LOGO
Đại Học Kinh Tế TPHCM
Viện Đào Tạo Sau Đại Học
XEM CÁCH NGƯỜI
THÁI XÚC TIẾN
THƯƠNG MẠI.
I. Tình hình quan hệ thương mại
giữa Thái Lan- Việt Nam
I. Tình hình quan hệ thương mại giữa
Thái Lan- Việt Nam
Thương mại hai chiều : năm 1990 : 15 triệu
USD; năm 1995 : 500 triệu USD; năm 2010 :
6,78 tỷ USD; năm 2011 : 8,17 tỷ USD.
Tình hình nhập siêu từ Thái Lan sang Việt
Nam:
I. Tình hình quan hệ thương mại giữa
Thái Lan- Việt Nam
Trong số các mặt hàng nhập khẩu vào Việt
Nam, hàng Thái Lan chỉ xếp sau hàng Trung
Quốc. Song gần đây, do nhiều thông tin về
hàng hóa không đảm bảo chất lượng và
thiếu an toàn của hàng Trung Quốc khiến
người tiêu dùng quay lưng, hàng Thái Lan
đã nhanh chóng thâm nhập sâu hơn.
I. Tình hình quan hệ thương mại giữa
thái Lan- Việt Nam
Mặt hàng Việt Nam nhập từ Thái Lan :
1. Linh kiện, phụ tùng ô tô (8,81%);
2. chất dẻo nguyên liệu (hơn 7,65%),
3. máy móc, thiết bị, phụ tùng khác (7,56%); xăng dầu
(7,54%);
4. linh kiện, phụ tùng xe máy (7,09%),
5. sắt thép các loại (4,38%).
I. Tình hình quan hệ thương mại giữa
Thái Lan- Việt Nam
Hàng Việt nam xuất sang Thái lan chủ yếu là
hàng thô, hàng gia công nên giá thành rẽ, giá
trị gia tăng cũng thấp như :
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Dầu thô (32,03%);
than đá (3,74%);
máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (22,19%);
thủy sản (5,25%);
nông sản (gần 3%);
dệt may (1,5%);
giày dép (0,55%).
II.Cách làm xúc tiến thương mại của
người Thái
II.Cách làm xúc tiến thương mại của
người Thái
Mang tính đồng bộ cao, có sự kết hợp chặt
chẽ giữ cơ quan chức năng (tham tán
thương mại, trung tâm xúc tiến thương
mại…) và các doanh nghiệp.
Không cạnh tranh bằng giá rẻ như hàng
Trung Quốc hay hàng Việt Nam, hàng tiêu
dùng Thái Lan chủ yếu khai thác nhu cầu sử
dụng sản phẩm tốt với mức giá có thể cao
hơn.
II.Cách làm xúc tiến thương mại của
người Thái
“ Nói ít làm nhiều” đó là cách họ thể hiện khi
tổ chức các hội chợ trong và ngoài nước để
giới thiệu sản phẩm của mình với bạn bè thế
giới.
Doanh nghiệp nhận được hỗ trợ rất thiết
thực từ Bộ Thương mại và DEP trong khâu
mời khách, tổ chức và marketing hội chợ.
II.Cách làm xúc tiến thương mại của
người Thái
DN được nhà nước hỗ trợ toàn bộ kinh phí
cho lần đầu tiên tham dự hội chợ xúc tiến
thương mại đầu tiên tại thị trường nước
ngoài. Mức hỗ trợ này sẽ giảm dần ở những
lần tổ chức hội chợ kế tiếp vì các DN đã có
thể tự hoạt động tại các thị trường. Ngoài ra,
bản thân các DN cũng có hệ thống phân phối
rất chặt chẽ.
II.Cách làm xúc tiến thương mại của
người Thái
Làm hội chợ không phải là tổ chức những sự
kiện đơn lẻ mà là cả một ngành công nghiệp
của người Thái. Thái Lan đã xây dựng 6
trung tâm hội chợ triển lãm lớn, trong đó 5
ở Bangkok, với 250.000 m2 được trang bị
máy lạnh.
II.Cách làm xúc tiến thương mại của
Việt Nam
III.Cách làm xúc tiến thương mại của
Việt Nam
Hoạt động xúc tiến thương mại của Việt
Nam còn mang tình đơn lẽ, chưa có sự thống
nhất giữa địa phương, cơ quan chức năng và
doanh nghiệp.
Thiếu chiến lược thị trường nên không thể
nhận ra được cơ hội.
III.Cách làm xúc tiến thương mại của
Việt Nam
Thiếu phối hợp giữa các cơ quan để cùng
làm xúc tiến dẫn đến doanh nghiệp thiếu
thông tin thị trường, khó khăn trong việc kết
nối tìm đối tác và tư vấn về quy định, chính
sách của nước sở tại.
Thiếu tính chuyên nghiệp nên không thể
cạnh tranh
III.Cách làm xúc tiến thương mại của
Việt Nam
Chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữ cơ quan
chức năng và doanh nghiệp trong việc
quảng bá và giới thiệu sản phẩm. Mặc dù
công tác này cũng được các cơ quan chức
năng quan tâm nhưng tầng suất chưa cao,
chưa phát huy hiệu quả kết hợp giữa cơ
quan chức năng và doanh nghiệp trong việc
thâm nhập thị trường mới.
III.Cách làm xúc tiến thương mại của
Việt Nam
Chưa có sự kết hợp giữ các doanh nghiệp
trong nước để tao sức mạnh khi thâm nhập
vào thị trường mới, con rải rác tình trạng”
gà nhà đá nhau”
Hoạt động của cá hiệp hội, các tham tán
thương mại trong việc hỗ trợ doanh nghiệp
kinh doanh đầu tư- xuất khẩu chưa thật sự
hiệu quả.
IV. Nhận xét, đánh giá về việc làm xúc
tiến thương mại của các doanh
nghiệp Việt Nam:
IV. Nhận xét, đánh giá về việc làm xúc tiến
thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam:
Ít nhận được sự quan tâm, hỗ trợ từ phía cơ
quan nhà nước (kinh phí, thông tin thị trường,
…), nên các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện
xúc tiến thương mại một cách tự phát, “tự thân
vận động”.
Các doanh nghiệp không liên kết với nhau vì sợ
bị giành giật thị trường, thị phần từ chính các
doanh nghiệp trong nước.
IV. Nhận xét, đánh giá về việc làm xúc tiến thương
mại của các doanh nghiệp Việt Nam:
Những chuyến xúc tiến thương mại ở nước
ngoài tập trung doanh nghiệp ở những ngành
nghề khác nhau nên không gây ấn tượng đối
với đối tác ở nước sở tại.
Sự hiểu biết về thị trường muốn thâm nhập
còn hạn chế. Hình thức buôn bán chủ yếu
“mua đứt bán đoạn”, chưa có 1 chiến lược cụ
thể cho sản phẩm ứng với từng thời kỳ thâm
nhập thị trường.
IV. Nhận xét, đánh giá về việc làm xúc tiến
thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam:
Còn lạ lẫm trong việc giới thiệu sản phẩm
tại các hội chợ, triễn lãm mang tầm vóc
quốc tế.
Sản phẩm không nổi bật, không tạo được
điểm nhấn so với các sản phẩm nước bạn,
chưa chú trọng vào đối tượng khách hàng ở
thị trường mà mình muốn thâm nhập, đa
số bán những gì mình có hơn là những gì
khách hàng cần.
- Xem thêm -