Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng quyền chọn chỉ số giá trên thị trường chứng khoán việt nam...

Tài liệu Xây dựng quyền chọn chỉ số giá trên thị trường chứng khoán việt nam

.PDF
92
97
97

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ MINH HẰNG XÂY DỰNG QUYỀN CHỌN CHỈ SỐ GIÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP HCM, năm 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ MINH HẰNG XÂY DỰNG QUYỀN CHỌN CHỈ SỐ GIÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế - Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC THÂN THỊ THU THỦY TP HCM, năm 2011 DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1: Tổng hợp sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng lên giá quyền chọn Bảng 2.1 Tổng hợp về số CTNY, CTCK, tỷ lệ vốn hóa, số lượng tài khoản 2000-2005 Bảng 2.2 Số tài khoản của NĐT đến 31/12 (hàng năm) Bảng 2.3 Một số chỉ tiêu đánh giá bước nhảy về lượng và chất của TTCKVN Bảng 3.1 Bảng tính độ bất ổn quá khứ Trang 17 Trang 27 Trang 31 Trang 35 Trang 76 DANH MỤC CÁC BIỂU Biểu 2.1 Giá trị vốn hóa TTCK giai đoạn 2000-2011 Biểu 2.2 Số CTNY trên TTCK VN giai đoạn 2000-2011 Biểu 2.3 Lượng giao dịch trên HOSE và HNX Biểu 2.4 Số lượng CTNY tại 2 sở HOSE và HNX Trang 29 Trang 30 Trang 31 Trang 57 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1.1Mô tả lợi nhuận trên quyền chọn mua Hình 1.2 Mô tả lợi nhuận trên quyền chọn bán Hình 1.3 Mô hình cây nhị phân 1 thời kỳ - Đường đi của giá cổ phiếu Hình 1.4 Mô hình cây nhị phân 1 thời kỳ - Đường đi của giá quyền chọn mua Hình 1.5 Mô hình cây nhị phân 2 thời kỳ - Đường đi của giá cổ phiếu Hình 1.4 Mô hình cây nhị phân 2 thời kỳ - Đường đi của giá quyền chọn mua Hình 2.1 Đồ thị diễn biến chỉ số VN-Index và HNX-Index từ 2000-7/2011 Hình 3.1 Đồ thị chuỗi lợi suất R Hình 3.2 Đồ thị VN-Index Hình 3.3 Giản đồ tự tương quan của sai phân bậc 1 chuỗi lợi suất VN-Index Trang 7 Trang 8 Trang 18 Trang 18 Trang 19 Trang 19 Trang 33 Trang 68 Trang 68 Tragn 69 Hình 3.4 Kiểm định nghiệm đơn vị về tính dừng của chuỗi lợi suất VN-Index đã lấy Trang 70 sai phân bậc 1 Hình 3.5: Kết quả ước lượng của mô hình ARMA(1,0) Hình 3.6: Kết quả ước lượng của mô hình ARMA (0,1) Hình 3.7: Kết quả ước lượng của mô hình ARMA (1,1) Hình 3.8: Kiểm định ảnh hưởng của ARCH trên eviews Hình 3.9: Độ bất ổn theo mô hình ARCH(1) Hình 3.10: Độ bất ổn theo mô hình GARCH(1,1) Trang 71 Trang 72 Trang 73 Trang 74 Trang 75 Trang 76 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Ký hiệu Nội dung diễn giải CBOE Chicago Board of Options Exchange CTCK Công ty chứng khoán CTNY Công ty niêm yết CSTT Chính sách tiền tệ DJIA Dow Jones Industrial Average indexes DNNN Doanh nghiệp nhà nước HNX Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội HOSE Sở giao dịch chứng khoán TPCHM KRX Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc NĐT Nhà đầu tư OTC Over the counter SGDCK Sở giao dịch chứng khoán TPCP Trái phiếu chính phủ TTCK Thị trường chứng khoán TTLKCK Trung tâm lưu ký chứng khoán TTQC Thị trường quyền chọn UBCKNN Ủy ban chứng khoán nhà nước VCBS Công ty chứng khoán Vietcombank LỜI CAM KẾT Tôi xin cam đoan rằng toàn bộ những nội dung và số liệu trong luận văn này là do tôi tự nghiên cứu, khảo sát và thực hiện. Các số liệu và thông tin sử dụng trong luận văn đều có nguồn gốc, trung thực và được phép công bố. TP Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 1 năm 2012 Học viên thực hiện luận văn Nguyễn Thị Minh Hằng -1- LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Từ những ngày đầu thành lập năm 2000, TTCK Việt Nam ngày càng trở nên sôi động với những bước nhảy về lượng từ 2 CTNY, quy mô vốn hóa chiếm 0.28%/GDP, không có quỹ đầu tư nào…đến nay đã có hơn 700 CTNY, mức vốn hóa đạt hơn 40%/GDP và hơn 40 quỹ đầu tư. Điều này cho thấy sự phát triển từ thị trường. Tuy nhiên, đầu tư trên TTCK Việt Nam cũng gặp không ít rủi ro. Diễn biến chỉ số VNIndex cho thấy, có những thời điểm chỉ số này vượt 1100 điểm nhưng sau đó lại giảm sâu nằm ngoài mức dự đoán của các chuyên gia trong ngành. Mặc dù sau đó có thời gian phục hồi nhưng hiện nay lại tiếp tục giảm điểm. Tất cả cho thấy TTCK Việt Nam tiềm ẩn nhiều rủi ro đã tác động không nhỏ đến NĐT. Từ rủi ro tồn tại hiện nay trên TTCK, cần thiết lập công cụ phòng chống rủi ro cho NĐT. Trên thế giới thì hợp đồng quyền chọn là một công cụ phòng ngừa không thể thiếu của các NĐT khi tham gia TTCK. Tại Việt Nam, quyền chọn trên TTCK chỉ đang là đề án và cho thử nghiệm hạn chế thông qua VCBS nhưng chưa thấy hiệu quả. Trong bước đầu xây dựng quyền chọn trên TTCK cần thiết phải học tập kinh nghiệm các quốc gia đi trước, chuẩn bị kỹ lưỡng các yếu tố cần thiết để quyền chọn phát huy đúng vai trò, chức năng của nó. Với những bước đi đầu tiên thì Việt Nam nên xây dựng quyền chọn chỉ số chứng khoán là phù hợp hoàn cảnh và kinh nghiệm thế giới. Toàn cục thị trường tài chính Việt Nam đang chịu tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, các kênh huy động vốn gặp nhiều khó khăn. TTCK Việt Nam thời gian qua đã chứng tỏ được là kênh huy động vốn hấp dẫn thu hút sự quan tâm của NĐT trong nước và quốc tế. Nhưng thị trường cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực từ cuộc suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu. Do đó, khiến những luồng tiền đang bị rút ra khỏi thị trường làm suy yếu vai trò của TTCK. Chính những điều này, việc cấp thiết là phải phát triển, đa dạng hóa các loại hàng hóa, các công cụ bảo hiểm, nhằm vực dậy thị trường, giữ chân NĐT hiện hữu và thu hút NĐT mới. Sự hình thành và phát triển quyền chọn chứng khoán mà cụ thể trong bước đầu là quyền chọn về chỉ số giá chứng khoán góp phần hoàn thiện, hỗ trợ sự phát triển hiệu quả của TTCK, khơi thông vốn đầu tư thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. -2Xuất phát từ thực tế trên, tác giả chọn đề tài “Xây dựng quyền chọn chỉ số trên TTCK Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ. 2. Mục tiêu nghiên cứu: Thứ nhất, hệ thống hóa về lý thuyết quyền chọn và quyền chọn chỉ số giá chứng khoán và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xây dựng quyền chọn chỉ số giá chứng khoán Thứ hai, phân tích, đánh giá những cơ sở nền tảng cho việc hình thành và phát triển quyền chọn chỉ số chứng khoán tại Việt Nam Thứ ba, đề xuất các giải pháp thúc đẩy ứng dụng và phát triển bền vững quyền chọn chỉ số giá chứng khoán ở Việt Nam. 3. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn Là quyền chọn chỉ số giá chứng khoán, thực trạng TTCK Việt Nam và rủi ro đầu tư trên TTCK Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi nghiên cứu Tổng hợp, quan sát, phân tích TTCK Việt Nam và chỉ số VN-Index giai đoạn 2000-2011. Bên cạnh đó, đề tài còn nghiên cứu các văn bản pháp lý liên quan đến TTCK và các văn bản định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2020. - Hạn chế của luận văn: Xuất phát từ khối lượng đáng kể các nghiên cứu mang tính lý thuyết, hơn nữa từ những trở ngại không nhỏ trong việc tổ chức thu thập và xử lý chính xác các thông tin cần thiết, trong khuôn khổ nghiên cứu này, luận văn không đặt mục tiêu lượng hóa cụ thể mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố cơ sở tác động đến việc hình thành và phát triển quyền chọn chỉ số trên TTCK Việt Nam 5. Phương pháp nghiên cứu: Trong khi nghiên cứu các vấn đề của luận văn, các phương pháp và công cụ cơ bản sẽ được ứng dụng gồm - Phương pháp thống kê mô tả: nhằm tập hợp, phân tích và đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố cơ sở tác động đến việc hình thành và phát triển quyền chọn chỉ số trên TTCK Việt Nam. - Phương pháp so sánh: nhằm làm nổi bật kết quả phân tích và đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố cơ sở tác động đến việc hình thành quyền chọn chỉ số chứng -3khoán. Từ đó, đối chiếu các thông tin trong quá khứ để tìm hiểu nguyên nhân và có các kết luận phù hợp. 6. Kết cấu của luận văn: Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về quyền chọn chỉ số giá chứng khoán Chương 2: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến xây dựng quyền chọn chỉ số giá trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chương 3: Giải pháp xây dựng quyền chọn chỉ số giá trên thị trường chứng khoán Việt Nam -4- Chương 1 TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CHỌN CHỈ SỐ GIÁ CHỨNG KHOÁN 1.1 Những vấn đề cơ bản về quyền chọn chứng khoán 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của quyền chọn chứng khoán Dấu hiệu của việc sử dụng quyền chọn đã xuất hiện trong các bài viết của Aristotle thời Hy Lạp cổ, kể về Thales – một người đàn ông sống năm 332 trước công nguyên - thỏa thuận một giá mua cố định với những người nông dân trồng cây ô liu trước mùa thu hoạch trái. Trong thỏa thuận Thales hứa với người nông dân sẽ mua trái ô liu với giá thỏa thuận dù thị trường trong mùa thu hoạch có biến động tăng hay giảm giá. Theo lời kể trong bài viết, mùa đó, giá ô liu tăng mạnh và Thales đã hưởng lợi từ thỏa thuận trên. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, không có một bằng chứng nào cho thấy quyền chọn được áp dụng phổ biến. Sau này, thời Châu Âu hiện đại, giao dịch quyền chọn trên hàng hóa khá phổ biến tại Hà Lan khi người ta phát triển hoạt động mua bán hoa Tulip không chỉ trong nước mà mở rộng ra nước ngoài. Thế nhưng mãi đến cuối thế kỷ 17, thị trường quyền chọn mới được định hình tại London, Anh Quốc. Với thị trường quyền chọn London, quyền chọn mua và quyền chọn bán là những công cụ của thị trường. Vào đầu những năm 1900, một nhóm Công ty đã thành lập “Hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn”. Mục đích của Hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và người bán lại với nhau. Các nhà kinh doanh không gặp nhau trên thị trường, nhà đầu tư muốn mua quyền chọn liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ cố gắng tìm người bán quyền chọn từ những khách hàng của họ hoặc từ những Công ty thành viên khác, nếu không có người bán, Công ty sẽ tự phát hành quyền chọn với giá cả thích hợp. Hoạt động của hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn có ba điểm yếu: (i) Không có thị trường thứ cấp, người mua quyền chọn không có quyền bán cho bên khác trước ngày đáo hạn (ii) Không có kỹ thuật nào đảm bảo rằng người bán quyền chọn sẽ thực hiện hợp đồng -5(iii) Chi phí giao dịch tương đối cao Vào năm 1872, ông Russel – là một chính trị gia và là một nhà tài phiệt từ New York – đã giới thiệu quyền chọn vào giao dịch tại Mỹ. Nhưng bước ngoặc của lịch sử hợp đồng quyền chọn phải kể đến là năm 1973. Năm 1973, Sở giao dịch Chicago Board of Trade (CBOT) - Sở giao dịch lâu đời nhất và lớn nhất về các hợp đồng giao sau hàng hóa, đã tổ chức một sở giao dịch dành riêng cho giao dịch quyền chọn cổ phiếu. Sở giao dịch này được đặt tên là Chicago Board of Options Exchange (CBOE), mở cửa giao dịch quyền chọn mua vào ngày 26/04/1973 và giao dịch các hợp đồng quyền chọn bán trong tháng 06/1977. Vào thời kỳ đó chủ yếu trao đổi các cổ phiếu đơn lẻ. CBOE đã tạo ra một thị trường trung tâm cho các hợp đồng quyền chọn. Bằng cách tiêu chuẩn hóa các kỳ hạn và điều kiện của hợp đồng quyền chọn, đã làm tăng tính thanh khoản cho thị trường. Nói cách khác, một nhà đầu tư đã mua hoặc bán quyền chọn trước đó có thể quay trở lại thị trường trước khi hợp đồng đáo hạn và bán hoặc mua quyền chọn, và như vậy đã bù trừ vị thế ban đầu. Điểm mới và quan trọng nhất đó là CBOE đã bổ sung một trung tâm thanh toán đảm bảo cho người mua rằng người bán sẽ thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Vì vậy, không giống như trên thị trường phi tập trung, người mua quyền chọn không còn phải lo lắng về rủi ro tín dụng của người bán. Điều này khiến quyền chọn trở nên hấp dẫn đối với công chúng. Năm 1983, CBOE tiếp tục tạo cuộc cách mạng trong ngành kinh doanh quyền chọn khi giới thiệu hợp đồng quyền chọn chỉ số giá chứng khoán cụ thể là hợp đồng quyền chọn trên chỉ số giá chứng khoán S&P100 và hợp đồng quyền chọn trên chỉ số giá chứng khoán S&P500. Từ thời điểm đó, nhiều Sở giao dịch chứng khoán và gần như tất cả Sở giao dịch giao sau bắt đầu giao dịch quyền chọn. Được kích thích bởi nhu cầu của công chúng về quyền chọn, ngành kinh doanh này tăng trưởng mạnh mẽ cho đến khi thị trường chứng khoán sụp đổ nặng nề vào năm 1987. Bị tổn hại bởi cú sốc này, nhiều nhà đầu tư cá nhân sử dụng quyền chọn trước đây đã tránh xa thị trường này và khối lượng giao dịch chỉ mới hồi phục ở mức năm 1987 trong thời gian gần đây. Mặc dù các giao dịch của các định chế trên Sở giao dịch quyền chọn vẫn tương đối mạnh sau vụ sụp đổ, một xu hướng đồng thời tồn tại đã buộc các Sở giao dịch phải đương đầu với mối đe dọa cạnh tranh mới là sự hồi sinh của các thị trường quyền chọn -6phi tập trung. Vào đầu thập niên 1980, nhiều công ty bắt đầu sử dụng hoán đổi tiền tệ và lãi suất để quản trị rủi ro. Do sự vận hành tốt của thị trường và ngay sau đó, các công ty bắt đầu tạo ra các dạng hợp đồng phi tập trung khác như hợp đồng kỳ hạn và như mong đợi, quyền chọn bắt đầu được sử dụng. Tuy nhiên, định mức tối thiểu của mỗi giao dịch khá lớn và có rủi ro tín dụng, công chúng không thể tham gia vào thị trường phi tập trung mới nổi này. Sự phát triển của thị trường tập trung của các định chế này đã gây áp lực nặng nề lên các giao dịch quyền chọn. Vào đầu thập niên 1990, các Sở giao dịch cố gắng trở nên sáng tạo hơn để giành lại thị phần giao dịch của các định chế và kích thích mối quan tâm của công chúng đến các hợp đồng quyền chọn. Hiện nay, có một số lớn các thị trường quyền chọn phi tập trung được giao dịch chủ yếu bởi các nhà đầu tư tổ chức. Chicago không còn là trung tâm của ngành kinh doanh quyền chọn. Quy mô thị trường này là trên toàn thế giới. 1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của quyền chọn chứng khoán Khái niệm quyền chọn chứng khoán Quyền chọn là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó người mua quyền không nhất thiết phải thực hiện quyền, để mua hoặc bán một chứng khoán nào đó vào một ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn. Đặc điểm của quyền chọn: - Tính phái sinh: Quyền chọn là một trong những công cụ tài chính phái sinh, bởi vì nó được hình thành trên cơ sở một loại tài sản khác như các loại hàng hóa, chứng khoán... Do đó, các loại tài sản này được gọi là tài sản cơ sở. - Tính lựa chọn: Quyền chọn là công cụ tài chính phái sinh cung cấp quyền cho người nắm giữ quyền chọn chứ không phải nghĩa vụ phải thực hiện việc mua hay bán. Nội dung trong các hợp đồng quyền chọn là sự thỏa thuận về quyền chọn trong tương lai giữa các bên, trên cơ sở đó hình thành mức phí mua quyền. - Tính kỳ hạn: Quyền chọn có ngày ký kết và ngày hết hiệu lực, khoảng thời gian từ ngày ký kết đến hết ngày hết hiệu lực là thời gian hiệu lực của quyền chọn. - Tính thanh khoản: Các hợp đồng quyền chọn có thể được giao dịch, mua bán cả trên thị trường sơ cấp cũng như thị trường thứ cấp. Do đó, đã tạo cho sản phẩm này tính thanh khoản tương đối cao. -71.1.3 Phân loại quyền chọn Phân loại theo quyền của người mua - Quyền chọn mua (Call option): là hợp đồng quyền chọn được ký kết tại thời điểm hiện tại, trong đó bên mua có quyền thực hiện quyền được mua (hoặc không mua) chứng khoán theo một mức giá đã được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng. Còn bên bán có nghĩa vụ phải thực hiện việc bán loại chứng khoán này khi bên mua thực hiện quyền. Hình 1.1: Mô tả lợi nhuận trên quyền chọn mua Lợi nhuận thuần trên Quyền chọn Mất phí quyền chọn Giá thực Giá tài sản cơ sở - Quyền chọn bán (Put option): là hợp đồng quyền chọn được ký kết tại thời điểm hiện tại, trong đó bên mua có quyền thực hiện quyền được bán (hoặc không bán) một loại chứng khoán theo một mức giá đã được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng. Còn bên bán có nghĩa vụ phải thực hiện việc mua loại chứng khoán này khi bên mua thực hiện quyền. Hình 1.2: Mô tả lợi nhuận trên quyền chọn bán Lợi nhuận trên Quyền chọn bán Giá thực hiện Mất phí quyền chọn Giá tài sản cơ sở -8- Phân loại theo tập quán kinh doanh - Quyền chọn kiểu Mỹ (American Style Option): là quyền chọn cho phép người nắm giữ quyền chọn đưa ra yêu cầu thực hiện quyền chọn vào bất cứ thời điểm nào trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, kể từ khi ký kết hợp đồng cho đến khi đáo hạn hợp đồng, kể cả vào ngày đáo hạn. Việc thanh toán sẽ xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi việc thực hiện quyền chọn được người nắm giữ quyền chọn xác nhận. - Quyền chọn kiểu châu Âu (European Style Option): là quyền chọn chỉ cho phép người nắm giữ quyền chọn thực hiện quyền chọn vào ngày đáo hạn. Việc thanh toán xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi việc thực hiện quyền chọn được người nắm giữ quyền chọn xác nhận vào ngày đáo hạn. Ngoài các cách phân loại trên, quyền chọn cũng được phân loại theo tài sản cơ sở gồm: quyền chọn chỉ số chứng khoán, quyền chọn cổ phiếu, quyền chọn trái phiếu, quyền chọn trên hợp đồng giao sau. 1.1.4 Quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong hợp đồng quyền chọn Bên bán quyền chọn: là bên phát hành quyền chọn. Sau khi thu phí quyền chọn phải có nghĩa vụ luôn sẵn sàng tiến hành giao dịch mua hoặc bán tài sản cơ sở đã thoả thuận trong hợp đồng với bên mua - khi bên mua thực hiện quyền trong thời hạn đã thoả thuận. Theo lý thuyết, bên bán quyền chọn có vùng lãi giới hạn còn vùng lỗ rất lớn. Do vậy, bên bán quyền chọn thường là các ngân hàng hoặc các công ty tài chính. Trên thị trường quyền chọn, có hai loại người bán quyền chọn là người bán quyền chọn mua (Seller call option, short call) và người bán quyền chọn bán (Seller put option, short put) Bên mua quyền chọn: là bên nắm giữ quyền chọn, phải trả cho bên bán phí quyền chọn để có được quyền mua hoặc bán loại hàng hoá cơ sở. Quyền chọn trao cho người giữ quyền để thực hiện đối với hợp đồng quyền chọn mà họ đã mua. Do vậy, trong thời hạn hiệu lực hợp đồng bên mua có ba lựa chọn: (1) Hoặc thực hiện hợp đồng quyền chọn nếu biến động giá trên thị trường có lợi cho họ; (2) Hoặc bán hợp đồng quyền chọn cho bên thứ ba trên thị trường hưởng chênh lệch giá; -9(3) Hoặc để cho quyền chọn tự động hết hiệu lực mà không tiến hành bất cứ một giao dịch mua-bán nào nếu biến động giá thị trường bất lợi so với giá thực hiện trên hợp đồng quyền chọn. Khi bên mua không thực hiện quyền chọn sẽ vẫn mất phí. Do vậy, theo lý thuyết, bên mua có vùng lãi không giới hạn còn vùng lỗ giới hạn bằng mức phí quyền chọn. Trên thị trường quyền chọn, có hai loại người mua quyền chọn: người mua quyền chọn mua (Buyer call option- Long call); người mua quyền chọn bán (Buyer put option- Long put) 1.1.5 Ưu nhược điểm của quyền chọn chứng khoán 1.1.5.1 Ưu điểm: Quyền chọn có những ưu điểm sau: Nhiều thời gian hơn để quyết định: Thời gian thực hiện hợp đồng quyền chọn ở ngày xác định trong tương lai, cụ thể là ngày T+n (với n lớn hơn 2). Như vậy, từ thời điểm hiện tại đến khi thực hiện hợp đồng nhà đầu tư vẫn có một khoảng thời gian dài để quyết định có nên thực hiện hợp đồng quyền chọn đó hay không. Đầu tư một lượng tiền hợp lý để được thời gian cân nhắc kỹ lưỡng cho một khoản đầu tư lớn là ưu điểm mà hợp đồng quyền chọn mang lại. Cho phép nhà đầu tư thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư: Đối với hợp đồng quyền chọn, ban đầu, nhà đầu tư sẽ phải bỏ ra một số chi phí giao dịch và trả phí quyền chọn, nhưng nếu giá tài sản cơ sở biến động theo đúng dự đoán thì khoản lợi thu được là rất lớn. Linh hoạt trong phòng ngừa rủi ro: Đây là ưu điểm nổi bật của quyền chọn so với các công cụ phòng ngừa rủi ro khác. Dùng quyền chọn, nhà đầu tư có thể hạn chế mức tổn thất tối đa trong phạm vi giá quyền chọn Quyền chọn là công cụ tìm kiếm lợi nhuận: Thông qua ký kết hợp đồng quyền chọn, và tùy thuộc vào vị thế trong hợp đồng, nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận gia tăng từ chi phí đầu tư ban đầu. Hay thông qua đây, nhà đầu tư cũng được giá phí quyền chọn từ những nhà đầu tư khác. Tận dụng đòn bẩy tài chính: Thông qua quyền chọn, nhà đầu tư tận dụng được đòn bẩy tài chính để gia tăng lợi nhuận. Giao dịch quyền chọn giúp nhà đầu tư hưởng trọn lợi ích của việc tăng giá chứng khoán mà không cần phải thanh toán toàn bộ giá trị chứng khoán đó. - 10 1.1.5.2 Nhược điểm: Bên cạnh những ưu điểm, quyền chọn có những nhược điểm sau đây: Phụ thuộc khả năng dự đoán của nhà đầu tư: Giao dịch quyền chọn phụ thuộc vào mức giá của chứng khoán cơ sở, mức giá thực hiện quyền, thời gian, độ biến thiên của chứng khoán này…Mặt trái cơ bản nhất của quyền chọn chứng khoán là khi giá chứng khoán diễn biến không như kỳ vọng của nhà đầu tư, họ sẽ mất toàn bộ chi phí để có quyền chọn Quyền chọn chứng khoán là công cụ đầu tư phức tạp: Hợp đồng quyền chọn có tính chất phái sinh, giá trị của nó phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau, lợi nhuận thu được của hợp đồng lại phụ thuộc vào vị thế của nhà đầu tư. Vì vậy, rủi ro lớn nhất là khi nhà đầu tư không hiểu rõ và không biết cách kết hợp các vị thế để giới hạn tổn thất nếu có Quyền chọn dễ gây ra hiện tượng đầu cơ: Các nhà đầu cơ có thể thực hiện nghiệp vụ đầu cơ giá lên và giá xuống vào quyền chọn mua và quyền chọn bán. Việc đầu cơ có thể làm cho giá trên thị trường bị đẩy vượt quá biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của doanh nghiệp và NĐT. 1.1.6 Vai trò của quyền chọn chứng khoán Tạo ra công cụ bảo hiểm rủi ro và lợi nhuận cho nhà đầu tư trên TTCK. Bằng việc sở hữu quyền chọn, người đầu tư trên TTCK có thể cố định giá bán, mua chứng khoán trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, nếu biết vận dụng các kỹ thuật mua bán chứng khoán kết hợp với quyền chọn, các nhà đầu tư có thể bảo vệ được lợi nhuận trong kinh doanh chứng khoán một cách hữu hiệu. Hơn nữa, việc ứng dụng giao dịch quyền chọn đem lại cho nhà đầu tư trên TTCK một công cụ đầu tư mới. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nhà đầu tư ở những TTCK còn ít về hàng hóa; những nhà đầu tư có vốn nhỏ khiến hạn chế cơ hội lựa chọn đầu tư. Ngoài ra, việc ứng dụng giao dịch quyền chọn cũng là cơ hội tăng thu nhập của các CTCK thông qua việc thu phí từ giao dịch, tư vấn… từ đó, tăng thêm khoản thu cho ngân sách Nhà nước bằng các khoản thuế. Thúc đẩy TTCK phát triển Với vai trò là một công cụ bảo vệ lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, quyền chọn tạo tâm lý an toàn hơn trong đầu tư vào TTCK, do đó thu hút được thêm nhiều nhà đầu - 11 tư. Bên cạnh đó, với vai trò là một hàng hóa trên TTCK, quyền chọn chứng khoán mang đến kỳ vọng kiếm lợi nhuận nên khi quyền chọn được ứng dụng giao dịch, nhiều nhà đầu tư sẽ tham gia thị trường để kinh doanh quyền chọn. Khi nhiều nhà đầu tư tham gia thị trường sẽ làm cầu chứng khoán tăng. Điều này làm cho thị trường trở nên sôi động và cơ hội phát triển, mở rộng thị trường là rất cao. Tác động gián tiếp đến các công ty niêm yết và nền kinh tế Quyền chọn chứng khoán ra đời sẽ tác động tích cực đến các CTNY. Quyền chọn có phát triển bền vững hay không phụ thuộc rất nhiều đến chất lượng chứng khoán cơ sở. Yêu cầu đối với sự phát triển của quyền chọn là chứng khoán cơ sở phải có chất lượng tốt, tính thanh khoản cao, có sự hấp dẫn đối với thị trường. Như vậy, nếu nhà đầu tư quyền chọn không giao dịch quyền chọn về chứng khoán cơ sở nào đó thì tín hiệu này sẽ tác động đến NĐT khi quyết định đầu tư tiền vào cổ phiếu công ty này. Và nếu như NĐT quay lưng lại với CTNY, đây sẽ là một tổn thất lớn đối với bản thân công ty do mất uy tín, tăng chi phí huy động vốn… Như vậy, nhờ sự ra đời của quyền chọn, với những yêu cầu khắt khe của nó đối với các chủ thể trên TTCK, trong đó có các CTNY thì điều cần thiết là các công ty này cần thường xuyên xây dựng chiến lược kinh doanh, quản trị tốt các chi phí nhằm đảm bảo tính hiệu quả kinh tế. Khi chất lượng kinh doanh các công ty càng được củng cố, toàn nền kinh tế sẽ phát triển ổn định, bền vững. Như vậy, khi quyền chọn trên TTCK ra đời, nó có tác động tích cực đến các chủ thể của thị trường đồng thời góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô. 1.2 Những vấn đề cơ bản về quyền chọn chỉ số giá chứng khoán 1.2.1 Khái niệm quyền chọn chỉ số giá chứng khoán Quyền chọn chỉ số giá chứng khoán là hợp đồng quyền chọn được phát hành dựa trên tài sản cơ sở là chỉ số giá chứng khoán. Quyền chọn phát hành trên chỉ số giá chứng khoán không khác gì so với quyền chọn phát hành trên một cổ phiếu, chỉ có điểm khác biệt là hai bên thanh toán bằng tiền thay vì giao nhau bằng cổ phiếu. 1.2.2 Những nội dung cơ bản của hợp đồng quyền chọn chỉ số giá chứng khoán Tài sản cơ sở: Đối với hợp đồng này, tài sản cơ sở được các định là các chỉ số giá chứng khoán. Chỉ số giá chứng khoán thể hiện giá trị bình quân của một danh mục đầu tư gồm nhiều chứng khoán khác nhau (Portfolio). Chỉ số giá chứng khoán đại diện cho diễn - 12 biến và xu hướng chung của thị trường chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán, có hai cách xác định giá trị chỉ số giá chứng khoán là lấy bình quân theo tỷ trọng giá trị cổ phiếu trong danh mục (Value-weighted index hay capitalization – weighted index) so với năm gốc hoặc lấy bình quân theo tỷ trọng giá (Price-weighted index) so với năm gốc. Hiện nay, chỉ số S&P500 là chỉ số giá chứng khoán áp dụng theo cách lấy bình quân thứ nhất và chỉ số Dow Jones Industrial Average indexes (DJIA) là chỉ số giá chứng khoán áp dụng cách lấy bình quân thứ hai Phí quyền chọn: Là số tiền mà người mua quyền chọn phải trả cho người bán quyền chọn. Mức phí này được quyết định bởi giá trị của hợp đồng quyền chọn. Loại quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn chỉ số giá chứng khoán cũng có hai loại quyền: quyền chọn mua và quyền chọn bán. Kiểu quyền chọn: Có hai kiểu quyền chọn chỉ số giá chứng khoán: quyền chọn kiểu Mỹ và quyền chọn kiểu Châu Âu. Quy mô hợp đồng: Tùy thuộc từng thị trường chứng khoán mà quy mô hợp đồng được xác định. Thông thường, người ta sẽ quy định quy mô đơn vị của hợp đồng và đồng thời cũng quy định quy mô tối đa của hợp đồng nhằm tránh những giao dịch gây biến động thị trường. Giá thực hiện: Vào ngày đáo hạn của hợp đồng, bên bán quyền phải thanh toán cho bên mua quyền chọn với một mức giá đã được xác định trước, khi người mua quyền chọn yêu cầu thực hiện quyền. Mức giá đó gọi là giá thực hiện. Ngày đáo hạn: Là thời điểm mà người mua hợp đồng quyền chọn có thể thực hiện quyền của mình. Đối với hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ, ngày đáo hạn có thể là bất cứ ngày nào trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng; còn đối với hợp đồng quyền chọn kiểu Châu Âu, ngày đáo hạn là ngày hết hiệu lực của hợp đồng. Trạng thái của hợp đồng: Trong thời hạn hợp đồng hiệu lực, người mua thực hiện hợp đồng hay không còn phụ thuộc vào sự biến động của giá cả hiện hành trên thị trường vào thời điểm đó so với mức giá thực hiện (strike/exercise price) đã quy định. Cụ thể, xét từ vị thế người mua quyền chọn hợp đồng quyền chọn có ba trạng thái: - 13 - Ngang giá quyền chọn (At the money-ATM): Là trạng thái khi người nắm giữ quyền chọn, nếu bỏ qua phí quyền chọn, thực hiện quyền chọn mà không phát sinh khoản lãi hay lỗ nào. Khi đó: Giá thị trường = Giá thực hiện. Quyền chọn ở trạng thái ATM gọi là quyền chọn ở điểm hoà vốn. - Được giá quyền chọn (In the money-ITM): Là trạng thái khi người nắm giữ quyền chọn, nếu bỏ qua phí quyền chọn, thực hiện quyền chọn mà có lãi. Khi đó: Giá thị trường > Giá thực hiện (đối với hợp đồng quyền chọn mua) và Giá thị trường < Giá thực hiện (đối với hợp đồng quyền chọn bán). Quyền chọn ở trạng thái ITM gọi là quyền chọn ở vùng hái ra tiền. - Giảm giá quyền chọn (Out of the money-OTM): Là trạng thái khi người nắm giữ quyền chọn, nếu bỏ qua phí quyền chọn, thực hiện hợp đồng quyền chọn sẽ chịu lỗ. Lúc này: Giá thị trường < Giá thực hiện (đối với hợp đồng quyền chọn mua); và Giá thị trường > Giá thực hiện (đối với hợp đồng quyền chọn bán). Quyền chọn ở trạng thái OTM gọi là quyền chọn ở vùng mất tiền. Hợp đồng quyền chọn chỉ số giá chứng khoán có điều khoản và cơ chế vận hành tương tự quyền chọn chứng khoán. 1.2.3 Những điều kiện cần thiết để áp dụng quyền chọn chỉ số giá chứng khoán Điều kiện chung về sự phát triển thị trường chứng khoán Một trong những điều kiện quan trọng nhất để áp dụng quyền chọn chỉ số giá chứng khoán vào TTCK là TTCK phải phát triển đến một mức độ nhất định với các biểu hiện: 9 Số lượng công ty niêm yết và có nhiều công ty cổ phần đại chúng lớn 9 Hệ thống cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin hiện đại 9 Chất lượng dịch vụ của công ty chứng khoán, cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích cho khách hàng 9 Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán nhiều 9 Tính thanh khoản trên thị trường cao 9 Mức vốn hóa của thị trường lớn Qua thời gian, NĐT sẽ trải qua nhiều rủi ro trước sự biến động khó lường của TTCK. Khi đó NĐT sẽ phát sinh nhu cầu bảo hiểm rủi ro và nhu cầu sử dụng quyền chọn để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh là tất yếu. Bên cạnh đó, khi TTCK phát - 14 triển, nhu cầu cần có thêm các chứng khoán phái sinh nói chung và quyền chọn nói riêng để thực hiện đầu tư ngày càng cần thiết để NĐT đa dạng hóa kênh đầu tư, nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Điều kiện về pháp lý: Để triển khai hợp đồng quyền chọn chỉ số giá chứng khoán thì về mặt pháp lý, cần có luật chứng khoán hoàn chỉnh. Ngoài ra để điều chỉnh hành vi các chủ thể liên quan đến hợp đồng này, nhất thiết phải có luật về chứng khoán phái sinh trong đó cần làm rõ các khái niệm, quy định về quyền chọn và giao dịch quyền chọn cũng như làm rõ quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ thể trên thị trường. Điều kiện minh bạch thông tin: Các thông tin trên thị trường sẽ được phản ánh nhanh chóng vào giá cả của chứng khoán trên thị trường và được chuyển hóa bằng sự thay đổi trong chỉ số giá chứng khoán từ đó tác động đến hành vi NĐT. Giao dịch quyền chọn chỉ số giá chứng khoán dựa trên sự biến động của tài sản cơ sở do đó khi thông tin không chính xác sẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, trục lợi cho một nhóm người trên thị trường. Do vậy, điều kiện cần thiết để xây dựng và phát triển quyền chọn chỉ số giá chứng khoán là phải có quy định rõ ràng công khai, minh bạch thông tin và trách nhiệm công bố thông tin. Điều kiện minh bạch thông tin sẽ giúp sự phát triển của thị trường lành mạnh, bền vững Điều kiện kỹ thuật Điều kiện kỹ thuật để xây dựng và phát triển thị trường quyền chọn chỉ số giá chứng khoán bao gồm các vấn đề cơ bản về hệ thống cơ sở hạ tầng, kỹ thuật giao dịch, kỹ thuật hạch toán, điều khoản thanh toán… Để xây dựng thị trường theo hướng tập trung thì về mặt kỹ thuật cần đồng bộ và hệ thống công nghệ thông tin phải được hoàn thiện Điều kiện về con người: Tất cả các điều kiện trên có thực hiện được không tất cả đều xuất phát từ điều kiện con người. Để xây dựng và phát triển thị trường quyền chọn chỉ số giá chứng khoán thì cần thiết phải có những con người am hiểu về thị trường chứng khoán và các lĩnh vực kinh tế liên quan. Con người là nhân tố tác động trực tiếp đến nhu cầu hình thành, phát triển thị trường. 1.2.4 Yếu tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn chỉ số chứng khoán Giá quyền chọn cổ phiếu thay đổi liên tục, phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng