mậu dịch này ép các nước ngoài khối buộc phải giảm giá bán, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính năng công dụng cho sản phẩm mới có thể giữ vững thị phần tại khu vực này. Nhưng cũng chính nó đã thúc đẩy cho đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển. Các nước ngoài khối lựa chọn một nước có điều kiện đầu tư tốt nhất so với yêu cầu của họ để đầu tư sản xuất ngay tại nước bản địa và sau đó thì xuất khẩu sang các nước khác cùng khối và nghiễm nhiên họ được hưởng lợi từ hợp tác khu vực này 1.3. Vai trò của xuất khẩu nông sản với nền kinh tế Việt Nam 1.3.1. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam Việt Nam là một nước có tiềm năng rất lớn trong sản xuát và xuất khẩu nông sản. Theo báo cáo của Tổng cục địa chính, diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng vào khoảng 9,345 triệu ha và khoảng 9,277 triệu ha đất chưa được sử dụng ( trong đó 83% là đất đồi núi có thể sử dụng cho mục đích lâm nghiệp; 1,6% tổng diện tích có thể sử dụng mặt nước để nuôi trồng thủy sản; còn lại là đất bằng ). Địa hình của nước ta cũng rất đa dạng về chủng loại thích hợp cho việc trồng nhiều loại nông sản Việt Nam có rất nhièu vùng khí hậu thuận lợi cho việc trồng các loại nông sản có giá trị cao Các loại cây ôn đới có thể trồng tại các vùng cao có nhiệt độ thấp như Sa Pa, Đà Lạt…; Vùng đồng bằngg sông Hồng có thể phát triển các lọai rau chịu lạnh như bắp cải, cà rốt, su hào…còn vùng đồng bằng sông Cửu Long là miệt vuờn trái cây nhiệt đới của cả nước và cũng rất thích hợp để sản xuất các loại cây công nghiệp như cà phê, chè, cacao, điều, cao su, tiêu…đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa, chuyên cung cấp lúa gạo cho cả nước để tiêu dùng và xuất khẩu Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào. Với dân số gần 80 triệu người trong đó có gần 50 triệu lao động, lao động nông thôn chiếm khoảng 60% dân số và vẫn được bổ sung thường xuyên, số lao động này mới sử dụng hơn 70% quỹ thời gian cho sản xuất nông nghiệp còn lại là thời gian nhàn rỗi. Lao động Việt Nam được đánh giá là trẻ, chăm chỉ, cần cù. Đây là một lợi thế rất lớn của Việt Nam trong sản xuất nông nghiệp So với các nước khác trong khu vực tỷ lệ đóng góp hàng năm cho tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam của khu vực nông nghiệp khá cao tới gần 30%, trong khi của Thái Lan chỉ là gần 15%, Trung Quốc là 7%. Nó phản ánh vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam còn quá cao và một cơ cấu kinh tế bất hợp lý Tuy năng suất cây trồng của ta còn thấp so với các nước trên thế giới nhưng trong những năm qua ta đã vươn lên và đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ hai về xuất khẩu cà phê, thứ tư về nhân điều và đứng đầu về xuất khẩu hồ tiêu. Việt Nam là một nước nông nghiệp đang phát triển nhưng tận dụng lợi thế của một nước đi sau ta đã từng bước áp dụng những thành tựu công nghệ tiên tiến mà thế giới đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công như các giống mới (lúa lai, gà siêu thịt, siêu trứng, lợn nạc…) 1.3.2. Vai trò của xuất khẩu nông sản tới nền kinh tế Việt Nam Hiện nay nông sản Việt Nam hiện đang có mặt ở trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, ngày càng có nhiều mặt hàng có khả năng cạnh tranh khá có thể xâm nhập vào những thị truờng khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản… Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển các hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại của từng quốc gia. Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu đã góp phần quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước. Xuất khẩu góp phần tạo ra nguồn vốn cho hoạt động nhập khẩu, thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài và phát triển đầu tư trong nước vì sự nghiệp phát triển kinh tế. Đặc biệt với lợi thế về sản xuất nông sản của mình hoạt động xuất khẩu nông sản là một hoạt động tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và có vai trò to lớn với nền kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Xuất khẩu không chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa mà còn làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Liên quan tới nông nghiệp là sự phát triển của công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu đồng thời kéo theo sự phát triển của công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó hoặc các ngành dịch vụ khác liên quan đến nó. Do đó có thể nói xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản xuất trong nước. Thông qua xuất khẩu, hàng hóa sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Xuất khẩu hàng nông sản giải quyết tới công ăn việc làm cải thiện đời sống nhân dân trước hết là người dân ở vùng nông thôn và người dân ở miền núi góp phần xoá đói giảm nghèo. Xuất khẩu tạo ra một nguồn vốn quan trọng để phát huy nội lực đất nước góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước đưa đất nước đi lên trở thành một trong những con rồng châu á. Chỉ bằng con đường xuất khẩu chúng ta có thể mở rộng được quy mô sản xuất tránh được sự bão hòa của thị trường nội địa, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên trong nước. Vậy có thể nói hoạt động xuất khẩu góp phần không nhỏ vào việc tạo tiền đề vững chắc phát huy nội lực để có được sự tăng trưởng kinh tế lành mạnh vững chắc. Phát huy các lợi thế so sánh, khai thác tiềm năng đất nước. Đối với nước ta có ưu điểm về khí hậu nhiệt đới gió mùa nên rất thuận lợi cho phát triển sản phẩm nhiệt đới, nhân công nhiều cụ thể là 60% dân số sống bằng nghề nông thêm vào đó giá nhân công thấp nên đã tạo điều kiện cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Hơn thế sản xuất hàng nông sản còn đem lại một lượng ngoại tệ lớn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta do xuất khẩu nông sản chúng ta không cần dùng nhiều ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu đầu vào như các ngành khác mà laị thu về một lượng ngoại tệ đáng kể Xuất khẩu nông sản còn góp phần giải quyết vấn đề lương thực thực phẩm cho người dân. Xuất khẩu nông sản góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản phát triển. Hiện nay nước ta chủ yếu là xuất khẩu nông sản thô, hàm lượng chế biến thấp nhưng để tăng thu ngoại tệ, phát triển và mở rộng sản xuất, xuất khẩu nông sản thì ta phải tăng hàm lượng chế biến của nông sản lên bằng việc phát triển và mở rộng các nhà máy chế biến nông sản 1.4. Hiệp định khung giữa ASEAN với Trung Quốc về việc thành lập khu vực mậu dịch tự do 1.4.1. Bối cảnh ra đời Qua các hội nghị thượng đỉnh giữa Trung Quốc và các nước ASEAN đã dần dần đạt được các thoả thuận để đi tới quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEANTrung Quốc. Điều đáng nói ở đây là việc thành lập khu vực mậu dịch tự do giưã ASEAN và Trung Quốc là do đề xuất của phía Trung Quốc. Nó đã đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam á. Theo đánh giá của các chuyên gia đây là một động thái rất thông minh của Trung Quốc và các nước ASEAN đã hành động đúng khi chấp nhận đề nghị này. Nó đã góp phần cải thiện mối quan hệ của Trung Quốc với các nước ASEAN, từ đây ASEAN sẽ là một người bạn của Trung Quốc. Đứng tại vị trí cuả Việt Nam đánh giá ta thấy Việt Nam cũng như nhiều nước ASEAN khác đều có lợi về kinh tế khi hiệp định này được kí kết. Hơn thế nữa Việt Nam lại là cầu nối cho hoạt động thông thương giữa Trung Quốc với các nước ASEAN nên nguồn lợi thu được từ Hiệp định này của Việt Nam là rất đáng kể Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5 tại Brunây (6/11/2001) Trung Quốc và ASEAN đã nhất trí thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc. Tới ngày 4/11/2002, tại PhnomPenh, các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã chính thức thông qua Hiệp định khung hợp tác kinh tế toàn diện giữa Trung Quốc và ASEAN, dự tính đến 2010 sẽ xây dựng khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN (CAFTA) và xác nhận 5 lĩnh vực ưu tiên hợp tác, trong đó có nông nghiệp, thông tin, khai thác nguồn tài nguyên nhân lực, đầu tư vào nhau và khai thác nguồn lợi từ lưu vực sông Mekong… Tới 29/11/2004, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc ở Viêng Chăn (Lào), các Bộ trưởng kinh tế ASEAN và Trung Quốc đã kí kết Hiệp định về thương mại hàng hóa, nó tạo ra bước tiến mới trong quan hệ kinh tế ASEAN –Trung Quốc. bước đầu hiện thực hóa Hiệp định khung về hợp tác toàn diện ASEAN –Trung Quốc. Hiệp định có hiệu lực từ 1/7/2005 1.4.2. Nội dung chính của Hiệp định Khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc là một khu mậu dịch tự do với thị trường tiêu thụ gần 2 tỷ dân, chiếm 40% nguồn dự trữ ngoại tệ toàn cầu và tổng GDP lên tới trên 2000 tỷ USD (chiếm 10% GDP thế giới). Đây cũng là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, nó nằm trên vòng cung châu á-Thái Bình Dương. Việc thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc cũng thúc đẩy sự thành lập khu mậu dịch tương tự giữa ASEAN và Nhật Bản, Hàn Quốc.Và chúng ta có thể hi vọng trong tương lai về sự hợp nhất thị trường châu á, một thị trường mậu dịch phi thuế quan hay tiến xa hơn là nó có thể đi theo con đường của liên minh Châu âu. Hiệp định gồm 3 phần (không kể phần mở đầu). Phần I gồm 4 điều về ACFTA bao gồm các lĩnh vực hợp tác trong thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và điểm mấu chốt của nó là chương trình thu hoạch sớm (Early Havert Program): Trung Quốc sẽ tiến hành giảm thuế ngay từ đầu năm 2004 những mặt hàng nông phẩm mà đa số các nước ASEAN quan tâm, và đặc biệt chiếu cố những nước thành viên mới (Việt Nam , Lào, Myanmar, Campuchia) :Trung quốc dành những ưu đãi cho cả những nước chưa gia nhập WTO cho các nước này được hưởng quy chế tối huệ quốc, trì hoãn thực hiện nghĩa vụ với các thành viên mới trong khi họ vẫn được hưởng quyền lợi Trung Quốc tiến hành cắt giảm thuế phân chia theo loại mặt hàng. Loại thông thường (normal track): Trung Quốc và các nước thành viên cũ bắt đầu giảm thuế từ tháng 1/2005 và bãi bỏ hoàn toàn thuế quan vào năm 2010. Các nước thành viên mới thì mục tiêu bỏ hoàn toàn thuế quan vào năm 2015 Loại nhạy cảm chưa được bàn bạc Nhưng theo chương trình thu hoạch sớm Trung Quốc sẽ tiến hành cắt giảm thuế đối với các thành viên cũ của ASEAN bắt đầu từ 2004-2006 và từ 2004-2008 với Việt Nam( Lào, Myanmar là hết 2009, Campuchia là hết 2010) Căn cứ vào mức thuế 1/7/2003, các mặt hàng nông phẩm thuộc chương trình thu hoạch sớm được chia làm 3 loại (từ chương I đến chương VIII của biểu thuế HS) Loại I: có mức thuế hiện hành trên 15%và được giảm xuống 10% vào năm 2004, 5% vào năm 2005 và 0% vào năm 2006 Loại II: Mức thuế hiện hành là dưới 15% giảm còn 5% vào 2004 và bãI bỏ hoàn toàn vào 2005 Loại III: Mức thuế hiện hành là dưới 5% được bãi bỏ hoàn toàn vào năm 2004 Đối với Việt Nam là một trong những thành viên mới sẽ được hưởng ưu đãi hơn so với các nước thành viên cũ nhằm giảm tình trạng phát triển không đồng đều trong nội bộ ASEAN Loại I: có mức thuế quan trên 30% sẽ được giảm xuống còn 20% năm 2004 và giảm dần đến 0% vào 2008 Loại II: mức thuế hiện hành từ 15%-30% giảm còn 10% vào năm 2004 và giảm dần đến 0% vào năm 2008 Loại III: có mức thuế suất hiện hành dưới 15% được giảm xuống còn 5% vào 2004 và 0% vào 2008 Cụ thể, Trung Quốc sẽ tiến hành cắt giảm dần 206 dòng thuế nhập khẩu từ Việt Nam xuống thuế suất 0% vào năm 2006, bắt đầu thực hiện vào 2004. Về phía Việt Nam cũng sẽ cắt giảm dần 88 dòng thuế nhập khẩu từ Trung Quốc xuống còn 0% vào 2008 Bảng 1: Lịch trình cắt giảm thuế quan của CAFTA Năm 1/7/2003 Tỷ lệ thuế quan Tỷ lệ thuế quan tối Danh mục thuế Các nước tham gia Toàn bộ Trung Quốc và 10 huệ quốc WTO 1/10/2003 nước ASEAN Thuế quan hàng rau quả Rau quả của Trung Quốc Trung của Trung Quốc và Thái và Thái Lan Quốc, Thái Lan Lan giảm xuống 0% 2004 Thuế quan hàng nông Hàng nông sản Trung Quốc và 10 1/2005 sản bắt đầu giảm nước ASEAN Bắt đầu giảm bớt thuế Toàn bộ Trung Quốc và 10 quan với tất cả các nước nước ASEAN thành viên 2006 2010 Thuế quan hàng nông Hàng nông sản Trung Quốc và 10 sản là 0% nước ASEAN Thuế quan giảm xuống Toàn bộ trừ những sản Trung Quốc và 10 0% 2015 phẩm nhạy cảm nước ASEAN Thuế quan giảm xuống Toàn bộ trừ những sản ASEAN 4 0% phẩm nhạy cảm Nguồn: Trang wed của ban thư kí ASEAN, 2003 Tuy nhiên trong nội bộ khối ASEAN cũng có nhiều bất hòa xung quanh thực hiện lộ trình cắt giảm thuế với các mặt hàng từ Trung Quốc. Một số nước đã dành những ưu đãi riêng cho Trung Quốc hơn cả đối với các nước ASEAN. Phía Việt Nam cũng đã thành lập tổ công tác liên bộ về Khu vực thương mại dịch vụ tự do ASEAN-Trung Quốc nhằm đáp ứng yêu cầu làm đầu mối điều phối và tổ chức đàm phán với các bên đối tác về nội dung hợp tác kinh tế trong khuôn khổ hiệp định. Chính phủ cũng đã ban hành nghị định 99/2004/NĐ-CP ngày 25/2/2004 về việc ban hành danh mục hàng hóa và thuế suất xuất nhập khẩu của Việt Nam cho các năm 2004-2008 để thực hiện theo chương trình thu hoạch sớm Sau khi hiệp định khung được kí kết các nước ASEAN và Trung Quốc sẽ tiếp tục đàm phán những vấn đề liên quan đến +Lộ trình cắt giảm thuế với các mặt hàng thuộc danh mục SEL và NT +Thời gian hoàn thành đàm phán về quy tắc xuất xứ hàng hóa +Xử lý thuế ngoài hạn ngạch +Sửa đổi cam kết +Các biện pháp phi thuế quan về hạn chế nhập khẩu +Các biện pháp tự vệ dưa trên nguyên tắc của WTO +Nguyên tắc trợ cấp xuất khẩu, các biên pháp đối kháng và các biện pháp chống bán phá giá +Các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Nhìn chung các nguyên tắc thỏa thuận đàm phán đều phù hợp với những quy định chung của WTO và ASEAN về thương mại dịch vụ, đầu tư Căn cứ chính để thực hiện những ưu đãi thuế quan về hàng hóa trong CAFTA là quy tắc xuất xứ hàng hóa. ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí xây dựng quy tắc xuất xứ hàng hóa và việc này đã được kết thúc vào cuối năm 2003 Ngoài chương trình thu hoạch sớm trong hiệp định còn đề cập đến những vấn đề  Thúc đẩy tự do hóa dịch vụ: Mở rộng phạm vi tự do hóa theo GATTS và tăng cường hợp tác trên kĩnh vực dịch vụ( trên 7 lĩnh vực chính mà ASEAN đang thực hiện)  Thỏa thuận hiệp định khung về đầu tư nhằm tự do hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư giữa hai bên  Quy định các lĩnh vực và biện pháp hợp tác khác: Hợp tác công nghiệp, công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực và thúc đẩy hợp tác Tiểu vùng sông Mekong mở rộng… Chương II . Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN + Trung Quốc 2.1. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1950, kí Hiệp định thương mại từ 1991. Từ đó đến nay quan hệ của hai nước đã có nhiều bước phát triển mới trên mọi lĩnh vực đặc biệt trong lĩnh vực thưưong mại. Trước hết ta sẽ xem xét đánh giá một cách tổng thể về tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc từ năm 2000-2005 Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc từ 2000-2005 Đơn vị: Triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Kim ngạch XK 929 1418 1703.4 1747.6 2735 2961 Kim ngạch NK 1537 1606 2158.8 3119 4456 5778 CCTM -608 -188 -455.4 -1371.4 -1721 -2817 Nguồn: Hải quan Trung Quốc Theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc liên tục tăng qua các năm, nó được đánh dấu bắt đầu từ khi Việt Nam và Trung Quốc kí Hiệp định thương mại song phương (1991). Tuy vậy, cán cân thương mại của Việt Nam với Trung Quốc luôn ở trong tình trạng thâm hụt, Việt Nam luôn nhập siêu các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ phía Trung Quốc. Các sản phẩm việt Nam xuất sang Trung Quốc phần lớn là các sản phẩm nông sản, khoáng sản,…chưa qua chế biến và nhập khẩu từ Trung Quốc các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao giá trị lớn như các sản phẩm máy chế tạo, xăng dầu các loại, ô tô, xe máy nguyên chiếc các loại, linh kiện phụ tùng ô tô, xe máy, phân bón, thuốc trừ sâu…với giá trị lớn hơn rất nhiều lần trị giá xuất khẩu của ta sang Trung Quốc B¶ng 2.1: BiÕn ®éng kim ng¹ ch xuÊt khÈu cña ViÖt Nam vµo Trung Quèc tõ 2000-2005 3500 Kim ng¹ ch (triÖu USD) 3000 2500 2000 1500 1000 500 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 B¶ng 2.2:C¸ n c©n th- ¬ng m¹ i cña ViÖt Nam vµ Trung Quèc tõ n¨ m 2000-2005 0 -500 2000 2001 2002 2003 2004 2005 -1000 -1500 -2000 -2500 -3000 Nhìn vào đồ thị trên ta thấy được giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc liên tục tăng qua các năm và đặc biệt tăng mạnh trong những năm gần đây (2004-2005), là những năm EHP bắt đầu có hiệu lực. Nhưng theo đó cán cân thương mại cũng thâm hụt nhiều hơn, ta nhập nhiều sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc do phía ta cũng bắt đầu giảm thuế theo lộ trình của Hiệp định. Chỉ có năm 2001 là kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng so với 2000 nhưng CCTM thâm hụt lại ít hơn so với các năm trước và thấp nhất trong thời kì 2000-2005. Điều này có được là do trong năm 2001, năm Trung Quốc gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu rau quả và một số sản phẩm khác của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc tăng đột biến do nhu cầu của Trung Quốc tăng và cũng do Trung Quốc đã nới lỏng rào cản thương mại đối với hàng hoá nhập khẩu vào theo quy định của WTO 2.1.1. Trước khi Hiệp định có hiệu lực Hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trước năm 2004 diễn ra khá sôi động, Trung Quốc là một trong những thị trường nhập khẩu nông sản chủ yếu của Việt Nam. Bảng 3: Các mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc từ 2000-2003 Đơn vị: triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 Hạt điều 53,3 58,6 62,4 65,1 Cao su 66,4 62,2 82 147 Rau quả 120,351 142,8 121,529 67,068 Lúa gạo 0,5 0,54 1,68 0,297 Cà phê 3,061 2,243 3,92 7 Hạt tiêu 11,56 8,4 3,24 0,7 0,3 0,84 0,6 0,77 Mặt hàng Chè Nguồn: Thống kê Hải quan Các mặt hàng nông sản chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn là các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như rau quả, hạt điều, cao su (chiếm tới 90% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc )
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan