Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xóa đói giảm nghèo ở tỉnh gia lai thực trạng và giải pháp...

Tài liệu Xóa đói giảm nghèo ở tỉnh gia lai thực trạng và giải pháp

.PDF
119
207
128

Mô tả:

LUẬN VĂN: Xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai: Thực trạng và giải pháp MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhân loại đó tiến dài trong lịch sử phỏt triển của mỡnh. Trong thời đại mới này, con người dường như không cũn cảm giỏc chớnh xác về khoảng cách không gian và thời gian nhờ có hệ thống thông tin nối mạng toàn cầu. Con người không chỉ đi du lịch khắp năm châu bốn biển bằng các phương tiện vận tải bỡnh thường mà có thể đi thăm các hành tinh khác nhờ tàu vũ trụ. Đặc biệt hơn con người không thể tin được rằng chính mỡnh lại cú thể sinh sản bằng một phương pháp mới - sinh sản vô tính. Trong rất nhiều sự thật mới mẻ ấy, thế giới vẫn phải đón chịu một sự thật cố hữu, một bất công, một nghịch lý trong cuộc sống, đó là đói nghèo. Đói nghèo vẫn đang tồn tại, bao vây cuộc sống của mỗi gia đỡnh, đe dọa con đường phát triển của mọi quốc gia, thách thức cả nhân loại. Thực tế hiện nay gần 1/3 dân số thế giới sống trong nghèo khổ, ở các nước đang phát triển, trong đó khoảng 800 triệu người không đủ ăn, và khoảng 500 triệu người thiếu ăn thường xuyên. Ở các nước phát triển cũng có hơn 100 triệu người đang sống dưới mức nghèo khổ và 5 triệu người không có nhà ở. Ngày nay giải quyết đói nghèo luôn là một vấn đề hàng đầu của mỗi quốc gia, bởi họ luôn hiểu được rằng: Một quốc gia nghèo đói là một quốc gia yếu kém, đói nghèo làm cho bất ổn trong nước và lệ thuộc vào nước ngoài, nguy hại hơn nữa đói nghèo có thể dẫn đến bờ vực thẳm của sự diệt vong một dân tộc. Ở Việt Nam sau gần 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa (XHCN), nền kinh tế nước ta đó đạt nhiều thành tựu to lớn, số dân cư giàu có và trung lưu ngày một gia tăng nhưng vẫn cũn một bộ phận khụng nhỏ dõn cư nghèo đói. Theo Báo cáo phát triển con người năm 2003 của Liên hợp quốc, Việt Nam đang xếp thứ 39 trong tổng số 94 nước đang phát triển về chỉ số nghèo tổng hợp (HPI), 109 trong số 175 nước về chỉ số phát triển con người (HDI) và thứ 89 trong số 144 nước về chỉ số phát triển thế giới (GDI). Cũng theo tiêu chuẩn quốc tế và số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), tỉ lệ đói nghèo của Việt Nam là khá cao: 70% năm 1990; 37,4% năm 1997; 32% năm 2000 và 28,9% năm 2002. Theo tiêu chuẩn của Việt Nam, nước ta năm 2000 vẫn cũn khoảng 2,8 triệu hộ nghốo, chiếm khoảng 17,2% dõn số. Đến cuối năm 2003 con số này giảm xuống cũn 1,86 triệu hộ. Theo đánh giá của các nhóm công tác chuyên gia Chính phủ cho thấy: Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn, hiện nay có 90% số người nghèo sinh sống ở nông thôn, 80% số người nghèo là nông dân và 64% số người nghèo của Việt Nam tập trung tại các vùng miền núi. Gia Lai là một tỉnh miền nỳi nghốo của Tõy Nguyờn. Gia Lai cú 82 xó của 15 huyện thị thuộc diện đặc biệt khó khăn (ĐBKK), phần lớn số hộ đói nghèo là nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Đói nghèo ở Gia Lai không chỉ đơn thuần dừng lại ở vấn đề kinh tế mà nó đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề văn hóa, dân tộc, tôn giáo, chính trị của Tỉnh. Nghiên cứu vấn đề đói nghèo ở Gia Lai trở nên vô cùng cần thiết, vỡ vậy tỏc giả đó chọn đề tài: "Xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai: Thực trạng và giải pháp" để làm luận văn tốt nghiệp của mỡnh. 2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu đề tài Nghèo đói là một hiện tượng rất phổ biến trong phạm vi cả thế giới, cho nên vấn đề này đó được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Cho đến nay ở Việt Nam đó cú nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu, nhiều luận văn tốt nghiệp đó đề cập đến vấn đề xóa đói giảm nghèo (XĐGN), trong đó có các công trỡnh như: Cỏc cụng trỡnh do Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội làm chủ biên có: - Đói nghèo ở Việt Nam (Hà Nội, 1993); - Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội, 1993); - Xóa đói giảm nghèo (Hà Nội, 1996); - Xóa đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế (Nxb Lao động, 1997). Về luận văn, luận án có các công trỡnh sau: - Luận án tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Hằng: Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, 1999; - Luận án tiến sĩ Kinh tế của Trần Thị Hằng: Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; - Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Bùi Thị Lý: Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. Cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu trờn đề cập đến vấn đề đói nghèo dưới các góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn nhưng chưa có công trỡnh nghiờn cứu nào đề cập đến vấn đề đói nghèo ở Gia Lai dưới góc độ kinh tế chính trị. Vỡ vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng với các công trỡnh nghiờn cứu đó cụng bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích Luận văn làm rừ thực trạng và nguyờn nhõn đói nghèo của tỉnh Gia Lai hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp chủ yếu góp phần XĐGN trên địa bàn tỉnh. Nhiệm vụ - Khái quát một số luận điểm về đói nghèo, tiêu chuẩn về đói nghèo của quốc tế và trong nước. - Tập trung phân tích thực trạng đói nghèo của tỉnh Gia Lai hiện nay và chỉ ra những nguyên nhân cơ bản gây nên đói nghèo của Tỉnh. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu cho việc giải quyết vấn đề XĐGN của tỉnh Gia Lai trong giai đoạn hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề XĐGN dưới góc độ kinh tế chính trị và tập trung nghiên cứu thực trạng tỡnh hỡnh đói nghèo của tỉnh Gia Lai trong giai đoạn từ 2001 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chớnh trị Mỏc - Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách về XĐGN của Đảng, Nhà nước và của Đảng bộ tỉnh Gia Lai để nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phương pháp luận khoa học kinh tế chính trị và kết hợp các phương pháp khác để nghiên cứu như điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh, tổng hợp, khái quát, hệ thống... 6. Những đóng góp của luận văn Phân tích, đánh giá thực trạng đói nghèo ở Gia Lai và đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần giải quyết vấn đề đói nghèo của Tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách XĐGN trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề XĐGN ở các địa bàn có đặc thù tương tự như Gia Lai, làm tư liệu giảng dạy và nghiên cứu môn kinh tế chính trị. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 1.1. QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO 1.1.1. Quỏ trỡnh nhận thức về đói nghèo 1.1.1.1. Bản chất của đói nghèo qua các thời kỳ lịch sử Đói nghốo là một thực trạng của quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế, xó hội, nú hiện hữu trong cuộc sống như một yếu tố lịch sử, có thể sinh ra, tồn tại, phát triển và cũng có thể mất đi ở mỗi con người, mỗi gia đỡnh, mỗi quốc gia hay mỗi xó hội. Thời kỳ cộng sản nguyên thủy, con người vừa được tách ra khỏi thế giới động vật đó tập hợp nhau lại để trở thành một tổ chức xó hội sơ khai. Tổ chức xó hội này chưa có giai cấp, chưa có áp bức bóc lột, mọi người sống với nhau rất hũa thuận, cựng làm cựng hưởng, không hề có sự chiếm đoạt của cải dư thừa thành của riêng, thành chiếm hữu tư nhân để sinh ra bóc lột, áp bức và vì thế cũng chưa xuất hiện khái niệm giàu nghèo trong cuộc sống của họ. Tuy nhiên cuộc sống săn bắt, hái lượm ấy, chỉ với một vài công cụ thô sơ như cái gậy, hũn đá thỡ cũn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiờn và thường xuyên xảy ra tỡnh trạng no quỏ khi cú nhiều thức ăn, đói quá khi thức ăn khan hiếm. Như vậy ý niệm về no đói đó xuất hiện trước ý niệm giàu nghốo trong xó hội cộng sản nguyờn thủy. Ở đây nghèo đói là hệ quả trực tiếp của lạc hậu, mông muội là điển hỡnh sự thống trị của tự nhiờn đối với con người. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ chỉ được coi như một thứ hàng hóa, một công cụ sản xuất biết nói có thể trao đổi trên thị trường. Trong chế độ phong kiến, người lao động tuy được tự do về thân thể nhưng cũng chỉ là kẻ đi cày thuê cuốc mướn cho địa chủ phong kiến để kiếm miếng cơm, manh áo qua ngày. Trong xó hội lỳc này hầu hết người lao động đều là người nghèo, đều là hệ quả áp bức xó hội của chế độ người bóc lột người. Chính vỡ thế mà sự giàu cú của cực này dựa trên sự bóc lột, sự bần cùng hóa của cực khác. Những chủ nô, địa chủ phong kiến càng giàu lên thỡ những người lao động càng nghèo đi. Trong chủ nghĩa tư bản, những người lao động, những công nhân làm thuê cho chủ tư bản cũng chính là những người đó bị cưỡng đoạt ruộng đất, mất hết tư liệu sản xuất phải chạy ra các đô thị, bổ sung vào đội quân thất nghiệp. Họ trở thành nạn nhân của tỡnh trạng búc lột giỏ trị thặng dư tuyệt đối và tương đối của chủ nghĩa tư bản. Thông qua máy móc, người công nhân bị bóc lột một cách tàn nhẫn, tinh vi hơn bao giờ hết. Kết quả là, chỉ trong một vài năm mà số lượng hàng hóa do chế độ tư bản làm ra "bằng tất cả các thế hệ trước cộng lại". Cũng theo C.Mỏc thỡ suy cho cựng, toàn bộ hàng húa của chủ nghĩa tư bản đều là do lao động thặng dư của công nhân mà có, bởi vỡ số tài sản của giai cấp tư sản nếu có trước đó cũng bị chi vào tiêu dùng cá nhân hết từ lâu rồi. Hậu quả của chế độ bóc lột tàn bạo này đó dẫn tới sự phõn húa sõu sắc hai cực: Tớch lũy sự giàu cú tột độ ở phía thiểu số, giai cấp tư sản. Tích lũy sự nghèo đói ở phía đa số, những người lao động. Hơn thế nữa, sự phân hóa giàu nghèo đó được đẩy lên thành sự phân hóa giai cấp. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng cao không thể dung hũa được. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thỡ nguồn gốc trực tiếp dẫn đến tỡnh trạng nghốo đói ở đây là phương thức phân phối phần giá trị thặng dư của xó hội cho giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là không công bằng, người lao động chỉ được hưởng một phần giá trị thặng dư vừa đủ để anh ta tiếp tục tái sản xuất, cũn bao nhiờu của cải đều thuộc về nhà tư bản, những người không lao động trực tiếp. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất của tỡnh trạng nghốo đói trong chủ nghĩa tư bản lại chính là ở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, ở chế độ áp bức bóc lột và tỡnh trạng nụ dịch con người. Do đó, chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu, chế độ bóc lột mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động khỏi cảnh nghèo đói lầm than, làm cho họ trở thành người lao động tự do và làm chủ, tiến tới một xó hội cụng bằng, văn minh, đạt được sự hài hũa giữa lợi ớch cỏ nhõn và xó hội. Như vậy nghèo đói trong chủ nghĩa tư bản chính là hậu quả của áp bức bóc lột và sự tăng trưởng kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Trong chủ nghĩa xã hội, khi mà nhân dân lao động đó xỏc lập được quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, quyền làm chủ xó hội, cơ sở của bóc lột đó bị xúa bỏ nhưng cũng không phải vỡ thế mà tự nhiờn nghốo đói sẽ biến mất, mọi người đều giàu có như nhau. Cuộc sống của mỗi thành viờn trong xó hội lỳc này, giàu hay nghốo sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chế độ phân phối công bằng và bỡnh đẳng của chủ nghĩa xó hội. Theo C.Mỏc thỡ cỏi quyền được phân phối và bỡnh đẳng trong chế độ phân phối của chủ nghĩa xó hội lại chớnh là cỏi quyền khụng ngang nhau đối với các lao động không ngang nhau và như thế không có nghĩa là trong xó hội sẽ cú cuộc sống ngang nhau, bỡnh đẳng với tất cả mọi thành viên: Quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đối với một lao động không ngang nhau. Nó không thừa nhận một sự phõn biệt giai cấp nào cả, vỡ bất cứ người nào cũng chỉ là một lao động như người khác; nhưng nó lại mặc nhiên thừa nhận sự không ngang nhau về năng khiếu cá nhân và do đó về năng lực lao động của những người lao động coi đó là những đặc quyền tự nhiên. Vậy theo nội dung của nó, đó là một thứ quyền không ngang nhau, cũng như bất cứ quyền nào [26, tr. 479]. Mặc dù, nguyên tắc trên đây được coi là một nguyên tắc công bằng, nhưng C.Mác cũng chỉ rừ, trong điều kiện của chủ nghĩa xó hội, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn cũn chứa trong nú sự chấp nhận một tỡnh trạng bất bỡnh đẳng nhất định giữa các thành viên trong xó hội. C.Mỏc viết: "Với một cụng việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiờu dựng của xó hội thỡ trờn thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia" [26, tr. 479]. Với cách giải thích hết sức khoa học như vậy cho ta thấy, trong chủ nghĩa xó hội vẫn tồn tại sự giàu - nghốo, bỡnh đẳng, công bằng chỉ là những khái niệm tương đối chứ không phải là tuyệt đối. Ở nước ta khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xó hội, thời kỳ kinh tế hiện vật bao cấp, tuy đó cú nhiều cố gắng trong việc thực hiện chớnh sỏch phõn phối cụng bằng bỡnh đẳng nhưng vẫn không thể thoỏt khỏi tỡnh trạng đói nghốo vỡ nền kinh tế lỳc đó là một nền kinh tế lạc hậu và chậm phát triển. Nguyên nhân đói nghèo trong thời kỳ này không phải chủ yếu là do lười lao động, tay nghề kém… (những nguyên nhân chủ quan thuộc về người lao động) mà chủ yếu là do cơ chế kỡm hóm sự phỏt triển của cỏ nhõn và xó hội (những nguyờn nhõn khỏch quan). Do đó, có thể nói, nghèo đói trong thời kỳ bao cấp luụn ở tỡnh trạng bựng nhựng khụng tỡm ra lối thoỏt. Nú là hậu quả của sự kỡm hóm, trúi buộc sức sản xuất xó hội và năng lực sản xuất của con người. Khi bước vào thời kỳ đổi mới, việc chuyển sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường đó mở ra những khả năng lớn để giải phóng sức sản xuất xó hội và cỏc năng lực sản xuất của từng cá nhân nhưng cũng chính vỡ thế mà đó có những mức độ chênh lệch khác nhau về nhiều mặt giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh. Kết quả là, sự phân hóa giàu nghèo đó xuất hiện và ngày càng gia tăng trong xó hội. Như vậy, đói nghèo trong nền kinh tế thị trường là đói nghèo trong tiến trỡnh của sự phát triển. Đúi nghốo là một phạm trự lịch sử, vậy thỡ đến khi nào và ở xó hội nào sẽ khụng cũn đói nghèo nữa? Trả lời câu hỏi này, chủ nghĩa Mác - Lênin đó dự báo rằng: Xó hội loài người sẽ cũn phải trải qua hai giai đoạn nữa: Xó hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Ở giai đoạn đầu (giai đoạn XHCN), lao động và phân phối được thực hiện theo nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo lao động", như trên đó phõn tớch thỡ ở giai đoạn này vẫn cũn đói nghèo. Trong giai đoạn thứ hai (giai đoạn cộng sản chủ nghĩa) khi mà trong xó hội của cải tuụn ra dào dạt như nước, lúc đó lao động của con người và phân phối của cải trong xó hội được phân phối theo nguyên tắc "làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu", thỡ đói nghốo sẽ khụng cũn trong xó hội ấy nữa. Tất nhiờn, nghèo đói ở đây chỉ được hiểu theo nghĩa vật chất, chứ không được hiểu theo nghĩa tinh thần: văn hóa, tôn giáo, đạo đức… 1.1.1.2. Những cỏch nhỡn nhận về đói nghèo Cựng với thời gian, quỏ trỡnh nhận thức về đói nghèo của con người ngày càng đa dạng và phong phú, mở rộng và đầy đủ hơn. Nhưng cũng phải khẳng định rằng, chưa có một sự thống nhất tuyệt đối trong quan niệm về đói nghốo, bởi vỡ bản thõn quan niệm này cũng đó thay đổi rất nhanh chóng trong suốt ba thập kỷ qua. Đầu những năm 70, đói nghèo chỉ được coi là sự đói nghèo về tiêu dùng, với tư tưởng cốt lừi và căn bản nhất để một người bị coi là nghèo đói đó là sự "thiếu hụt" so với mức sống nhất định. Mức thiếu hụt này được xác định theo các chuẩn mực xó hội và phụ thuộc vào khụng gian và thời gian. Tuy nhiờn, xó hội ngày càng phỏt triển, mức sống của con người ngày càng cao hơn, những nhu cầu cho cuộc sống ngày càng nhiều hơn và quan niệm về nghèo đói cũng được mở rộng ra rất nhiều. Các yếu tố như nguồn lực người nghèo, mối quan hệ xó hội, khả năng tham gia vào các hoạt động văn hóa, xó hội và khả năng bảo vệ, chống đỡ các rủi ro đó được đưa vào nội dung của khái niệm đói nghèo. Trong báo cáo phát triển con người năm 1997, Chương trỡnh phỏt triển Liờn hợp quốc (UNDP) đó đề cập đến khái niệm đói nghèo về năng lực, khác với quan niệm đói nghèo về thu nhập. Theo đó, đói nghèo được tính đến điều kiện khó khăn trong phát triển con người cơ bản. Trong báo cáo về tỡnh hỡnh thực hiện mục tiờu thiờn niờn kỷ của Liờn hợp quốc năm 2003 đó nhấn mạnh sự cần thiết đưa phương pháp tiếp cận đói nghèo trên cơ sở quyền lợi cơ bản của con người (bao gồm về kinh tế, văn hóa, xó hội chớnh trị và dõn sinh). Cho đến những năm 1970 Tiêu dùng Giữa những năm 1970 và Tiêu dùng những năm 1980, tiếp cận + dịch vụ xó hội theo nhu cầu thiết yếu + nguồn lực Từ những năm 1980, cách Tiờu dựng + dịch vụ xó tiếp cận theo năng lực và hội+ nguồn lực + tớnh cơ hội dễ bị tổn thương Tiờu dựng + dịch vụ xó hội Từ 1980 đến năm 2000 + nguồn lực+ tớnh dễ bị tổn thương + phẩm giá Bỏo cỏo về tỡnh trạng Tiờu dựng + dịch vụ xó hội + nguồn lực+ nghèo khổ trên thế giới, tớnh dễ bị tổn thương + phẩm giá + tự chủ Ngân hàng thế giới năm 2000 Sơ đồ 1.1: Sự phát triển của khái niệm nghèo khổ kể từ những năm 1970 Ở Việt Nam quan niệm nghèo đói cũng ngày càng được mở rộng. Nếu như những năm 90 nhu cầu hỗ trợ người nghèo chỉ giới hạn đến các nhu cầu tối thiểu như ăn no, mặc ấm, thỡ ngày nay người nghèo cũn cú nhu cầu hỗ trợ về nhà ở, giỏo dục, y tế, văn hóa… tức là nhu cầu giảm nghèo và phát triển. Điều này có nghĩa là, các chính sách phát triển kinh tế cần hướng về người nghèo. Tăng trưởng kinh tế là cần thiết, nhưng lợi ích từ tăng trưởng không tự động chuyển đến cho người nghèo. Người nghèo cần trở thành mục tiêu trong việc hoạch định các chính sách phát triển. Từ trước đến nay có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về nghèo của các học giả, các nhà khoa học, dưới những góc độ khác nhau. Chỉ tính riêng trong từ điển tiếng Việt năm 1994 đó cú 18 định nghĩa về nghèo và các từ đồng nghĩa với nghèo (Phụ lục 1). Cho đến nay, khái niệm nghèo đói được dùng nhiều nhất là khái niệm đó được đưa ra tại Hội nghị bàn về giảm nghèo đói do Ủy ban kinh tế và xó hội của Chõu Á - Thỏi Bỡnh Dương (ESCAP) tổ chức tháng 9-1993 tại Băng Cốc - Thái Lan. Khái niệm: Nghốo là tỡnh trạng một số bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa món những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đó được xó hội thừa nhận tựy theo trỡnh độ phát triển và phong tục tập quán của từng địa phương. Đây chính là một khái niệm chung nhất về nghèo, một khái niệm mở, có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến về nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa (định lượng) được bỏ ngỏ bởi vỡ cũn phải tớnh đến sự khác biệt chênh lệch giữa điều kiện tự nhiên, điều kiện xó hội và trỡnh độ phát triển của mỗi vùng miền khác nhau. Vấn đề quan trọng nhất mà khái niệm này đó đưa ra được đó chính là những nhu cầu cơ bản của con người, nếu không được thỏa món thỡ họ chớnh là những người nghèo đói. Một khái niệm mở như vậy sẽ dễ dàng được các tổ chức và các quốc gia chấp nhận. Khái niệm sẽ được mở rộng hơn theo sự phát triển của xó hội, nhất là khi nhu cầu cơ bản của con người được mở rộng theo thời gian. Từ khái niệm chung này, khi nghiên cứu thực trạng nghèo đói, người ta đó đưa ra hai khái niệm khác, đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối: Đó là sự thiếu hụt so với mức sống (những nhu cầu) tối thiểu. Nghèo tuyệt đối đề cập đến vị trí của một cá nhân, hộ gia đỡnh trong mối quan hệ với đường nghèo khổ mà giá trị tuyệt đối của họ cố định theo thời gian. Nghèo tuyệt đối thường được tính trên những nhu cầu dinh dưỡng và một số hàng hóa khác, do vậy một đường nghèo tuyệt đối được dùng để thực hiện các so sánh nghèo đói. Nghèo tương đối: Đó là sự thiếu hụt của các cá nhân/ hộ gia đỡnh so với mức sống trung bỡnh đạt được. Sự thiếu hụt này dựa trên cơ sở một tỷ lệ nào đó so với mức thu nhập bỡnh quõn của dõn cư, có quốc gia xác định dựa trên 1/2 thu nhập bỡnh quõn, cú quốc gia lại dựa trờn 1/3 thu nhập bỡnh quõn. Để so sánh sự nghèo khổ giữa các quốc gia với nhau, người ta sử dụng khái niệm nghèo tương đối. Để đấu tranh chống nạn nghèo cùng cực thỡ dựng khỏi niệm nghốo tuyệt đối. Cách chọn khái niệm tùy theo mục đích mà mỡnh theo đuổi. Tuy nhiên, cả hai khái niệm trên đều không hoàn toàn đầy đủ. Khái niệm nghèo tuyệt đối không tính đến sự khác nhau về mức sống ở các nước. Khái niệm nghèo tương đối, không tính đến sự diễn biến của bối cảnh kinh tế xó hội, do đó không tính đến diễn biến của những nhu cầu. Ngoài khái niệm chung về nghèo đói, trong quá trỡnh tỡm hiểu, nghiờn cứu ta thường gặp một số khái niệm khác chỉ những khía cạnh của nghèo đói như: Đói: Là tỡnh trạng của một bộ phận dõn cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trỡ cuộc sống. Hay núi một cỏch khỏc đói là một nấc thang thấp nhất của nghèo. Nghèo đói kinh niên: Là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền cho đến thời điểm đang xét. Nghèo đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tỡnh trạng nghốo đói đột xuất vỡ nhiều nguyờn nhõn như phá sản và các rủi ro khác, tại thời điểm đang xét. Vùng nghèo, vệt nghèo: Là nơi có tỷ lệ nghèo cao hơn nhiều và mức sống dân cư thấp hơn nhiều so với mức sống chung của cả nước, trong cùng một thời điểm. Quốc gia nghèo: Là một đất nước có bỡnh quõn thu nhập rất thấp, nguồn lực (tài nguyên) cực kỳ hạn hẹp (về vật chất, lao động, tài chính) cơ sở hạ tầng môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc tế. Và cũn nhiều khỏi niệm khỏc như: Nghèo không gian, nghèo thời gian, nghèo môi trường, nghèo lứa tuổi, nghèo giới…Tất cả chỉ là xác định rừ hơn đặc điểm, mức độ, nguyên nhân của các đối tượng nghèo và từ đó sẽ có những giải pháp thích hợp cho từng đối tượng nghèo khác nhau. 1.1.2. Xác định chuẩn nghèo Ở phần trên chúng ta đó xem xột đói nghèo theo định tính, ở phần này chúng ta tỡm hiểu đói nghèo theo định lượng, với những tiêu chí kinh tế cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử. Chuẩn nghèo (hay cũn gọi là đường nghèo, ngưỡng nghèo, hoặc tiêu chí nghèo): Là công cụ để phân biệt người nghèo và người không nghèo. Hầu hết chuẩn nghèo dựa vào thu nhập hoặc chi tiêu. Những người được coi là nghèo khi mức sống của họ đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp hơn mức tối thiểu chấp nhận được, tức là thấp hơn chuẩn nghèo (đường nghèo). Những người có mức thu nhập hoặc chi tiêu ở trên chuẩn này là người không nghèo hoặc đó vượt nghèo, thoát nghèo. Chuẩn nghèo là công cụ để đo lường và giám sát nghèo đói. Một thước đo nghèo đói tốt sẽ cho phép đánh giá tác động các chính sách của Chính phủ tới nghèo đói, cho phép đánh giá nghèo đói theo thời gian, tạo điều kiện so sánh với các nước khác, và giám sát chi tiêu xó hội theo hướng có lợi cho người nghèo. 1.1.2.1. Xây dựng chuẩn nghèo của thế giới Xác định chuẩn nghèo dựa vào khẩu phần ăn Trước tiên là phải xác định được số lương thực, thực phẩm thích hợp sau đó đưa ra số Kcalo chuẩn nhất cho tiêu dùng của một người hàng ngày, tất nhiên không có sự thống nhất giữa các quốc gia về lượng Kcalo tiêu dùng để xác định chuẩn nghèo. Bảng 1.1: Lượng Kcalo tiêu dùng hàng ngày cho một người được sử dụng trong xây dựng chuẩn nghèo Việt Nam 2.100 Indonesia 2.100 Philippin 2.000 Thái Lan 1.978 Trung Quốc 2.150 Nguồn: [6, tr. 10]. Tất nhiên, phương pháp này không được chính xác nếu ta đem so sánh giữa người nghèo nông thôn và người nghèo thành thị. Ở nông thôn luôn mua được lương thực và thực phẩm rẻ hơn ở thành thị, kết quả là hàm Kcalo thu nhập cho các hộ gia đỡnh ở nụng thụn sẽ cao hơn các hộ gia đỡnh thành thị và do đó chuẩn nghèo khu vực nông thôn sẽ thấp hơn ở khu vực thành thị. Xác định chuẩn nghèo dựa vào chi phí cho các nhu cầu cơ bản Phương pháp này xác định giá trị của tiêu dùng cần thiết để đáp ứng các nhu cầu cơ bản. Chuẩn nghèo được tính như sau: Đường nghèo Z: Z = ZF + ZN ZF = Đường nghèo lương thực, thực phẩm ZN = Đường nghèo phi lương thực, thực phẩm Xác định chuẩn nghèo từ thu nhập bỡnh quõn Các quốc gia xác định chuẩn nghèo dựa trên sự thiếu hụt của cá nhân, hộ gia đỡnh so với mức sống trung bỡnh đạt được. Có quốc gia xác định chuẩn này dựa trên 1/2 thu nhập bỡnh quõn, cú quốc gia lại dựa trờn 1/3 thu nhập bỡnh quõn. Trên thế giới hiện nay, trừ Mỹ có đường nghèo hầu như không đổi trong suốt 4 thập kỷ qua, cũn lại tất cả cỏc nước khi giàu lên họ thường có hướng điều chỉnh lại chuẩn nghèo. Cộng đồng châu Âu định nghĩa nghèo là có thu nhập bỡnh quõn đầu người thấp dưới 50% thu nhập của đối tượng trung lưu. Khi thu nhập của đối tượng trung lưu tăng lên thỡ chuẩn nghốo cũng tăng lên. Ở Canada người ta sử dụng chuẩn nghèo tương đối để theo dừi nghốo đói: Năm 1993 thu nhập bỡnh quõn một gia đỡnh 4 người là 62.000 USD và họ quan niệm chuẩn nghèo của Canada là những gia đỡnh 4 người có thu nhập dưới 31.000USD [6, tr. 12]. Chuẩn nghèo 1 USD, 2 USD /ngày/người. Để có điều kiện đánh giá hiệu quả của các chính sách chống đói nghèo theo thời gian và so sánh tỷ lệ nghèo đói giữa các nước này với các nước khác, cũng như việc xác định các nơi cần phải trợ giúp, một số tổ chức quốc tế, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới, đó sử dụng mức tiờu chuẩn 1 USD, 2 USD/ngày/người. Trong đó các mức này được dựa trên sức mua tương đương của đồng USD năm 1995. Chuẩn nghèo này là chuẩn nghèo tuyệt đối. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định là hiện tại cũn rất nhiều vấn đề liên quan đến cách tính 1 USD, 2 USD theo sức mua tương đương với đồng USD. Do vậy, phương pháp này chủ yếu để so sánh quốc tế hơn là trong nước. 1.1.2.2. Xác định chuẩn nghèo của Việt Nam Trong những năm qua nước ta tồn tại song song một số phương pháp xác định chuẩn nghèo phục vụ mục đích khác nhau. Đó là cách xác định chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội cụng bố và chuẩn nghốo của Tổng cục Thống kờ và Ngõn hàng Thế giới * Cách xác định đường nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới Tổng cục Thống kờ với vai trũ thu thập, cụng bố và đánh giá số liệu cấp quốc gia và có thể so sánh quốc tế đó cựng Ngõn hàng Thế giới ỏp dụng phương pháp xác định chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường mức sống của Ngân hàng Thế giới được triển khai vào đầu thập niên 80 cho các nước đang phát triển. Phương pháp này cho phép các kết quả tính toán có thể so sánh được với các nước trong khu vực và so sánh theo thời gian. - Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được xác định là chi phí cần thiết mua rổ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng Kcalo tiêu dùng bỡnh quõn 1 người 1 ngày (2.100 Kcalo). Năm 1998 chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được xác định là 1.287 ngàn đồng/người/năm - Chuẩn nghèo chung được xác định bằng cách lấy chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm cộng với chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm của nhóm dân cư 3 (nhóm có mức sống trung bỡnh). Chuẩn nghốo chung được xác định cho năm 1998 là: 1.790 ngàn đồng/người/năm. Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau: Phương pháp này sử dụng rổ hàng hóa từ năm 1993 đến nay đó hơn 10 năm không thể phản ảnh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số người dân Việt Nam. Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị và nông thôn chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không thể xác định và lập được danh sách hộ nghèo cụ thể ở các địa phương. * Phương pháp xác định chuẩn nghèo của Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội là cơ quan thường trực chương trỡnh quốc gia XĐGN, đó tiến hành rà soỏt chuẩn nghốo qua cỏc thời kỳ. Lỳc đầu chuẩn nghèo được xác định dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang sử dụng chỉ tiêu thu nhập. Mục đích của Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội là xỏc định được đối tượng cụ thể của chương trỡnh trợ cấp thụn, xó, lờn danh sỏch hộ nghốo, chỉ ra cỏc nguyờn nhõn nghốo đói và đề xuất các giải pháp hỗ trợ. Bên cạnh đó giúp Chính phủ theo dừi, đánh giá tác động của các chính sách kinh tế và XĐGN, điều chỉnh chuẩn nghèo theo mức độ cải thiện của đời sống dân cư và người nghèo. Chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội cụng bố đó điều chỉnh qua 4 giai đoạn như sau: Giai đoạn 1993 - 1995 Hộ đói: Bỡnh quõn thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 13 kg đối với hộ thành thị và dưới 8 kg đối với hộ nông thôn. Hộ nghèo: Bỡnh quõn thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 20kg đối với khu vực thành thị và dưới 15kg đối với khu vực nông thôn. Giai đoạn 1995 - 1997 Hộ đói: Là hộ cú mức thu nhập bỡnh quõn một người trong một tháng quy ra gạo dưới 13 kg, tính cho mọi vùng. Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập quy ra gạo theo mức quy định dưới đây: - Vùng nông thôn miền núi hải đảo: dưới 13kg/người/tháng. - Vùng thôn đồng bằng: dưới 20kg/người/tháng. - Vùng thành thị: dưới 25kg/người/tháng. Giai đoạn 1997 - 2000 Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập một người trong một tháng quy ra gạo dưới 13kg, tương đương 45 ngàn đồng (giá năm 1997) tính cho mọi vùng. Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập quy ra gạo theo mức quy định dưới đây: - Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng (tương đương 55.000 đồng). - Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng (tương đương 70.000 đồng). - Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng). Giai đoạn 2001 - 2005 - Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng - Nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng - Thành thị: 150.000 đồng/người/tháng [6, tr. 14-15]. Cách tiếp cận này có ưu điểm: Đảm bảo từng bước thỏa món nhu cầu cơ bản của con người (ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại…). Chuẩn được điều chỉnh gắn với tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện điều kiện sống của người dân, tỡnh hỡnh thay đổi cơ cấu chi tiêu, thu nhập từ lao động với mục tiêu bảo đảm không ngừng nâng cao mức sống của người nghèo. Tạo điều kiện cho các cơ sở có thể triển khai được việc lập danh sách hộ nghèo và xác định các hỗ trợ cần thiết. Cỏch tiếp cận này cũn hạn chế: Mặc dù khi tính toán chuẩn nghèo có dựa trên nhu cầu về lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm, song chưa tính toán đầy đủ cho nhu cầu tiêu dùng, tỷ lệ chi cho nhu cầu phi lương thực, thực phẩm cũn thấp. Độ tin cậy về số liệu khi xây dựng các phương án chưa cao do không có điều kiện điều tra trên diện rộng. Bên cạnh đó việc thu thập thông tin về thu nhập cũn rất khú chớnh xỏc, đặc biệt là thu nhập của người dân nông thôn và miền núi. Việc quan sát tỡnh trạng nghốo của hộ gia đỡnh chỉ dựa chỉ tiờu đầu vào, chưa quan sát hộ gia đỡnh trờn cỏc chỉ tiờu khỏc như đồ dùng, tài sản, nguồn lực… dẫn đến hiện tượng bỏ sót hoặc đưa nhầm đối tượng vào chương trỡnh XĐGN ở một số xó trong quỏ trỡnh rà soỏt và bỡnh xột. Tớnh thống nhất của chuẩn nghốo chưa được bảo đảm, việc điều chỉnh chuẩn nghèo liên tục không cho phép công tác theo dừi, giỏm sỏt, đánh giá nghèo đói một cách hệ thống. * Xây dựng chuẩn nghèo mới áp dụng vào giai đoạn 2006 - 2010 [6, tr. 18-26]. - Yêu cầu của chuẩn nghèo mới. + Bảo đảm người nghèo được hưởng thành quả phát triển kinh tế - xó hội. Từng bước nâng cao mức sống cho người nghèo theo mức sống chung của xó hội. Chuẩn nghèo mới phải từng bước đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người nghèo. + Tạo điều kiện để phân loại hộ nghèo một cách dễ dàng, tập trung trọng tâm của các chương trỡnh, chớnh sỏch vào vựng sõu, vựng miền nỳi, hải đảo, dân tộc, biên giới. + Tạo sự đồng bộ trong công tác XĐGN, bao gồm xác định người nghèo, tỡm hiểu nguyờn nhõn, xõy dựng cỏc chớnh sỏch hỗ trợ, cung cấp thụng tin. + Từng bước hũa nhập quốc tế, nõng cao hiệu quả hợp tỏc khu vực và quốc tế trong lĩnh vực XĐGN - Định hướng xây dựng chuẩn nghèo mới: Thống nhất về khái niệm, nội dung và phương pháp xác định chuẩn nghèo giữa các cơ quan liên quan, đặc biệt là Bộ Lao động - Thương binh Xó hội và Tổng cục Thống kờ để xây dựng một chuẩn nghèo duy nhất. - Các phương pháp đo lường: + Phương pháp tiếp cận: Sử dụng phương pháp tiếp cận chuẩn nghèo khách quan trên cơ sở hệ nhu cầu tối thiểu để tính chuẩn nghèo là chính, các phương pháp khác bổ sung. + Lựa chọn chỉ tiêu: Trước kia là dùng chỉ tiêu thu nhập, thực tế là rất khó phản ánh chính xác mức sống của người dân do bị bỏ sót hoặc người dân không muốn khai báo. Trong khi đó việc bảo đảm các nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, y tế, giáo dục… có thể quan sát thông qua "đầu ra", mức chi tiêu hiện tại của hộ gia đỡnh. Điều quan trọng là chúng ta phải quan tâm thực chất người nghèo sống như thế nào chứ không phải là họ có thu nhập đủ sống hay không? Vỡ vậy chuẩn nghốo mới đó dựng chỉ tiờu "chi tiờu" để đo lường mức sống của hộ gia đỡnh làm căn cứ để phân loại hộ nghèo và hộ không nghèo. + Xác định nhu cầu dinh dưỡng 2006 - 2010: Nhu cầu năng lượng được xác định dựa vào nhu cầu cho chuyển hóa cơ bản, thời gian và tính chất của các hoạt động trong ngày. Dựa theo đề nghị của tổ chức y tế thế giới năm 1985, nhu cầu năng lượng bỡnh quõn cho người Việt Nam do Viện Dinh dưỡng đề nghị đạt khoảng 2.100 Kcalo/ngày/người. + Lựa chọn nhóm dân cư làm căn cứ để tính toán nhu cầu lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm. Trong cuộc điều tra mức sống dân cư năm 2002, mức tiêu thụ Kcalo/ngày/người của các nhóm như sau: Bảng 1.2: Mức tiêu thụ kcalo một ngày năm 2002 Lượng k.calo tiêu dùng Lượng k.calo quy đổi 1 người 1 ngày cho mỗi người Nhóm 1: nghèo nhất 1735 1943 Nhóm 2: nghèo vừa 1875 2187 Nhúm 3: trung bỡnh 1952 2364 Nhóm 4: khá giả 1973 2539 Nhóm 5: giàu nhất 1835 2773 Nhóm chi tiêu (20 %) Nguồn: [6, tr. 20]. Từ bảng trên cho thấy, nhóm dân cư thứ hai là nhóm có mức tiêu dùng gần với ngưỡng 2.100 kcalo lựa chọn (năm1998 là nhóm dân cư 3), do vậy khối lượng hàng hóa lương thực, thực phẩm tiêu dùng bỡnh quõn đầu người của nhóm dân cư này sẽ được tính
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan