I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam đang trong quá trình hoàn thành công nghiệp hóa - hiện đại
hoá đất nước, nhà nước đòi hỏi triển khai,thực hiện nhiều dự án đầu tư với
nguồn vốn huy động cả trong và ngoài nước, thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong đó, nguồn vốn huy động từ các ngân hàng thương mại (NHTM) là chủ
yếu và chiếm tỷ trọng lớn. NHTM là tổ chức gắn chặt với nền kinh tế thị
trường, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát
triển. Nguồn vốn cho vay theo dự án đầu tư của NHTM ngày càng phổ biến,
cơ bản và quan trọng đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Chính phủ.
NHTM đóng vai trò là trung tâm tiền tệ tín dụng của nền kinh tế, để phù
hợp với xu hướng đa dạng hoá các hoạt động của ngân hàng nhằm cung cấp
các nguồn vốn cho doanh nghiệp hoạt động, hệ thống NHTM Việt Nam đã
chủ động đẩy mạnh hoạt động tín dụng cho vay với mọi thành phần kinh tế
nếu đáp ứng thỏa mãn điều kiện cho vay của ngân hàng. Đây là hoạt động
đem lại thu nhập chính cho các NHTM. Trong quá trình cấp tín dụng, Ngân
hàng luôn phải đối mặt với nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có
thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau và các Ngân hàng không thể loại
trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể đề phòng, hạn chế nó. Chính vì vậy
trong quá trình kinh doanh của mình, việc phát sinh các khoản nợ xấu là
không thể tránh khỏi ở các NHTM. Vấn đề đặt ra là các ngân hàng sẽ ứng phó
với các khoản nợ xấu này ra sao, làm thế nào để có thể hạn chế tối đa các ảnh
hưởng của nợ xấu tới tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Trong quá trình nghiên cứu tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và
phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây , nhận thấy tầm quan trọng của công
tác quản lý nợ có vấn đề và xử lý hậu quả của khoản nợ đó gây ra, em quyết
định chọn đề tài: “Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư
và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây ” làm đề tài luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu:
1
Luận văn đi vào nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nợ xấu,
nguyên nhân gây ra nợ xấu và những ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động
ngân hàng cũng như toàn thể nền kinh tế. Từ đó có những biện pháp quản lý
và xử lý hiệu quả các khoản nợ xấu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Quy trình, chỉ tiêu liên quan đến công tác quản
lý và công tác xử lý các khoản nợ xấu trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng
thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác xử lý nợ xấu tại Chi nhánh Sơn Tây giai
đoạn từ 2012 - 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp áp dụng xuyên suốt luận văn là phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với phương
pháp tại bàn, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp tỷ
lệ, phương pháp phân tích tương tác các hệ số. Bên cạnh đó còn dựa vào các
số liệu thu thập được để tính toán các tỷ số, xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so
sánh nhằm làm rõ, giải quyết vấn đề cần nghiên cứu.
2
Thang Long University Libraty
CHƯƠNG I: NỢ XẤU VÀ PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của NHTM:
1.1.1.1. Khái niệm:
a. Ngân hàng thương mại:
Hiện nay, trên thế giới có khá nhiều khái niệm về ngân hàng thương mại
(NHTM). Ở Mỹ, ngân hàng thương mại được định nghĩa là công ty kinh
doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành
công nghiệp dịch vụ tài chính.
Tại Pháp, ngân hàng thương mại được định nghĩa là những xí nghiệp hay
cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới các
hình thức ký thác hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính.
Ở Việt Nam, ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền ký gửi từ khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
b.Tín dụng và tín dụng ngân hàng thương mại:
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế quen thuộc và từ lâu đã được
định nghĩa một cách khá hoàn chỉnh. Theo K.Max: “Tín dụng là quá trình
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng
để sau một thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị
ban đầu”. Như vậy, về bản chất tín dụng là quan hệ vay mượn trên cơ sở hoàn
trả cả gốc và lãi với các đặc trưng là: có thời hạn, có tính hoàn trả và quan hệ
tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay.
Tín dụng NHTM là hình thức phát triển cao của tín dụng. Tín dụng
NHTM là một giao dịch về tài sản (tiền tệ hoặc hiện vật) giữa bên cho vay
(NHTM) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó
3
bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Để có thể thiết lập
quan hệ tín dụng với ngân hàng, bên đi vay còn phải cam kết sử dụng vốn vay
đúng mục đích đã được thoả thuận và trong nhiều trường hợp phải có tài sản
đảm bảo cho khoản vay. Đây là những nguyên tắc quan trọng và cần thiết đối
với hoạt động tín dụng nói riêng và đối với sự tồn tại, phát triển của ngân
hàng nói chung.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, tín dụng NHTM được hiểu là
quan hệ cung ứng vốn của NHTM dành cho các cá nhân, doanh nghiệp và tổ
chức khác trong nền kinh tế thông qua các khoản cho vay và phải đảm bảo
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của tín dụng. Hoạt động tín dụng được thực
hiện trên nguyên tắc “đi vay để cho vay”, nghĩa là nguồn vốn mà ngân hàng
cho khách hàng vay dựa trên nguồn vốn huy động của cá nhân, tổ chức khác
là chủ yếu. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng là tính lợi nhuận và rủi ro cao.
Với khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế, tín
dụng ngân hàng đang phát triển ngày càng mạnh mẽ và trở thành một kênh
dẫn vốn vô cùng quan trọng trong hầu khắp các ngành, lĩnh vực kinh tế.
1.1.1.2. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại:
Trong sự phát triển kinh tế, tín dụng ngân hàng thương mại đóng một vai
trò vô cùng quan trọng.
a. Đối với nền kinh tế:
- Tín dụng NHTM là cầu nối giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế,
góp phần điều tiết các nguồn vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện phát triển
sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thường xuyên có một bộ phận vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi được tách ra khỏi quá trình tái sản xuất của các doanh nghiệp, các
khoản tiền để dành của dân cư khi chưa có nhu cầu sử dụng... Tất cả tạo thành
nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế mà những người sở hữu luôn muốn
4
Thang Long University Libraty
kiếm được lợi từ các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này. Trong khi đó có một
số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của
mình; một số cá nhân trong xã hội cần vốn để cải thiện sinh hoạt hoặc đối phó
với những rủi ro trong cuộc sống; Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt, Nhà nước
cần vốn để bù đắp sự thâm hụt đó đảm bảo cân đối thu chi cho nền kinh
tế…Như vậy, ta thấy trong xã hội luôn có một số người thừa vốn, cần đầu tư
và một số người thiếu vốn muốn đi vay. Song những người này khó có thể
trực tiếp gặp nhau, hoặc nếu muốn đáp ứng được nhu cầu của mình thì phải
bỏ ra chi phí rất cao và không kịp thời. Hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thương mại đã giúp thoả mãn nhu cầu của những người có vốn và những
người cần vốn, có nghĩa là các ngân hàng thương mại đứng ra làm trung gian
nhận tiền gửi từ tất cả các thành phần kinh tế và cho vay lại các đơn vị, cá
nhân trong nền kinh tế. Hay nói cách khác: "tín dụng ngân hàng là chiếc cầu
nối để những người có vốn và những người cần vốn gặp nhau"
Tín dụng nói chung và tín dụng NHTM nói riêng thực hiện vai trò kết
nối giữa tiết kiệm và đầu tư, khai thác các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội
đưa nhanh vào sản xuất kinh doanh. Thông qua việc tập trung và phân phối lại
vốn, tín dụng NHTM là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn to lớn của xã hội. Các
ngân hàng, tổ chức đặc biệt thực hiện việc kinh doanh tiền tệ, với lợi thế về
quy mô, uy tín và sự hoạt động chuyên nghiệp của mình, có thể dễ dàng huy
động các khoản tiền nhàn rỗi từ nhiều nguồn khác nhau trong nền kinh tế, do
đó cũng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu vốn, dù lớn hay nhỏ, của các cá
nhân và tổ chức. Tín dụng NHTM giúp các doanh nghiệp rút ngắn được thời
gian tích lũy vốn, nhanh chóng mở rộng đầu tư. Như vậy, tín dụng NHTM
đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tái sản xuất mở rộng và tạo điều
kiện tăng trưởng kinh tế.
- Tín dụng NHTM góp phần cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân.
Bằng những ưu tiên về lãi suất, thời hạn cho vay, mức cho vay đối với
từng ngành, từng vùng kinh tế, tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện cho các
5
ngành, các vùng này phát triển thuận lợi hơn. Ngược lại, những ngành, lĩnh
vực có khả năng phát triển tốt, hiệu quả kinh tế cao sẽ giúp các ngân hàng
giảm thiểu rủi ro khi cho vay, khả năng thu lời tốt, thu hút sự đầu tư, tài trợ
của hoạt động tín dụng ngân hàng. Tín dụng NHTM là công cụ tài trợ cho các
ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành và vùng kém phát triển trong chiến lược
phát triển kinh tế của đất nước, từ đó tạo điều kiện cho việc hình thành một cơ
cấu kinh tế hợp lý.
- Tín dụng NHTM cũng giúp cho Nhà nước quản lý và điều hành hữu
hiệu chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát thông qua việc kiểm soát lượng
tiền cung ứng.
Với chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, nhà nước có thể
thông qua hoạt động tín dụng NHTM để thực hiện các chính sách tiền tệ
nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế hay kiềm chế lạm phát trong từng thời kỳ.
Ngoài ra, với việc đưa ra các mức lãi suất chỉ đạo, tỷ lệ dự trữ bắt buộc…,
Chính phủ cũng định hướng, tác động tới nền kinh tế qua việc tác động tới các
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Như vậy, nhờ có hoạt động tín
dụng của NHTM mà nhà nước có thể sử dụng hữu hiệu, linh hoạt các công cụ
chính sách tiền tệ để điều tiết nền kinh tế.
- Ngoài ra, tín dụng NHTM còn góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao
đời sống dân cư và ổn định trật tự xã hội. Thông qua hoạt động cho vay tiêu
dùng, tín dụng NHTM đáp ứng nhu cầu nâng cao đời sống vật chất của dân
cư. Tín dụng NHTM cũng góp phần thực hiện các chương trình xã hội của
Nhà nước như cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay giải quyết việc làm,
v.v… giúp cải thiện đời sống người dân, giảm tỷ lệ thất nghiệp, từ đó ổn định
trật tự xã hội.
b. Đối với các ngân hàng thương mại:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu, mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân
hàng, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
6
Thang Long University Libraty
1.1.2. Khái niệm nợ xấu:
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề nợ xấu ngày càng được quan tâm và chú
trọng. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 về việc ban hành “Quy định về phân
loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng”; Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày
25/04/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐNHNN ngày 22/04/2005; Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21 tháng 01
năm 2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về phân
loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư số 14/2014/TT-NHNN ngày 20 tháng
5 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung
một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành
theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước. Gần đây nhất, tất cả các văn bản trên đã được hợp nhất
trong Quyết định số 22/VBHN – NHNN ngày 04/6/2014 của Ngân hàng nhà
nước Việt Nam ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng. Theo đó, việc xác định, phân loại nợ xấu của các tổ chức tín dụng
(TCTD) đã bước đầu theo sát với thông lệ quốc tế (phân loại căn cứ vào thực
trạng khách hàng chứ không chỉ căn cứ vào thời gian quá hạn của khoản cấp
tín dụng). Đồng thời, các TCTD có thể thực hiện xác định, phân loại các
khoản nợ thành 05 nhóm nợ dựa trên phương pháp phân loại nợ định lượng
hoặc định tính. Theo kết quả phân loại đó, quyết định số 22/VBHN – NHNN
của ngân hàng nhà nước ban hành ngày 04/6/2014 quy định “Nợ xấu là những
7
khoản nợ thuộc nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5
(nợ có khả năng mất vốn)”.
Như vậy, về cơ bản thì những khoản nợ được phân vào các nhóm nợ 3,
4 và 5 (bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn)
được coi là nợ xấu. Trên cơ sở kết quả phân loại nợ, TCTD chủ động thực
hiện hạch toán, trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. Tuy nhiên trên thực tế
các TCTD xem xét nợ xấu chủ yếu dựa trên các đánh giá về khả năng thu hồi
các món vay. Đối với các khoản nợ đã đến hạn nhưng chưa trả, người ta ít
quan tâm xem các món nợ đó đã quá hạn bao nhiêu ngày, mà xem xét khả
năng thu hồi nợ lúc này là bao nhiêu. Điều đó có nghĩa là một món vay cho dù
mới chỉ quá hạn một ngày nhưng ngân hàng thấy rõ và xác minh được khả
năng thua lỗ và có dấu hiệu của sự lừa đảo... thì món vay này cũng được coi
là nợ xấu.
1.1.3. Phân loại nợ:
Theo Quyết định số 22/VBHN – NHNN ngày 04/6/2014 của ngân
hàng nhà nước ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
thì Nợ xấu được xác định dựa trên cả yếu tố thời hạn nợ và khả năng thu hồi.
Tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay phổ biến thực hiện phân loại nợ
theo 5 nhóm như sau :
- Nhóm 1 ( Nợ đủ tiêu chuẩn), bao gồm :
Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng
thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Các khoản nợ quá thời hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá
là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ cả
gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản
2 điều này.
- Nhóm 2 ( Nợ cần chú ý ), bao gồm :
8
Thang Long University Libraty
Các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày;
Các khoản nợ điều chỉnh kì hạn trả nợ lần đầu ( đối với khách hàng là
doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng có đánh giá khách hàng và khả
năng về trả nợ đầy đủ gốc và lãi đúng kì hạn được điều chỉnh lần đầu);
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3
điều này;
- Nhóm 3 ( Nợ dưới tiêu chuẩn ), bao gồm :
Các khoản nợ quá thời hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kì hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b
khoản này;
Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 điều
này;
Nợ xấu thuộc nhóm này được xem là các khoản nợ cáo khả năng thu hồi
nợ cao nhất. Ngân hàng sẽ trích lập 1 tỷ lệ DPRR cho nợ xấu nhóm này là
20%dư nợ của nhóm.
- Nhóm 4 ( Nợ nghi ngờ) , bao gồm :
Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 điều
này.
Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi nợ thấp hơn
so với các khoản nợ của nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào nhưng khoản
nợ mà ngân hàng có sự nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỉ lệ trích lập DPRR cho nợ
xấu thuộc nhóm này là 50% tổng dư nợ của nhóm.
9
- Nhóm 5 ( Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm :
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần hai.
Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 điều
này.
Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi như bằng 0, do vậy tỉ lệ trích
lập DPRR tương ứng là 100% tổng dư nợ của nhóm.
Còn riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý thì được trích
lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
Theo quy định, nợ xấu là nợ được phân vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn),
nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).
1.1.4. Những tác động của nợ xấu:
Nợ xấu là một trong những vấn đề nan giải nhất hiện nay của các tổ chức
tín dụng, không những ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của chính các
ngân hàng, mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
1.1.4.1. Ảnh hưởng của nợ xấu tới hoạt động của ngân hàng:
- Làm giảm nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng:
Khi phát sinh một khoản nợ xấu, nguồn vốn của ngân hàng không được
thu hồi vốn một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng thời hạn. Số vốn đó bị đóng
băng một chỗ, không được đưa vào sử dụng, tiếp tục vòng quay tín dụng của
ngân hàng. Do đó, vòng quay vốn tín dụng giảm, tốc độ lưu chuyển vốn tín dụng
của ngân hàng giảm, nguồn vốn để tiếp tục cho vay của ngân hàng bị giảm.
Thậm chí, trong những trương hợp xấu, ngân hàng không thể thu hồi được các
khoản nợ xấu này dẫn đến mất vốn kinh doanh. Như vậy, nợ xấu ảnh hưởng cả
10
Thang Long University Libraty
đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của ngân hàng cũng như lượng vốn để
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng:
Đặc trưng cơ bản của ngân hàng là đi vay để cho vay. Vì vậy, nếu hoạt
động tín dụng gặp rủi ro dẫn đến nợ xấu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
thanh toán của ngân hàng. Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là
các khoản tiền huy động từ dân cư, do đó ngân hàng luôn phải thanh toán đầy
đủ, đúng hạn cho các khoản gốc và lãi huy động. Khi nợ xấu xảy ra, ngân
hàng không thể thu hồi được đầy đủ các khoản gốc và lãi cho vay đúng thời
hạn, do đó làm chênh lệch thời hạn của các khoản thu hồi gốc lãi với các
khoản phải thanh toán cho người gửi tiền. Nếu các khoản tiền chênh lệch này
quá lớn, thậm chí vượt quá mức dự trữ của ngân hàng, ngân hàng hoàn toàn
có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, điều này ảnh hưởng rất lớn
đến uy tín của ngân hàng.
- Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng:
Khi ngân hàng không thể thu hồi các khoản cho vay gốc và lãi đúng
hạn, doanh thu của ngân hàng giảm. Ngân hàng mất thêm các khoản chi phí
cho việc quản lý khoản nợ vay quá hạn, chi phí thu hồi khoản vay… Khi các
khoản vay trở lên xấu hơn, ngân hàng buộc phải trích lập các khoản dự
phòng, thậm chí trong những trường hợp xấu, ngân hàng có thể không thu hồi
được các khoản vốn và lãi cho vay, vì vậy chi phí cho hoạt động tín dụng của
ngân hàng càng tăng cao, làm giảm sút đáng kể đến lợi nhuận ngân hàng.
Trong khi không thu hồi được khoản vốn cho vay, ngân hàng vẫn buộc phải
trả lãi huy động cho các nguồn vốn tài trợ cho các khoản cho vay đó nên nếu
để tỷ lệ nợ xấu trong cơ cấu cho vay của ngân hàng quá lớn, ngân hàng sẽ
không có lợi nhuận hoặc bị lỗ vốn, thâm hụt vào vốn sở hữu của ngân hàng.
Như vậy, nợ xấu của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của ngân
hàng. Những ngân hàng kiểm soát nợ xấu tốt dẽ thu được tỷ lệ lợi nhuận cao,
11
những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao thường bị thua lỗ do chi phí trích lập dự
phòng lớn.
- Tỷ lệ nợ xấu cao làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng:
Một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao tức là mức độ rủi ro của các tài sản
có cao thì ngân hàng đó thường đứng trước nguy cơ đánh mất uy tín của mình
trên thị trường. Không một khách hàng nào muốn gửi tiền vào một ngân hàng
mà có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu vượt quá mức cho phép, có chất lượng tín
dụng không tốt và gây ra nhiều vụ thất thoát lớn. Thông tin về việc một ngân
hàng có mức độ rủi ro cao, khả năng thanh toán suy giảm thường được báo
chí đưa tin và lan truyền trong dân chúng rất nhanh, điều này sẽ khiến cho
việc huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn và ảnh hưởng dây
chuyền là tất yếu.
- Nợ xấu ảnh hưởng đến khả năng mở rộng thị trường, phát triển quy
mô và hội nhập quốc tế của ngân hàng:
Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng thể hiện hiệu quả của hoạt động tín dụng
ngân hàng. Nếu ngân hàng có nhiều nợ xấu cho thấy ngân hàng đang gặp khó
khăn trong hoạt động kinh doanh chính, khó có khả năng thu hồi các khoản
gốc và lãi cho vay. Tình trạng này kéo dài làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của
ngân hàng, nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng sẽ bị giảm sút, hình ảnh, uy
tín của ngân hàng không cao. Do vậy, ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc
huy động vốn kinh doanh, khả năng mở rộng thị trường của ngân hàng là rất
kém. Đặc biệt, trong tình hình hội nhập kinh tế như hiện nay, các ngân hàng
đứng trước thách thức cạnh tranh rất cao, đồng thời cũng có cơ hội phát triển
mạng lưới hoạt động ra ngoài phạm vi lãnh thổ. Tuy nhiên, với tỷ lệ nợ xấu
cao, vượt quá mức cho phép, ngân hàng rất khó trong việc chiếm được lòng
tin của các khách hàng cả trong và ngoài nước. Vì vậy, ngân hàng sẽ mất vị
thế trong cạnh tranh, đánh mất cơ hội tham gia thị trường tiền tệ quốc tế.
12
Thang Long University Libraty
1.1.4.2. Ảnh hưởng của nợ xấu tới nền kinh tế:
Ngoài việc tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
nợ xấu cũng ảnh hưởng khá lớn đến nền kinh tế.
- Nợ xấu làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các
TCTD, qua đó làm giảm vòng quay của vốn, giảm hiệu quả sử dụng vốn trong
nền kinh tế, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
- Các chi phí phát sinh do nợ xấu gây ra là rất lớn (bao gồm: chi trả lãi
tiền gửi, chi phí quản lý - xử lý nợ xấu và các chi phí khác liên quan). Những
chi phí này không mang lại bất kì lợi ích nào cho xã hội, làm giảm tổng lợi
ích xã hội. Mặt khác, các khoản chi phí này làm giảm thiểu đáng kể, thậm chí
gây lỗ cho các ngân hàng khi hạch toán kết quả kinh doanh dẫn đến nguồn thu
của ngân sách nhà nước bị suy giảm, ảnh hưởng đến các hoạt động đầu tư cơ
sở hạ tầng của nhà nước, các hoạt động mang mục đích cộng đồng, thực hiện
công bằng xã hội...
- Nợ xấu hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, hạn chế
khả năng kinh doanh của các TCTD, qua đó ảnh hưởng đến nguồn cung vốn
cho các doanh nghiệp, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bị đình trệ. Vốn bị ứ đọng tại những hoạt động kinh doanh kém hiệu
quả trong khi lại thiếu vốn đầu tư cho các kênh sản xuất khác hiệu quả hơn
của nền kinh tế.
1.1.5. Các nguyên nhân phát sinh nợ xấu:
1.1.5.1.Nguyên nhân chủ quan:
Các nguyên nhân chủ quan gây ra nợ xấu là các nguyên nhân xuất phát
từ chính các ngân hàng thương mại. Những nguyên nhân này hoàn toàn có thể
hạn chế nếu ngân hàng chặt chẽ hơn trong hoạt động quản lý kinh doanh của
mình. Các nguyên nhân này bao gồm:
- Mức độ chấp nhận rủi ro của từng ngân hàng trong từng thời kỳ:
13
Mỗi ngân hàng thường có quan điểm kinh doanh riêng, do đó mức độ
chấp nhận rủi ro của mỗi ngân hàng cũng khác nhau và đối với một ngân
hàng, trong từng thời kỳ thì mức độ này cũng khác nhau. Ban lãnh đạo của
một ngân hàng thường đề ra mức rủi ro tối đa có thể chấp nhận được trong
mỗi thời kỳ (gọi là khẩu vị rủi ro của ngân hàng). Do rủi ro chấp nhận càng
cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn, nên có một số ngân hàng chấp nhận cho
vay những dự án mạo hiểm để thu về lợi nhuận cao. Nếu ngân hàng thương
mại lựa chọn đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên nhất thì cơ chế quản lý sẽ khuyến
khích và tạo điều kiện để bộ phận có liên quan tìm kiếm, quyết định những
khoản cho vay, đầu tư có thu nhập kỳ vọng cao nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn;
đồng thời các quy định về kiểm tra, kiểm soát, đặc biệt là tiêu chuẩn để xem
xét, đánh giá khi quyết định cho vay cũng sẽ thấp hơn. Ngược lại, nếu quan
điểm kinh doanh của ngân hàng là lấy an toàn vốn làm mục tiêu chính thì các
quy định về điều kiện cho vay, cơ chế quản lý tài sản trong việc thẩm định,
xem xét trước khi ra quyết định cho vay, đầu tư sẽ chặt chẽ hơn, cụ thể hơn,
các tiêu chuẩn để phục vụ cho việc ra quyết định, việc kiểm tra, giám sát cũng
được đặt ở mức cao hơn. Các ngân hàng thương mại tùy thuộc vào khả năng
nguồn vốn kinh doanh, khả năng quản lý của mình mà lựa chọn khẩu vị rủi ro
phù hợp với tình hình kinh doanh trong từng thời kỳ. Nếu ngân hàng chọn
mức rủi ro quá cao, ngân hàng sẽ dễ bị rơi vào tình trạng nhiều nợ xấu. Nếu
ngân hàng chọn mức chấp nhận rủi ro thấp, ngân hàng sẽ ít bị nợ xấu hơn
nhưng tương ứng với việc an toàn này là tỷ suất sinh lời sẽ thấp. Vì vậy, ngân
hàng cần lựa chọn một mức độ chấp nhận rủi ro phù hợp nhất với ngân hàng
mình.
- Sự yếu kém trong hoạt động quản lý của ngân hàng.
Sự yếu kém trong hoạt động quản lý của ngân hàng thể hiện ở một số
nội dung như: chậm trễ trong việc ban hành, điều chỉnh các cơ chế, chính sách
của ngân hàng cho phù hợp với tình hình kinh doanh từng thời kỳ; chỉ đạo
14
Thang Long University Libraty
nghiệp vụ không sâu sát, kịp thời; không có các chính sách phòng ngừa rủi ro
hoặc có nhưng không hoàn thiện...
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận
nên luôn gắn liền với rủi ro. Để đạt lợi nhuận cao, các ngân hàng không
ngừng gia tăng dư nợ tín dụng trong khi chưa hoàn thiện được các chính sách
tín dụng hoặc chính sách tín dụng không phù hợp, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ
là nguyên nhân dẫn đến phát sinh nợ xấu. Nợ xấu có thể phát sinh từ tất cả
các khâu trong quá trình cấp tín dụng của NHTM bao gồm: giai đoạn thẩm
định hồ sơ trước khi cho vay, quyết định cho vay, giải ngân và giai đoạn quản
lý khoản vay của khách hàng.
Ở giai đoạn thẩm định hồ sơ trước khi cho vay, việc không chấp hành
nghiêm túc quy trình thẩm định tín dụng, thu thập hồ sơ dữ liệu của khoản
vay không chính xác, việc phân tích hồ sơ tín dụng, đánh giá khách hàng và
dự án vay vốn không kỹ, không tốt sẽ dẫn đến rủi ro trong hoạt động cho vay,
khả năng phát sinh nợ xấu trong tương lai cao hơn.
Khi quyết định cho vay: Dựa trên những kết quả thu được của quá trình
thẩm định hồ sơ của khách hàng, ngân hàng sẽ đưa ra quyết định cho khách
hàng vay hay không. Tuy nhiên, việc ra quyết định này cũng phụ thuộc khá
nhiều vào nhận định của người ra quyết định. Nếu việc đánh giá, nhận định
của người ra quyết định đúng thì rủi ro của khoản cho vay sẽ ít hơn, nếu việc
đánh giá này sai thì nguy cơ dẫn đến nợ xấu có thể cao hơn.
Trong giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vay sau khi giải
ngân: Sau khi thực hiện giải ngân cho khách hàng, nếu ngân hàng không tuân
thủ theo quy định tín dụng, buông lỏng việc kiểm soát, theo dõi về mục đích
sử dụng vốn vay của khách hàng, về việc kiểm tra tình hình sản xuất kinh
doanh, tình hình tài chính và tài sản bảo đảm của khách hàng thì sẽ dễ dẫn đến
khả năng phát sinh nợ xấu trong tương lai.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ thông tin của ngân hàng
chưa đáp ứng được yêu cầu:
15
Ngày nay trình độ công nghệ là yếu tố quan trọng trong tổ chức kinh
doanh ngân hàng, đặc biệt là đối với quản lý rủi ro tín dụng. Trình độ công
nghệ thông tin của ngân hàng càng cao càng giúp ngân hàng thu thập, lưu giữ
và cập nhật thông tin của khách hàng một cách nhanh chóng, kịp thời nhất.
Các phần mềm hỗ trợ đã trợ giúp cho ngân hàng sàng lọc những khách hàng,
ngành nghề đang có mức độ rủi ro cao để từ đó có định hướng lựa chọn các
nhóm đối tượng khách hàng phù hợp. Ở các nước phát triển, công nghệ ngân
hàng cũng rất phát triển, đặc biệt là trong điều kiện có sự hỗ trợ hết sức hiệu
quả của công nghệ thông tin như ngày nay. Công nghệ ngân hàng thể hiện ở
mức độ tập trung thông tin, ở khả năng phân tích, xử lý thông tin, từ đó rút
các kết luận, nhận định phục vụ cho quản trị ngân hàng như các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng, tình hình phân bổ tài sản, mức độ tập trung rủi ro....
Công nghệ của ngân hàng còn thể hiện khả năng chi phối, kiểm soát đối với
hoạt động của các bộ phận tác nghiệp. Ở mỗi trình độ công nghệ khác nhau
đều phải đòi hỏi một cơ chế quản lý khác nhau. Việc các cán bộ ngân hàng
được sử dụng công nghệ hiện đại giúp cho cán bộ có thể tiếp cận, nắm bắt các
thông tin đầy đủ kịp thời về các khách hàng, các khoản vay, nhờ đó hạn chế
được rủi ro trong quá trình cung cấp các khoản tín dụng cho khách hàng và
quản lý khoản vay của khách hàng.
- Trình độ chuyên môn của các cán bộ ngân hàng:
Trình độ chuyên môn và kinh nghiệm làm việc của các cán bộ ngân
hàng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đánh giá, lựa chọn khách hàng
cho vay. Cán bộ tín dụng phải tiếp xúc với nhiều khách hàng ở nhiều lĩnh vực
kinh doanh khác nhau. Để đánh giá tốt khách hàng, họ phải am hiểu về các
khách hàng, tình hình tài chính, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, đạo đức
lối sống của khách hàng. Cán bộ tín dụng phải có khả năng phân tích, dự báo
các vấn đề liên quan đến khách hàng vay. Như vậy, để thực hiện tốt công việc
của mình, các cán bộ tín dụng phải có khối kiến thức về kinh doanh, có khả
16
Thang Long University Libraty
năng thu thập, xử lý, tổng hợp thông tin, từ đó có thể đánh giá, nhận định xu
hướng phát triển của các lĩnh vực kinh doanh trogn nền kinh tế. Khi cán bộ tín
dụng thực hiện cho vay đối với một khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để
hiểu về lĩnh vực đầu tư của khách hàng, không thể đánh giá được khả năng
thành công của dự án, khả năng hoàn trả gốc lãi của khách hàng thì cán bộ tín
dụng đó không thể lường trước được các rủi ro tiềm ẩn của khoản tín dụng.
Sự hạn chế trong chuyên môn của cán bộ ngân hàng thường dẫn đến một số
thiếu sót trong quá trình thẩm định khách hàng như:
+ Không phân tích đầy đủ khả năng quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp. Đối với doanh nghiệp vai trò của người lãnh đạo rất quan trọng. Sự
thành bại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều
vào ý tưởng kinh doanh và các quyết định của người lãnh đạo doanh nghiệp.
Nếu cho vay doanh nghiệp mà không đánh giá đúng khả năng của người quản
lý sẽ dễ dẫn đến tổn thất.
+ Phân tích báo cáo tài chính không chính xác, đánh giá không đúng
hiệu quả của dự án đầu tư: Một số doanh nghiệp có tình hình kinh doanh
không tốt, dự án đầu tư không thực sự hiệu quả, nhưng vì đang cần vốn kinh
doanh nên các doanh nghiệp này đã vẽ ra những báo cáo tài chính đẹp, những
hiệu quả kinh tế cao, khả năng thành công cao của các dự án đầu tư. Nếu
không có khả năng phân tích tốt, kiến thức thẩm định dự án đầu tư và những
hiểu biết nhất định về các ngành nghề kinh doanh thì các cán bộ tín dụng hoàn
toàn có thể mắc sai lầm, dễ dàng đánh giá sai về khả năng tài chính của khách
hàng, đánh giá sai về hiệu quả của dự án đầu tư, từ đó đưa ra các quyết định
tín dụng sai, đẩy ngân hàng rơi vào tình trạng rủi ro tín dụng. Trong trường
hợp khả năng tài chính của khách hàng quá kém, dự án đầu tư không hiệu
quả, ngân hàng sẽ khó thu hồi vốn và lãi đầu tư, rơi vào tình trạng nợ xấu.
+ Việc xác định kỳ hạn trả nợ không chính xác: Dựa trên chu kỳ kinh
doanh của khách hàng và luồng tiền từ dự án đầu tư, ngân hàng và khách hàng
17
sẽ thỏa thuận các kỳ hạn trả nợ của khách hàng. Nếu trong quá trình thẩm
định dự án, nhân viên tín dụng xác định sai thời điểm về của các luồng tiền
hoặc sau khi giải ngân, ngân hàng không giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn
của khách hàng, để khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích dẫn
đến việc thực hiện dự án đầu tư không đúng theo kế hoạch ban đầu thì khách
hàng khó có thể hoàn trả gốc và lãi theo đúng kỳ hạn đã cam kết, ngân hàng
sẽ gặp phải rủi ro tín dụng đối với các khoản vay này.
- Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một nghề có nhiều sự cám dỗ. Với các khoản vay
càng nhiều rủi ro và không đảm bảo những điều kiện tín dụng đặt ra, khách
hàng vay thường bỏ ra những khoản “hoa hồng” rất lớn để có thể vay được
tiền. Điều này dẫn tới tình trạng một số cán bộ tín dụng cố ý làm sai quy trình
tín dụng, bỏ sót một vài bước trong quy trình hay giúp khách hàng vẽ hồ sơ
vay vốn cho hợp lệ để nhằm nhận được những khoản "hoa hồng" từ khách
hàng. Bởi vậy, những cán bộ tín dụng mà đạo đức nghề nghiệp không đảm
bảo, vì lợi ích cá nhân mà hi sinh lợi ích ngân hàng cũng sẽ dễ dẫn đến rủi ro
tín dụng cho ngân hàng.
- Cơ chế trích lập quỹ dự phòng rủi ro không hợp lý.
Nguồn dự phòng rủi ro được trích lập hàng năm của ngân hàng là một
nguồn quan trọng để bù đắp những mất mát khi không thu hồi được các khoản
nợ. Quỹ này được dùng để xử lý các khoản nợ xấu theo danh mục cụ thể khi
khoản nợ vay đó đáp ứng những điều kiện theo quy định của từng quốc gia.
Mỗi quốc gia có đặc thù riêng nên cơ chế trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro
của từng quốc gia cũng có sự khác biệt về nguồn trích lập, tỷ lệ trích lập và
danh mục trích lập dự phòng rủi ro.
Khi trích lập dự phòng rủi ro, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm đi, khả năng
cho vay của ngân hàng cũng sẽ bị giảm tương ứng, do vậy các ngân hàng thường
18
Thang Long University Libraty
trích lập quỹ dự phòng này ít hơn so với yêu cầu thực tế. Sự bất hợp lý trong
trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro của ngân hàng là một trong các nguyên
nhân làm cho nợ xấu không được xử lý dứt điểm khi xảy ra. Khối lượng nợ xấu
ngày càng chồng chất khiến tình hình tài chính của ngân hàng ngày càng xấu, đe
doạ hoạt động và làm suy giảm uy tín của ngân hàng. Nếu nợ xấu xảy ra quá
nhiều, ngân hàng sẽ khó có thể xử lý kịp thời khi không có nguồn dự phòng này,
gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán và thua lỗ lớn.
1.1.5.2. Nguyên nhân khách quan:
- Môi trường kinh tế vĩ mô không ốn định:
Hoạt động của ngân hàng và khách hàng đều chịu tác động của môi
trường kinh tế - xã hội. Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp cho các hoạt
động kinh doanh của khách hàng thuận lợi, do đó có thể hoàn trả các khoản
gốc và lãi vay đúng kỳ hạn cho ngân hàng. Ngược lại, chính sách kinh tế vĩ
mô không ổn định, hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn,
không như dự tính ban đầu. Mặt khác, ngân hàng cũng rất khó có thể phân
tích, dự báo chính xác hoạt động kinh doanh, tài chính của khách hàng trong
tương lai cũng như khó có thể lường trước được những rủi ro khách hàng phải
đối mặt, do vậy mà ngân hàng không thể đánh giá đúng khả năng trả năng trả
nợ của khách hàng trong tương lai, khi đó chất lượng tín dụng của ngân hàng
không đạt yêu cầu.
- Thông tin trên thị trường không chính xác, đầy đủ, minh bạch và rõ ràng:
Các thông tin kinh tế có vai trò rất quan trọng trong việc ra quyết định
kinh doanh của cả khách hàng và ngân hàng. Việc các thông tin trên thị
trường không chính xác, nhiều tin đồn thất thiêt làm lũng đoạn thị trường
khiến cho việc kinh doanh của khách hàng bị ảnh hưởng không nhỏ. Việc
thông tin không cân xứng, sai lệch và không kịp thời khiến cho các khách
hàng và ngân hàng đánh giá không đúng tình hình kinh doanh của doanh
19
nghiệp, hiệu quả của dự án đầu tư, đưa ra các quyết định không chính xác gây
tổn thất vốn, không hoàn trả các khoản vay đúng kỳ hạn đã định.
- Khách hàng gặp khó khăn trong kinh doanh, không có khả năng trả nợ
gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng:
Việc kinh doanh của các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng được
như dự tính ban đầu. Khi rủi ro xảy ra, doanh nghiệp bị thua lỗ, tình hình tài
chính kém đi nên không có khả năng thanh toán các khoản vay cho ngân hàng
đúng hạn. Đây là trường hợp mà cả ngân hàng và doanh nghiệp đều không
mong muốn xảy ra. Để hạn chế rủi ro này xảy ra, ngân hàng cần xem xét kỹ
tính khả thi của dự án, khả năng quản lý của khách hàng, đồng thời phải yêu
cầu tài sản bảo đảm và bảo hiểm tiền vay hợp lý, phòng ngừa khi xảy ra
trường hợp xấu nhất là doanh nghiệp bị phá sản, không có khả năng trả nợ.
- Khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng, chây ỳ trong việc thanh toán
nợ gốc và lãi vay:
Trong kinh doanh, không phải khách hàng nào cũng có thiện chỉ trả nợ
gốc và lãi sòng phẳng cho ngân hàng. Có những khách hàng chủ định lừa đảo
ngân hàng để chiếm dụng vốn kinh doanh, có những ngân hàng có khả năng
trả nợ nhưng lại cố tình chây ỳ không thanh toán các khoản nợ gốc, lãi khi
đến hạn. Những khách hàng này mặc dù chỉ là một số nhỏ nhưng lại có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và ảnh hưởng đến uy tín
của ngân hàng. Chính vì vậy, khi thẩm định hồ sơ tín dụng, cán bộ tín dụng
cần phải tìm hiểu kỹ, đánh giá chính xác về đạo đức kinh doanh của chủ
doanh nghiệp, cách hành xử của doanh nghiiệp với các bạn hàng trong việc
thanh toán tiền hàng và lịch sử vay vốn của khách hàng xem khách hàng có
uy tín hay không, có thiện chí hợp tác với ngân hàng hay không trước khi ra
quyết định tín dụng với khách hàng.
20
Thang Long University Libraty
- Xem thêm -