Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xử lí vi phạm hành chính đối với người chưa đủ tuổi thành niên...

Tài liệu Xử lí vi phạm hành chính đối với người chưa đủ tuổi thành niên

.DOC
38
239
120

Mô tả:

GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, các vụ án do người chưa thành niên phạm tội thực hiện diễn ra khá phổ biến, điều cần lưu ý là hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên đã ngày càng gia tăng lên về số lượng và có chiều hướng diễn biến ngày càng phức tạp. Và đây cũng như là một hồi chuông cảnh báo đối với toàn xã hội về loại đối tượng tội phạm này. Tuy nhiên việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người chưa thành niên họ còn yếu về nhận thức , hành vi phạm tội của họ thường mang tính bột phát do bị lôi kéo hoặc bị kích động, cho nên họ chưa có đủ khả năng làm chủ hành động của mình, hơn thế nữa họ còn cả một tương lai dài phía trước. Do đó, không thể áp dụng các biện pháp xử lý người chưa thành niên phạm tội giống như người đã thành niên. Hiện nay, trong hệ thống pháp luật nước ta đã có những quy định xử lý riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, những quy định này đã và đang đem lại lợi ích cho những người chưa thành niên phạm tội nhưng trong những năm gần đây số lượng người chưa thành niên vi phạm không có dấu hiệu giảm đi. Chính vì thế cần nghiên cứu, đánh giá chính xác hiệu quả của pháp luật trong việc xử lý vi phạm hành chính của người chưa thành niên để đề ra những quy định phù hợp vừa giúp nâng cao hiệu quả của pháp luật, vừa làm giảm được vi phạm của người chưa thành niên. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “ Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên” là vấn đề mang tính thời sự và cấp thiết. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu một số mục tiêu sau đây: - Nắm được và hiểu rõ được một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hành chính của người chưa thành niên. - Hiểu rõ một số quy định của pháp luật về việc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên phạm tội. - Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người chưa thành niên. - Nắm được thực trạng về việc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên phạm tội. - Giúp sinh viên có tài liệu để tìm hiểu lý luận và thực tiễn về việc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên. - Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về việc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên phạm tội. - Đề xuất những giải pháp làm giảm vi phạm của người chưa thành niên. 3. Ý nghĩa của nghiên cứu 1 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau - Nghiên cứu về vấn đề này để góp phần hoàn thiện một số vấn đề lý luận cơ bản về vi phạm hành chính của người chưa thành niên, từ đó tạo cơ sở cho việc nhận thức một cách đúng đắn về trách nhiệm hành chính của người chưa thành niên. Từ đó góp phần nâng cao trách nhiệm của người chưa thành niên , áp dụng vấn đề lý luận cơ bản này nhằm nâng cao tính khả thi và hiệu quả của pháp luật, góp phần bồi dưỡng nâng cao nhận thức của cán bộ thuộc các cơ quan chức năng, đặc biệt là nâng cao nhận thức của người chưa thành niên. Bên cạnh đó, còn góp phần nâng cao năng lực quản lý của nhà nước. - Kết quả của nghiên cứu có thể được sử dụng trong các đề tài nghiên cứu khoa học về các vấn đề có liên quan tới trách nhiệm hành chính của người chưa thành niên. - Nghiên cứu này cũng giúp một phần không nhỏ cho các cơ quan chức năng có cái nhìn chính xác, sâu sắc về động cơ dẫn đến hành vi vi phạm hành chính của người chưa thành niên từ đó đưa ra hướng giải quyết nhanh, hợp lý và có hiệu quả. 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Đề tài chủ yếu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến người chưa thành niên vi phạm pháp luật hành chính, những biện pháp xử lí vi phạm hành chính được áp dụng. Trên cơ sở đó giúp chúng ta có những phương hướng, giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tới mức thấp nhất số lượng người chưa thành niên vi phạm pháp luật tạo điều kiện cho người chưa thành niên phát triển nhân cách bình thường, cũng như nâng cao hiệu quả và hoàn thiện các quy định về pháp luật của công tác áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên. Xứ lí vi phạm hành chính người chưa thành niên là hoạt động cưỡng chế, áp dụng các biện pháp hạn chế những quyền và lợi ích nhất định với người chưa thành niên có hành vi trái pháp luật, là giai đoạn can thiệp của Nhà nước còn nhằm mục đích giáo dục, quản lý, phòng ngừa với người chưa thành niên đã có những biểu hiện sai lệch trong hành vi. Trong khuôn khổ của một bài báo cáo thực tập và có thời gian hạn chế ,cho nên không thể đi sâu vào nghiên cứu toàn bộ các văn bản, các quy định của pháp luật về vấn đề này. Nên đề tài lấy cơ sở pháp lý chủ yếu là Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. 5. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau như: - Phương pháp chứng minh - Phương pháp thống kê - Phương pháp tổng hợp, phân tích - Phương pháp so sánh điều tra xã hội học; bằng phương pháp đánh giá thực trạng nghiên cứu, khảo cứu các tài liệu có liên quan đến việc nghiên cứu. 2 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỞ TƯ PHÁP CÀ MAU 1.1 Giới thiệu về Sở Tư pháp 1.1.1 Lịch sử hình thành thành Sở Tư pháp Cà Mau Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 8 năm 1976, Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải thành lập Phòng Pháp chế trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh. Đến năm 1981 trên cơ sở thực hiện Nghị quyết số 143/CP ngày 22/11/1981 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp và Thông tư số 08/TT ngày 06/01/1982 của Bộ Tư pháp hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan Tư pháp địa phương. Ngày 23 tháng 9 năm 1982, UBND tỉnh Minh Hải ban hành Quyết định số 165/QĐ-UB thành lập Sở Tư pháp tỉnh Minh Hải và đến ngày 09/10/1982 ban hành Quyết định số 97/QĐ.UB chuyển Phòng pháp chế trực thuộc UBND tỉnh Minh Hải về Sở Tư pháp tỉnh Minh Hải quản lý và do Sở Tư pháp bố trí nhiệm vụ cụ thể; đồng thời chuyển 04 cán bộ, công nhân viên Phòng Pháp chế sang Sở Tư pháp tinh (gồm đồng chí Trương Phùng Ảnh (Huy Hoàng) Phó phòng Pháp chế; Nguyễn Văn Thường (Bảy Thường) Phó phòng Pháp chế’ đồng chí Nguyễn Tấn Mạnh, Cán bộ và đồng chí Phan Tấn Khoa, Nhân viên). Thời điểm này cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Minh Hải bao gồm Văn phòng và 06 phòng chuyên môn: -Văn phòng (Hành chính – Quản trị) -Phòng Nghiên cứu pháp luật -Phòng Tuyên truyền, giáo dục pháp luật -Phòng Tổ chức và Đào tạo -Phòng Quản lý Tòa án -Phòng Quản lý các Tổ chức tư pháp khác -Phòng Quản lý công tác chấp hành án. Sau 15 năm hoạt động và phát triển, ngày 06/11/1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã phê duyệt việc tách tỉnh Minh Hải ra làm hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu được thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 1997. Cũng trong thời gian đó, UBND lâm thời tỉnh Cà Mau ra Quyết định số 01/QĐ-UB ngày 01 tháng 01 năm 1997 về việc thành lập các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND lâm thời tỉnh Cà Mau. Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau cũng được thành lập từ đó và tổ chức, hoạt động phát triển cho đến nay. Hiện nay, thực hiện Quyết định số 13/2009/QĐ-UBND của UBND tỉnh quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau, gồm: Văn phòng, Thanh tra Sở, 06 Phòng chuyên môn và 3 đơn vị sự nghiệp (01 phòng và 02 Trung tâm) với 95 biên chế được giao: 3 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau -Văn phòng; -Thanh tra; -Phòng Xây dựng và Thi hành văn bản quy phạm pháp luật; -Phòng Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; -Phòng Phổ biến giáo dục pháp luật; -Phòng Hành chính Tư pháp; - Phòng Bổ trợ tư pháp; -Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính (chuyển từ Văn phòng UBND tỉnh từ ngày 01/7/2013); -Phòng Công chứng số 1; -Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và 8 Chi nhánh đặt tại 8 huyện; -Trung tâm Dịch vụ Bán đấu giá tài sản. Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau: Đồng chí Nguyễn Dũng, Tỉnh ủy viên (từ 1997 đến 2005); Đồng chí Nguyễn Tiến Hải, Tỉnh ủy viên, nguyễn Bí thư huyện ủy Cái Nước (từ 10/2005 – 2009); Đồng chí Nguyễn Thanh Reo, Tỉnh ủy viên (từ 27/7/2009 đến nay bổ nhiệm lại). Các Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau: Đặng Minh Quang (26/3/1997 – 2006); Nguyễn Sơn Ca (05/10/1999 – 20/7/2011); Võ Khắc Điệp (08/01/2002 - 01/3/2009); Nguyễn Thanh Reo (11/2006 – 2009); Phạm Chí Hải (27/7/2009 đến nay bổ nhiệm lại); Huỳnh Minh Hiệu (3/2010 – 7/2011); Lê Thị Nhung (26/9/2011 – 14/7/2014); Nguyễn Thanh Hải (03/4/2014 đến nay). 1.2 Vị trí, chức năng; nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp 1.2.1 Vị trí, chức năng Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bàn quy phạm pháp luật; Phổ biến giáo dục pháp luật; công chứng, chứng thực; Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; trọng tài thương mại; hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; trợ giúp pháp lý; giám định tư pháp; hòa giải cơ sở; bán đấu giá tài sản và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Sở Tư pháp có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND tỉnh; đồng thời, chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp… 1.2.2 Nhiệm vụ, quyền hạn: Trình UBND tỉnh các Dự thảo quyết định, Chỉ thị, và các văn bản khác thuộc phạm vị thẩm quyền của UBND tỉnh trong lịnh vực tư pháp; Dự thảo kế hoạch dài hạn, 5 năm, hàng năm và các đề án, dự án, chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước, cải cách tư pháp, xây 4 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp. Dự thảo quy hoạch phát triển nghề Luật sư, Công chứng, Bán đấu giá tài sản và các ngành tư pháp khác ở địa phương thuộc phạm vị quản lý nhà nước của Sở Tư pháp. Dự thảo văn bản pháp luật quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn chức danh đối với cấp Trưởng, cấp Phó các tổ chức thuộc Sở Tư pháp; Trưởng phòng, Phó Trưởng phóng Tư pháp thuộc UBND các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trình Chủ tịch UBND tỉnh Dự thảo Quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể các tổ chức thuộc Sở Tư pháp. Dự thảo Quyết định, Chỉ thị thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch UBND tỉnh về quản lý công tác tư pháp ở địa phương. Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án đã được cấp có thẩm quyền quyết định, phê duyệt thuộc phạm vi, thẩm quyền quản lý nhà nước về công tác tư pháp được giao. Phối hợp với Văn phòng UBND tỉnh trình UBND tỉnh phê duyệt, điều chình chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tình; lập dự kiến chương trình xây dựng Nghị quyết của HĐND tỉnh để UBND tỉnh trình HĐND theo quy định của pháp luật. Phối hợp soạn thảo các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của UBND tỉnh do các cơ quan chuyên môn khác của UBND tỉnh chủ trì soạn thảo. Thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật do HĐND và UBND tỉnh ban hành theo quy định của pháp luật. Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án, dự thảo văn bàn quy phạm pháp luật theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh và Bộ Tư pháp. Theo dõi tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về theo dõi thi hành pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý đối với cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, huyện, thị xã, thành phố. Tổng hợp, báo cáo tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương và kiến nghị các biện pháp giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thi hành văn bản quy phạm pháp luật với UBND tỉnh và Bộ Tư pháp. Giúp UBND tỉnh tự kiểm tra văn bàn do UBND tỉnh ban hành. Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND cấp huyện; hướng dẫn cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và kiểm tra văn bàn quy phạm pháp luật của HĐND và UBND xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật. Kiểm tra, đôn đốc thực hiện các biện pháp xử lý văn bản trái pháp luật theo quy định của pháp luật. Tổ chức thực hiện việc rà soát hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật đối với UBND cấp huyện, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tình. Tổ chức thực hiện các Chương trình, kế hoạch phố biến, giáo dục pháp luật ở địa phương sau khi được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt. làm Thường trực Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh. Xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật; biên soạn, phát hành các tài liệu phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tổ chức thông tin, tuyên truyền phố biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp. Hướng dẫn việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật ở cấp xã, ở các cơ quan, đơn vị khác theo quy 5 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau định của pháp luật. Chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan có liên quan giúp UBND tỉnh hướng dẫn việc xây dựng hương ước, quy ước của thôn, làng, bản; tổ dân phố, khóm và một số hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật. Hướng dẫn, kiểm tra công tác hòa giải cơ sở theo quy định của pháp luật, tổ chức bồi dưỡng và hướng dẫn Phòng tư pháp tổ chức bồi dưỡng về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, nâng cao nghiệp vụ hòa giải cho người làm công tác hòa giải. Tổ chức thực hiện quy hoạch, đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương sau khi được UBND tỉnh phê duyệt; tham mưu, đề xuất với UBND tỉnh thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển tổ chức hành nghề công chứng. Hướng dẫn, kiểm tra về tổ chức, hoạt động của các phòng công chứng và Văn phòng công chứng ở địa phương. Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ trình UBND tỉnh cho phép thành lập, thu hồi Quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng; cấp, thu hồi giấy đăng ký hoạt động của Văn Phòng công chứng. Tổ chức triển khai thực hiện Đề án thành lập, giải thể Phòng công chứng khi được UBND tỉnh phê duyệt. Đề nghị Bộ Trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm Công chứng viên. Hướng dẫn, kiểm tra bồi dưỡng nghiệp vụ cho cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và Công chức tư pháp – Hộ tịch thuộc UBND cấp xã về việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đối với Phòng Tư pháp cấp huyện và công chức chuyên môn thuộc UBND cấp xã. Xây dựng hệ thống tổ chức đăng ký và quản lý hộ tịch, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công tác hộ tịch. Trực tiếp giải quyết các việc về hộ tịch, con nuôi có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền quy định của pháp luật và chỉ đạo của UBND tỉnh. Thẩm định hồ sơ, trình UBND tỉnh giải quyết các việc về hộ tịch, nuôi con nuôi thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh theo quy định của pháp luật. Đề nghị UBND tỉnh quyết định thu hồi, hủy bỏ những giấy tờ hộ tịch do UBND cấp huyện cấp trái với quy định của pháp luật. Quản lý, sử dụng, lưu trữ các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của pháp luật; cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ số hộ tịch. Cấp phiếu lý lịch tư pháp, quản lý, lưu trữ hồ sơ lý lịch tư pháp theo quy định của pháp luật. Thụ lý, thẩm tra hồ sơ các việc về quốc tịch, trình UBND tỉnh xem xét, đế xuất hoặc giải quyết theo thẩm quyền; quản lý, lưu trữ các hồ sơ vế Quốc tịch. Thẩm định hồ sơ, trình UBND tỉnh cho phép thành lập, giải thể phê duyệt Điều lệ Đoàn Luật sư. Cấp, thu hồi giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, Trung tâm tư vấn pháp luật, giấy chứng nhận tư vấn viên pháp luật. Cung cấp thông tin về đăng ký hoạt động của Văn phòng Luật sư, Công ty luật cho cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật; yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư báo cáo về tình hình hoạt động khi cần thiết. Tổ chức thực hiện quy hoạch, đề án phát triển tổ chức hành nghề luật sư ở địa phương sau khi được UBND tỉnh phê duyệt; tham mưu đế xuất với UBND tỉnh thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển tổ chức hành nghề luật sư ở địa phương. Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng tư vấn pháp luật; hỗ trợ bối dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho 6 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau các tư vấn viên pháp luật theo quy định của pháp luật. Hướng dẫn, kiểm tra về tổ chức và hoạt động của Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư và Trung tâm tư vấn pháp luật theo thẩm quyền. Quản lý, hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của Trung tâm và Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; hoạt động tham gia trợ giúp pháp lý của các Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật theo quy định của pháp luật. Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho các đối tượng thực hiện trợ giúp pháp lý trong phạm vi địa phương. Cấp, thay đổi, thu hồi giấy đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý của Văn phòng luật sư, Công ty luật và Trung tâm tư vấn pháp luật. Quyết định công nhận, cấp và thu hồi thẻ Cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển tổ chức bán đấu giá ở địa phương sau khi được UBND tỉnh phê duyệt; tham mưu, đề xuất với UBND tỉnh thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển tổ chức bán đấu giá ở địa phương. Kiểm tra, thanh tra về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi địa phương theo quy định. Giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác giám định tư pháp, trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác pháp chế của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và doanh nghiệp nhà nước; tổ chức thực hiện hoặc phối hợp thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Tổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện phòng chống tham nhũng, lảng phí và xử lý hành vi vi phạm pháp luật theo quy định của pháp luật. Thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và công tác tư pháp theo quy định của pháp luật. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp. Thực hiện công tác thông tin, thống kê, tổng hợp, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ trong các lĩnh vực công tác được giao theo quy định của UBND tỉnh và của Bộ Tư pháp. Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các tổ chức trực thuộc Sở Tư pháp; quản lý biên chế, thực hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, đào tạo,bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật và phân cấp của UBND tỉnh. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật. Quản lý tài chính, tài sản theo quy định của pháp luật và phân cấp của UBND tỉnh. Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND tỉnh giao hoặc theo quy định của pháp luật. -Ngày 10/4/2015, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 06/2015/QĐ-UBND Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau theo Thông tư liên tích số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Theo đó: Sở Tư pháp có 8 phòng và 03 đơn vị sự nghiệp. 7 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau +Văn phòng Sở. +Thanh tra Sở. +Phòng Xây dựng và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. +Phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật. +Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật. +Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính. +Phòng Hành chính tư pháp. +Phòng Bổ trợ tư pháp. +Phòng Công chứng số 1 +Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản. +Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước. Khen thưởng: -Huân chương lao động hạng nhì: 01 cá nhân (Lê Ngọc Cơ). -Huân chương lao động hạng ba: 01 tập thể (Sở Tư pháp); 05 lượt cá nhân. -Huy chương kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng nhì: 01 cá nhân. -Bằng khen Thủ tướng Chính phủ: 01 tập thể (Sở Tư pháp) và 09 cá nhân. -Bằng khen của Hội đồng thi đua khen thưởng Trung ương: 01 cá nhân. -Cờ Thi đua xuất sắc: +Bộ Tư pháp: Năm 2007, 2008, 2010, 2012, 2014. +Tỉnh Cà Mau: Năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002; 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013; 2014 (Bằng khen). -Cờ thi đua tiên tiến: Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau năm 2003. -Huy chương Vì sự nghiệp tư pháp Việt Nam: +Năm 1997: 02 cá nhân. +Năm 2001: 03 cá nhân. +Năm 2003: 00 cá nhân. +Năm 2004: 00 cá nhân. -Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp tư pháp Việt Nam: +Năm 2005: 33 cá nhân. +Năm 2006: 11 cá nhân. +Năm 2007: 04 cá nhân. 8 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau +Năm 2008: 07 cá nhân. +Năm 2009: 21 cá nhân. +Năm 2010: 00 cá nhân. +Năm 2011: 32 cá nhân. +Năm 2012: 29 cá nhân. +Năm 2013: 22 cá nhân. +Năm 2014: 30 cá nhân. +Năm 2015: 06 cá nhân. -Chiến sĩ thi đua Ngành Tư pháp Việt Nam: +Năm 2000: 02 cá nhân (Nguyễn Dũng , Giám đốc Sở và Trần Trọng Hữu, Chánh án Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời) +Năm 2009: 01 cá nhân (Nguyễn Tiến Hải, Giám đốc Sở). +Năm 2011: 01 cá nhân (Nguyễn Thanh Reo, Giám đốc Sở). -Chiến sĩ thi đua tỉnh Cà Mau: +Năm 1999: 05 cá nhân. +Năm 2001: 06 cá nhân. +Năm 2003: 08 cá nhân. +Năm 2004: 02 cá nhân. +Năm 2005: 00 cá nhân. +Năm 2006: 01 cá nhân. +Năm 2007: 04 cá nhân. +Năm 2008: 04 cá nhân. +Năm 2009: 07 cá nhân. +Năm 2010: 06 cá nhân. +Năm 2011: 06 cá nhân. +Năm 2012: 04 cá nhân. +Năm 2013: 04 cá nhân. +Năm 2014: 00 cá nhân. 9 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN, XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 2.1 Quá trình hình thành các quy định pháp luật về xữ lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên Trải qua 40 năm kể từ khi những quy định đầu tiên về xử lý vi phạm hành chính ra đời, Pháp lệnh về xử lý VPHC đã và đang được xây dựng ngày càng hoàn thiện. Xong, những quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên chỉ thực sự ra đời năm 1977 với điều lệ xử phạt vi cảnh được ban hành kèm theo Nghị định số 143/NĐ-CP ngày 27/05/1977. Điều lệ xử phạt vi cảnh là văn bản đầu tiên quy định có hệ thống về xử phạt VPHC. Trước đó tại quyết định 217/QĐ-TTg ngày 18/2/1967 Thủ Tướng Chính phủ đã ra quyết định về tổ chức lại trường giáo dưỡng thiếu niên, trường phổ thông công nghiệp là tiền thân của trường giáo dưỡng ngày nay. Đối tượng của quyết định này là những người chưa thành niên có hành vi nguy hại cho xã hội và lưu manh chuyên nghiệp, tuy nhiên đây là những đối tượng pháp luật hình sự. Điều lệ xử phạt vi cảnh chỉ quy định về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giữ gìn trật tự an toàn xã hội do phạm vi rộng nên những quy định đối với người chưa thành niên vẫn chưa cụ thể. Sau đó ngày 30/11/1989 Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh xử phạt VPHC đánh dấu bước phát triển trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật về trách nhiệm hành chính. Lần đầu tiên trong pháp luật nước ta những vấn đề mang tính nguyên tắc về Xử phạt VPHC được thể hiện tập trung trong một văn bản, đặc biệt những quy định đối với người chưa thành niên củng được kế thừa và phát huy. Sau hơn 5 năm thi hành, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, Pháp lệnh 1989 không còn phù hợp với thực tiễn áp dụng. Ngày 6/7/1995 Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội đã ban hành Pháp lệnh xử lý VPHC thay thế có hiệu lực ngày 1/8/1995 điểm mới là ngoài biện pháp xử phạt còn qui định thêm những biện pháp xử lý hành chính khác đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp lý về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự. Cũng vì sự mở rộng này mà Pháp lệnh xử phạt hành chính được gọi là Pháp lệnh xử lỹ vi phạm hành chính. Các biện pháp xử lý hành chính khác bao gồm: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản phế hành chính. Tuy nhiên, nhìn chung các quy định cụ thể về biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên không nhiều. Tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý VPHC Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 ra đời được Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội thông qua ngày 2/7/2002 có hiệu lực ngày 1/10/2002 thay thế cho Pháp lệnh 1995. Pháp lệnh mới ra đời có ý nghĩa về thực tiễn và lí luận vì có những quy định đối với người chưa thành niên có nhiều điểm mới để phù hợp với đối tượng này. 10 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau Cũng như các lĩnh vực quan trọng khác trong đời sống xã hội pháp luật về xửu lí đối với “người chưa thành niên” vi phạm pháp luật hành chính cũng thể hiện rõ chính sách của Đảng, nhà nước thể hiện trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính do Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành năm 2002, được sửa đổi, bổ sung một số lần ở năm 2007, 2008.Nhìn chung, qua mỗi lần sửa đổi bổ sung hoặc thay thế, Pháp lệnh đã được hoàn thiện thêm một bước, góp phần đắc lực vào việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, trật tự quản lý nhà nước. Đối tượng điều chỉnh bao gồm mọi công dân trong đó có đối tượng là “người chưa thành niên”. Đối với các quy định về “người chưa thành niên” vi phạm cũng được quy định trên 2 lĩnh vực là xử phạt vi phạm và các biện pháp xử lý hành chính khác (bao gồm 4 biện pháp, trong đó “người chưa thành niên” bị áp dụng 3 biện pháp). Tuy nhiên, về kỹ thuật lập pháp, mặc dù chỉ có một vài điều quy định trong Pháp lệnh nhưng có bản thể hiện những nguyên tắc, chính sách của nhà nước ta. Cụ thể là các quy định những nguyên tắc điều kiện, nguyên tắc phân định về độ tuổi “người chưa thành niên” bị xử phạt, bị áp dụng các hình thức phạt. Đối với việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác trong pháp lệnh quy định cũng chỉ rất khái quát tại một số điều. Phải khẳng định rằng Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, phạm vi điều chỉnh tất cả các lĩnh vực quản lý của nhà nước có ý nghĩa quan trọng cả về thực tiễn và lý luận, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm hành chính, tăng cường tác dụng răn đe, giáo dục người vi phạm, thiết lập trật tự, kỷ cương trong đời sống xã hội. Điều quan trọng là rất nhiều nội dung liên quan đến quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp và Pháp lệnh chẳng hạn quyền tự do, quyền sở hữu tài sản. Do đó, Pháp lệnh do Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành là không phù hợp với xu hướng của Nhà nước pháp quyền, những vấn đề liên quan đến quyền cơ bản của công dân cũng như tổ chức quyền lực của cơ quan, người có thẩm quyền phải do Quốc hội quyết định với hình thức văn bản Luật. Để đáp ứng yêu cầu trước tình hình mới Quốc hội ban hành Luật xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm 2013. 2.2 Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên 2.2.1 Khái niệm Người chưa hành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. 11 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau Theo Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Quy định của Bộ luật Dân sự được coi là quy định “gốc” để các văn bản khác viện dẫn khi có quy định về người chưa thành niên. Ví dụ, Bộ luật lao động 2012 quy định: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”; Bộ luật hình sự quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phạm tội…”; hay pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính cũng thống nhất người chưa thành niên vi phạm hành chính là người dưới 18 tuổi. Khi đến tuổi thành niên thì cá nhân đã phát triển hoàn thiện cả về thể lực và trí lực, điều đó cho phép họ có thể tham gia vào hoạt động trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì thế pháp luật ghi nhận cho họ có đầy đủ và toàn diện các quyền và nghĩa vụ trên tất cả các lĩnh vực cũng như thừa nhận họ có đầy đủ khả năng bằng hành vi của mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ ấy. Ngược lại khi cá nhân chưa đến tuổi thành niên thì chỉ được hưởng một số quyền và nghĩa vụ nhất định. Tùy vào độ tuổi cụ thể, những quyền và nghĩa vụ mà người chưa thành niên được hưởng là khác nhau và pháp luật cũng chỉ thừa nhận họ có khả năng thực hiện những quyền và nghĩa vụ này, ngoài ra họ chưa phải gánh vác những nghĩa vụ và chưa được hưởng những quyền mà chưa được pháp luật ghi nhận. Vậy người chưa thành niên là người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, độ tuổi được pháp luật xác nhận có tư cách chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, cho đến dưới 18 tuổi. Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Chính vì vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. 2.2.2 Đặc điểm Dưới góc độ tâm lý học, con người phải trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, mà mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm tâm sinh lý riêng, đặc trưng cùng với tác dộng bên ngoài làm hình thành những hành vi ứng xử khác nhau. Giai đoạn chưa thành niên là giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng trong cả một quá trình hoàn thiện và phát triển ấy. Nghiên cứu người chưa thành niên qua các đặc điểm về tâm lí, sinh lí sẽ giúp lí giải được cơ sở khoa học của những quy định pháp luật nói chung và Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính nói riêng đối với đối tượng này.Sau đây là một vài đặc trưng về tâm sinh lý của người chưa thành niên. Người chưa thành niên gồm những người ở độ tuổi từ từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi. Cần phải nói rằng, “tuổi” chỉ có ý nghĩa là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của con người. Với người chưa thành niên, họ cần có thời gian để chuẩn bị về mọi mặt để có thể chuyển sang một giai đoạn mới: Giai đoạn trưởng thành ( để lớn lên về cơ thể, mở rộng quan hệ xã hội, tích lũy kiến thức, phương thức hoạt động…).Tuổi không quy định trực tiếp sự phát triển của nhân cách.Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của mỗi người,và tuổi cũng có thể đi chậm hơn hoặc đi nhanh hơn điều đó còn phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh xung quanh. Tuy nhiên người chưa thành niên cho dù có sống trong hoàn cảnh nào cũng có những đặc điểm chung, đặc trưng của lứa tuổi.Đó là đặc điểm của một giai đoạn mà chỉ cần cách gọi thôi cũng cho chúng ta thấy được tính phức tạp và tầm quan trọng của nó: “Thời kỳ quá độ” (Tức là chưa phải là người lớn mà cũng 12 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau không còn là trẻ con), “Tuổi khủng hoảng” (Cả về sinh lí lẫn tâm lí), “Tuổi khó bảo” (Các em ở độ tuổi này thì thường trở nên bướng bĩnh và khó bảo), “ Tuổi bất trị”… Thứ nhất, đặc điểm sinh lý Thời kỳ này, cơ thể phát triển mạnh mẽ nhưng không đông đều, biểu hiện bên ngoài là các em lớn lên rất nhanh. Tùy thuộc vào độ tuổi, ngay trong cùng một giai đoạn mà sự phát triển giữa các em nam và nữ là khác nhau, như cùng tring giai đoạn chưa thành niên nhưng ở độ tuổi 12-13, các em nữ phát triển hơn các em nam về hình dáng thì ở độ tuổi 14-15 thì cơ thể của các em nam lại phát triển hơn. Tuy nhiên ở cả các em nam và nữ đều có những đặc điểm chung về lứa tuổi. Sự phát triển của hệ xương mà chủ yếu là sự phát tiển của xương tay, xương chân rất nhanh nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển rất chậm. Do đó, cơ thế phát triển không cân đối sẽ khiến cho các em trở nên lóng ngóng, vụng về và hay làm đổ vỡ… Sự phát triển của hệ thống tim mạch không cân đối sẽ khiến cho các em dễ rơi vào tình trạng rối loạn tạm thời và có những biểu hiện như: mệt mỏi, chóng mặt, nhứt đầu. Những biểu hiện này diễn ra không lâu nhưng lại thường xuyên, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt hằng ngày cũng như tâm lý của người chưa thanh niên. Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh thường dẫn đến sự rôi loạn của hoạt động thần kinh làm cho các em dễ xúc động, hay dực tức hay nổi nóng.Do đó, các em hay có những phản ứng mạnh mẽ và gay gắt về những người xung quanh và về những việc mà các em cảm thấy không hài lòng. Hệ thần kinh chưa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh và kéo dài, dẫn đến có những cảm giác ức chế, uể oải, thờ ơ, lãnh đạm, tản mạn khiến cho các em đôi khi cư xử không đống với bản chất vốn có của mình, nghiêm trọng hơn là có những hành vi vi phạm đạo đức xã hội và đặc biệt hơn nữa là những hành vi vi phạm pháp luật. Một đặc điểm sinh lý nữa của người chưa thành niên đó là sự phát dục, đây là biểu hiện cho thấy rõ ràng nhất sự lớn lên của các em. Điều này lám xuất hiện ở các em những biểu hiện mới như có nhu cầu giao tiếp với bạn bè, đặc biệt là với bạn bè khác giới. Các em đã có sự trưởng thành hơn về cơ thể, thế nhưng nhận thức lại còn rất hạn chế. Chính vì sự phát triển của những đặc điểm về sinh lí đã ảnh hưởng đến những đặc điểm về tâm lí, từ đó đã quyết định những hành vi của người chưa thành niên. Thứ hai, đặc điểm tâm lí Song song với sự phát triển về sinh lí, ở người chưa thành niên lại bắt đầu hình thành sự “Tự ý thức” với các câu hỏi: mình như thế nào? Mình đang làm gì? Có những ai quan tâm đến mình?...Qúa trình này diễn ra dần dần, cùng với diễn biến tâm lí phức tạp, dễ xúc động, dễ bị kích động, chợt vui, chợt buồn, tình cảm bồng bột, hăng say, hoạt động thần kinh không cần bằng, quá trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức chế. Do đó, sẽ khiến cho các em khôn thể tự kiềm chế được bản thân khi gặp phải tình huống bất ngờ. Điều này sẽ dẫn đến các em sẽ gây ra những lỗi mà không đáng mắc phải, kể cả việc các em có hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, có thể tự ý thức về bản thân, các em cũng có thể nhận thấy sự thay đổi về sinh lí của mình và đôi khi các em có thái độ, tâm lí khó chịu với chính những thay đổi đó của chính mình. Các em biết được những việc nào thì được phép làm, những việc nào không 13 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau được làm nhưng vẫn làm theo cách của mình với những lý do rất riêng. Do đó, khi mắc lỗi, thay vì các em nhìn nhận thẳng vào vấn đề để sửa chữa và khắc phục thì các em lại cố che dấu đi, thể hiện ra cử chỉ điệu bộ ra bên ngoài một cách không tự nhiên, tỏ ra mạnh dạn, can đảm để cho người khác không chú ý đến mình; hay chỉ vì một hành động chế giễu, mỉa mai về hình thể, dáng vẻ đi lại bên ngoài thì cũng gây các em những phản ứng mạnh mẽ. Các em luôn muốn bộc lộ cá tính, tự khẳng định mình,muốn nhanh chống được trở thành người lớn và cố gắng để được đối xử với người lớn. Do đó, hay phóng đại năng lực của mình…Nhưng thực chất kết thúc giai đoạn chưa thành niên các em mới chỉ phát triển khá hoàn thiện về mặt sinh lí, còn quá trình nhận thức vẫn còn chưa đầy đủ. Nhận thức về xã hội, đạo đức, pháp luật…vẫn còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt là nhận thức và am hiểu về pháp luật. Đôi khi những nhận thức và quan điểm về pháp luật không được hình hàng hoặc có nhưng bị lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của các em. Mặc dù sống độc lập hơn và muốn tỏ ra mình là người lớn nhưng các em ở độ tuổi này vẫn cần có sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ, bởi những khó khăn, rắc rối về mặt tâm lí, sinh lí là không thể tránh khỏi. Cha mẹ phải là người hiểu rõ điều đó để quan tâm cho đúng mức, sao cho các em vẫn có thể phát huy được tính độc lập của mình những không thể tách rời sự quản lý chặc chẽ cần thiết của cha mẹ Thứ ba, đặc trưng về ý thức Người chưa thành niên ở lứa tuổi này còn non nớt về kiến thức xã hộ và ý thức pháp luật, những hiểu biết cũng như những nhận thức và quan niệm vè pháp luật của người chưa thành niên chưa được hoàn thiện hoặc hành vi lệch lạc theo cách chủ quan của họ. Nhận thức tính nghiêm ngặt của pháp luật trở nên lỏng lẻo, không mang tính chế ước đối với họ cho nên họ thường có thái độ thờ ơ, vô cảm đối với pháp luật. Sự nhận thức sai lệch tron pháp luật của người chưa thành niên là họ cho rằng những yêu cầu và những điều cấm kị chỉ chỉ được qui định trong luật và mang tính hình thức còn những hành động của họ chỉ căn cứ vào nhu cầu cuộc sống. Họ chỉ đinh ninh nghĩ rằng những hành vi của mình là hợp pháp là đúng để bảo vệ quyền lợi bản thân. Ở tuôi chưa thành niên những tiền đề cơ bản của một nhân cách hoàn chỉnh đang dần hình thành và là cơ sở để cho sự phát triển của các em đến tuổi trưởng thành.Vì vậy, sự biến đổi này đôi khi mang tính chất phá vỡ tận gốc những đặc điểm, những hứng thú và quan hệ đã có từ trước. Bên cạnh đó, ở lứa tuổi này các em rất tò mò, hiếu động có xu hướng tìm kiếm, khám phá những cái mới lạ, hay bắt chước nên rất dễ bị lôi cuốn vào các trò chơi vô bổ thậm chí những hậu quả lớn hơn nếu lí trí không đủ để làm nền tảng tinh thần cho các em. Người chưa thành niên là người bị hạn chế về tinh thần và thể chất, suy nghĩ của họ cũng còn rất nhiều hạn chế so với người đã thành niên. Sự suy nghĩ nông cạn dễ dẫn đến những hành động bốc đồng, thiếu chính chắn, dễ bị người khác rủ rê, xúi giục, kích động dẫn đến vi phạm pháp luật. Ở nước ta cũng như các nước khác, người chưa thành niên vi phạm pháp luật trở thành nổi nhức nhối cho gia đình và xã hội, làm cho các cấp chính quyền và chính phủ rất lo ngại. Tuổi chưa thành niên là tuổi đang hình thành “cái tôi”, là lứa tuổi biểu hiện ý thức cá tính của mình rất rõ nét. Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở tuổi thành niên là tính tích cực, mạnh mẽ của bản thân nhằm lĩnh hội các chuẩn mực nhất định, sự hăng hái sôi nổi nhiệt tình trong học tập, trong các hoạt động xã hội, trong việc xây dựng các mối quan hệ với người lớn và bạn bè nhằm xây dựng nhân cách cho bản thân. Tất cả các em 14 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau bước vào cuộc sống với tư cách là một thành viên có đủ giá trị và sự bình đẳng, mặt khác thì ở tuổi này các em cũng thích tò mò , ham hiểu biết. Ngoài những tác động tích cực trên thì do ảnh hưởng tâm sinh lí nên cũng có những hạn chế tiêu cực ảnh hưởng đến nhận thức, tình cảm và ý chí của các em như: tính hung bạo, e thẹn, dễ cáo giận. Ở tuổi chưa thành niên những tiền đề cơ bản của một nhan cách hoàn chỉnh đang được tạo thành và là cơ sở cho sự phát triển của các em đến tuổi trưởng thành. Vì vậy, sự biến đổi trong thời kì này là vô cùng quan trọng. Khi trở thành đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính thì những đặc điểm tâm sinh lí trên phải được xem xét để pháp luật có những quy định phù hợp, đảm bảo cho việc bảo vệ hiệu quả nhất quyền lợi của đối tượng “đặc biệt” này. 2.3 Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên. 2.3.1 Một số khái niệm cơ bản trong xữ lý vi phạm hành chính Thứ nhất, Vi phạm hành chính : Thuật ngữ vi phạm hành chính xuất hiện trong thời gian gần đây. Trước khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (VPHC) ban hành ngày 30/11/1989 thì người ta không gọi là VPHC mà gọi là vi cảnh. Từ sau ngày 30/11/1989 đến khi Pháp lệnh xử lý VPHC được ban hành ngày 6/7/1995 thì người ta gọi là VPHC. Trong pháp lệnh xử lý VPHC năm 1995 và như Pháp lệnh xử lý VPHC không đưa ra khái niệm VPHC mà chỉ đưa ra khái niệm xử lý VPHC, bao gồm: xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 đã có quy định cụ thể về khái niệm vi phạm hành chính như sau : - Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạp vi phạm hành chính. Thứ hai, Xử phạt vi phạm hành chính Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế hành chính cụ thể mang tính quyền lực nhà nước phát sinh khi có vi phạm hành chính; biểu hiện ở việc áp dụng các chế tài hành chính cho đối tượng vi phạm do các chủ thể có thẩm quyền nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật. Luật xử lý vi phạm hành chính được quy định cụ thể hơn tại khoản 2 Điều 2 như sau : Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Thứ ba, Biện pháp xử lý vi phạm hành chính Hai khái niệm này được quy định tại Khoản 3 và 4 Điều 2 của Luật xử lý vi phạm hành chính như sau : - Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 15 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy - Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau Biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính là biện pháp mang tính giáo dục được áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt vi phạm hành chính hoặc biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính, bao gồm biện pháp nhắc nhở và biện pháp quản lý tại gia đình. 2.3.2 Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính với người chưa thành niên. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên bao gồm nguyên tắc chung được quy định tại điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính được quy định như sau Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: - Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật; - Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật; - Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; - Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định. - Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. - Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó. - Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm; - Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính; - Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính bao gồm: - Cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu thuộc một trong các đối tượng quy định tại các điều 90, 92, 94 và 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính này; - Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật - Việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; - Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có 16 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính. Ngoài những nguyên tắc trên việc xử lý đối với người chưa thành niên còn được áp dụng các nguyên tắc sau đây: - Việc xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính chỉ được thực hiện trong trường hợp cần thiết nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong quá trình xem xét xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính phải bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng chỉ được áp dụng khi xét thấy không có biện pháp xử lý khác phù hợp hơn; - Việc xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính còn căn cứ vào khả năng nhận thức của người chưa thành niên về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, nguyên nhân và hoàn cảnh vi phạm để quyết định việc xử phạt hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính phù hợp; - Việc áp dụng hình thức xử phạt, quyết định mức xử phạt đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính phải nhẹ hơn so với người thành niên có cùng hành vi vi phạm hành chính. Trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì không áp dụng hình thức phạt tiền. Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính bị phạt tiền thì mức tiền phạt không quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với người thành niên; trường hợp không có tiền nộp phạt hoặc không có khả năng thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải thực hiện thay; - Trong quá trình xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính, bí mật riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng và bảo vệ; - Các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính phải được xem xét áp dụng khi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính không được coi là đã bị xử lý vi phạm hành chính." 2.3.3 Thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên - Người chưa thành niên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm. - Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử lý mà không tái phạm thì được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. 2..4 Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính người chưa thành niên Xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. 17 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau Người chưa thành niên khi vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một trong những hình thức xử phạt hành chính là phạt cảnh cáo và phạt tiền 2.4.1 Phạt cảnh cáo Điều 22 của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định : “Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”. Cảnh cáo là sự lên án mang tính quyền lực nhà nước, là hình thức xử phạt nhẹ nhất trong xử phạt vi phạm hành chính vì nó không có khả năng hạn chế các quyền và lợi ích về thể chất cũng như tài sản của người vi phạm. Nó chỉ tác động đến nhận thức của chủ thể giúp họ hiểu hành vi của mình là trái quy tắc xử sự chung đã được pháp luật quy định từ đó kiềm chế không tiếp tục thực hiện những hành vi vi phạm. Người chưa đủ 16 tuổi thực hiện vi phạm hành chính này có thể bị xử phạt cảnh cáo với điều kiện: họ thực hiện vi phạm không nghiêm trọng và có tình tiết giảm nhẹ. Điều này phù hợp với ý nghĩa của quy định là giáo dục nhiều hơn trừng phạt. Tuy nhiên, cảnh cáo thể hiện thái độ răn đe nghiêm khắc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Hình thức xử phạt hành chính cảnh cáo là hình thức xử phạt mang tính giáo dục đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính; đối tượng bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo không được coi là có án tích và không bị ghi vào lý lịch tư pháp. Tuy nhiên khi bị phạt cảnh cáo thì chủ thể cũng bị tổn thất nhất định về mặt tinh thần vì phải chịu sự lên án của nhà nước. Đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Điểm a Khoản 1 Điều 5 có quy định “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính”. Như vậy, những người ở độ tuổi này bị xử phạt cảnh cáo khi thoả mãn điều kiện thực hiện hành vi vi phạm do lỗi cố ý. Quy định này xuất phát từ quan điểm cho rằng với nhóm đối tượng này chỉ cần áp dụng những biện pháp nhằm giáo dục quản lý mà không cần phải áp dụng những biện pháp nhằm “trừng phạt”; Vì hành vi của chủ thể trong nhóm này là kết quả của sự thiếu quan tâm, của giáo dục không đầy đủ từ gia đình, nhà trường, xã hội, phản ánh sự bồng bột, tự phát thiếu hiểu biết của người chưa thành niên. Khi xem xét vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện và đứng trước lựa chọn phạt cảnh cáo hay phạt tiền thì cá nhân có thẩm quyền xử phạt có thể coi dấu hiệu chủ thể là người chưa thành niên như là một “tình tiết giảm nhẹ” để quyết định phạt cảnh cáo. Thẩm quyền xử phạt cảnh cáo được quy định được quy định tại Chương II phần thứ hai của Luật xử lý VPHC tuỳ thuộc vào mức độ vi phạm và lĩnh vực quản lý của các chủ thể có thẩm quyền. Thủ tục áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo là thủ tục đơn giản (chỉ ra quyết định xử phạt, không lập biên bản). 18 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau 2.4.2 Phạt tiền Phạt tiền là hình thức xử phạt hành chính được quy định tại Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 như sau: “1. Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 24 của Luật này. Đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc trung ương thì mức phạt tiền có thể cao hơn, nhưng tối đa không quá 02 lần mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi phạm trong các lĩnh vực giao thông đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh trật tự, an toàn xã hội. 2. Chính phủ quy định khung tiền phạt hoặc mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm hành chính cụ thể theo một trong các phương thức sau đây, nhưng khung tiền phạt cao nhất không vượt quá mức tiền phạt tối đa quy định tại Điều 24 của Luật này: a) Xác định số tiền phạt tối thiểu, tối đa; b) Xác định số lần, tỷ lệ phần trăm của giá trị, số lượng hàng hóa, tang vật vi phạm, đối tượng bị vi phạm hoặc doanh thu, số lợi thu được từ vi phạm hành chính. 3. Căn cứ vào hành vi, khung tiền phạt hoặc mức tiền phạt được quy định tại nghị định của Chính phủ và yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội đặc thù của địa phương, Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương quyết định khung tiền phạt hoặc mức tiền phạt cụ thể đối với hành vi vi phạm trong các lĩnh vực quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều này. 4. Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt.” Phạt tiền là hình thức xử phạt mang tính chất tài sản. Trong hình thức phạt tiền tính chất phạt thể hiện rất rõ. Đó chính là việc tước bỏ ở người có hành vi trái pháp luật một khoản tiền nhất định thuộc về sở hữu của họ. Theo quy định trên thì hình thức này quy định mức phạt tiền là từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức. Dựa vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Đối tượng chưa thành niên bị áp dụng hình phạt này là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính mà không thuộc những trường hợp bị xử phạt cảnh cáo. Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi là chủ thể của mọi vi phạm hành chính do họ thực hiện, cho nên khi thực hiện hành vi vi phạm nào theo quy định của pháp luật, hình thức phạt là phạt tiền thì người chưa thành niên sẽ bị áp dụng phạt tiền.Mức phạt tiền đối người chưa thành niên vi phạm không quá 1 phần 2 mức tiền phạt mà điều luật quy định. Luật này không áp dụng hình thức phạt tiền đối với người chưa thành niên chưa đủ 16 tuổi đây là điểm tiến bộ so với những pháp lệnh trước kia. Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi được coi là đã có khã năng nhận thức đầy đủ hơn về hành vi của mình, khi vi 19 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006 GVHD : ThS. Hồ Mai Huy Trường: Đại Học Bình Dương- Cà Mau phạm hành chính do họ gây ra không phải là những vi phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ. Trường hợp không có tiền nộp phạt hoặc không có khả năng thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải thực hiện thay, việc quy định như vậy buộc cha mẹ hoặc người giám hộ phải có trách nhiệm nhiều hơn với người chưa thành niên là con hoặc là người được mình giám hộ. Cha mẹ, người giám hộ khi phải nộp tiền phạt thay người chưa thành niên không có nghĩa là họ đã thực hiện một vi phạm pháp luật, cũng không có nghĩa họ bị quy kết có hành vi vi phạm pháp luật, họ chỉ thực hiện thay người chưa thành niên nghĩa vụ có tính chất tài sản. Đây thực chất là pháp luật đã xác định trách nhiệm của cha, mẹ hoặc người giám hộ với hành vi của con em mình hoặc người mình có trách nhiệm đại diện. Quy định về việc nộp phạt thay của Luật xử lý vi phạm hành chính cũng đã làm cho phạt tiền trở thành hình thức xử phạt có tình trừng phạt thực sự. Thẩm quyền ra quyết định hình thức phạt tiền được quy định tại chương II phần thứ hai của Luật xử lý VPHC. Thủ tục áp dụng hình thức phạt tiền là thủ tục đơn giản (trong trường hợp phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đối với tổ chức thì không lập biên bản), và thủ tục xử phạt có lập biên bản (trong trường hợp phạt tiền trên 250.000 đối với cá nhân, trên 500.000 đối với tổ chức). 2.4.3 Các hình phạt bổ sung Ngoài hai hình thức xử phạt chính được nêu trên thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm người chưa thành niên còn có thể bị áp dụng một trong những hình thức xử phạt bổ sung: “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề” hoặc “Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính”. Đây là những hình thức xử phạt bổ sung, vì vậy chúng không được áp dụng một cách độc lập mà luôn được áp dụng kèm theo với hình thức xử phạt chính. Điều 16 và 17 Luật xử lý VPHC 2012 quy định hai hình thức xử phạt bổ sung như sau : “Điều 16. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc không thời hạn được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Điều 17. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính 1. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là việc sung vào quỹ nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính. 2. Không tịch thu tang vật, phương tiện bị cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chiếm đoạt, sử dụng trái phép mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý, người sử dụng hợp pháp.” 20 SVTH: Phạm Diễm Trinh MSSV : 131401006
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan