Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng pháp luật về mua bán, sáp nhập các tổ chức tín dụng ở việt nam luận vă...

Tài liệu Xây dựng pháp luật về mua bán, sáp nhập các tổ chức tín dụng ở việt nam luận văn ths. luật

.PDF
127
552
50

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH HUYỀN XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH HUYỀN XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Thu Thủy HÀ NỘI - 2013 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các sơ đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP TỔ 6 CHỨC TÍN DỤNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề cơ bản về mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng 6 1.1.1. Quan niệm về mua bán và sáp nhập doanh nghiệp 6 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng 16 1.1.3. Phân loại mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng 23 1.1.4. Sự cần thiết phải xây dựng pháp luật về mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng 24 1.1.5. Các nguyên tắc mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng 29 Các quy định pháp luật việt nam về mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng 33 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng ở Việt Nam 33 1.2.2. Trình tự, thủ tục mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng 36 1.2.3. Chủ thể tham gia hoạt động mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng 44 1.2.4. Định giá tài sản khi mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng 50 1.2. 3 1.2.5. Hợp đồng mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN, SÁP NHẬP TỔ 54 57 CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP TỔ CHỨC TÍN DỤNG CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Thực trạng hoạt động mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng ở Việt Nam 57 2.1.1. Thực trạng hoạt động mua bán, sáp nhập ngân hàng 57 2.1.2. Đánh giá chung về hoạt động mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng 66 Kinh nghiệm pháp luật về mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng của một số nước trên thế giới 72 2.2. 2.2.1. Tại Mỹ 72 2.2.2. Tại Hàn Quốc 89 2.2.3. Một số bài học kinh nghiệm 96 Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN 101 PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 3.1. Nhu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng ở Việt Nam 101 3.2. Các giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng ở Việt Nam 103 3.2.1. Ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp nói chung 103 3.2.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng 104 KẾT LUẬN 115 4 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 5 117 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HĐQT : Hội đồng quản trị M&A : Hoạt động mua bán và sáp nhập NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần TCTD : Tổ chức tín dụng TNHH : Trách nhiệm hữu hạn 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Các giao dịch M&A trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 59 bảng 2.1 (1991-2004) 2.2 Quy định vốn pháp định đối với NHTM 60 2.3 Tỷ lệ nắm giữ cổ phần NHTMCP nội địa của một số tổ 61 chức nước ngoài (tính đến hết tháng 9/2008) 2.4 Hoạt động nắm giữ cổ phần chéo giữa các ngân hàng 62 trong nước 2.5 So sánh chi phí giữa việc tiến hành chi trả tiền gửi và tiến 80 hành M&A Ngân hàng Indy Mac 2.6 Danh sách 5 thương vụ M&A Ngân hàng Mỹ lớn nhất (2008) 83 2.7 Kết quả thử nghiệm chi phí tối thiểu 95 7 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Số hiệu Tên sơ đồ Trang sơ đồ 2.1 Cơ cấu tổ chức của các cơ quan giám sát tại Hoa Kỳ 73 2.2 Mạng an toàn tài chính của Hàn Quốc 89 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên thế giới, hoạt động mua bán và sáp nhập ("M&A") xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX, là hoạt động kinh doanh và quản trị không còn xa lạ ở các nước có nền kinh tế phát triển. Tại một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, hoạt động M&A vẫn còn tương đối mới mẻ và là cơ hội đầu tư cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. M&A không những là kênh thu hút vốn đầu tư, là cách thức giúp các doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, trình độ quản lý chuyên nghiệp, mà còn là cơ hội để các sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp nước ngoài và nhanh chóng xâm nhập vào thị trường quốc tế. Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới tiếp tục chứng kiến một làn sóng M&A mới dưới những hình thức đa dạng và quy mô lớn chưa từng có. M&A được coi là một trong những biện pháp hiệu quả nhất của hoạt động đầu tư bởi hoạt động này tiết kiệm được nguồn lực, thời gian và đem lại hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Mục tiêu của hoạt động M&A trong lĩnh vực này là nhằm hướng đến việc tối đa hóa lợi nhuận, đa dạng hóa sản phẩm và giảm rủi ro cho chủ sở hữu, hoặc gia tăng các lợi ích cho các nhà quản trị, cũng như có thể xuất phát từ mục tiêu của Chính phủ nhằm tái cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp trong các cuộc khủng hoảng. Đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam, đa số các tổ chức tín dụng (TCTD) trong nước đều có quy mô nhỏ với vốn điều lệ thấp, chất lượng dịch vụ chưa cao, mạng lưới chi nhánh chưa rộng khắp, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như quản lý điều hành, đội ngũ cán bộ còn thua kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Với một thực tế như vậy, các TCTD trong nước khó có đủ năng lực để cạnh tranh với các TCTD nước 9 ngoài, đặc biệt trong thời kỳ Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện lộ trình tự do hóa lĩnh vực tài chính theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nhận thức rõ những khó khăn mà các TCTD trong nước sẽ phải đối mặt trong giai đoạn này, Chính phủ Việt Nam đã xác định tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là điều hết sức cần thiết và cấp bách. Trong đó, M&A được coi là một trong những biện pháp được áp dụng phổ biến và phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Mặc dù hoạt động này đã diễn ra khá phổ biến tại nhiều quốc gia, nhưng tại Việt Nam, nó mới chỉ phát triển trong những năm gần đây. Trong thời gian qua, cũng phải nhận thấy rằng, pháp luật về M&A đã được Chính phủ quan tâm xây dựng và được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Chứng khoán, Thông tư số 04/2010/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 11/02/2010 về việc quy định sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD (sau đây gọi tắt là Thông tư số 04/2010/TT-NHNN), nhưng vẫn chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh và thống nhất. Hơn nữa, tại Việt Nam cũng chưa có một cơ quan chuyên môn nào trực tiếp quản lý hoạt động M&A, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Vì vậy, để hoạt động M&A đi vào nề nếp và là một kênh đầu tư quan trọng đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, tác giả chọn đề tài: "Xây dựng pháp luật về mua bán, sáp nhập các tổ chức tín dụng ở Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ của mình. Qua nghiên cứu, tác giả mong muốn không những làm rõ sự cần thiết phải xây dựng pháp luật về mua bán, sáp nhập TCTD ở Việt Nam, cung cấp bức tranh về thực trạng hoạt động mua bán, sáp nhập TCTD ở Việt Nam, mà còn đưa ra kinh nghiệm pháp luật về mua bán, sáp nhập các TCTD tại một số quốc gia trên thế giới; đồng thời, đưa ra giải pháp xây dựng, hoàn thiện pháp luật về mua bán, sáp nhập TCTD để giúp hoạt động này diễn ra lành mạnh và hiệu quả hơn tại thị trường Việt Nam. 10 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về đề tài xây dựng pháp luật về mua bán, sáp nhập các TCTD ở Việt Nam, qua tìm hiểu tác giả được biết đã có một số các bài viết liên quan đến vấn đề pháp lý về mua bán và sáp ngân hàng được đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng, như bài viết: "Khung pháp lý về mua lại và sáp nhập Ngân hàng thương mại ở Việt Nam" của tác giả Phạm Minh Sơn, trên trang web http://www.moj.gov.vn, năm 2013, hay bài viết: "Hành lang pháp lý liên quan đến sáp nhập và thâu tóm ngân hàng ở Việt Nam" của ThS.Bùi Thanh Lam - Ngân hàng FPT, trên trang web http://luatminhkhue.vn, nhưng chưa có luận văn thạc sĩ hoặc luận án tiến sĩ nào nghiên cứu đề tài xây dựng pháp luật về mua bán và sáp nhập các TCTD ở Việt Nam một cách cụ thể. Các bài viết này mặc dù cũng phân tích các quy định của pháp luật về mua bán, sáp nhập ngân hàng và một số thực trạng, giải pháp, nhưng mới chỉ dừng lại ở những nhận định mang tính chất chung chung, chưa đi sâu phân tích cụ thể nội dung pháp luật về mua bán, sáp nhập TCTD ở Việt Nam. Trong phạm vi luận văn này, tác giả đưa ra một cái nhìn tổng quát về các quy định của pháp luật đối với hoạt động mua bán, sáp nhập các TCTD tại Việt Nam và của một số nước trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và giải pháp hoàn thiện việc xây dựng pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ sự cần thiết phải xây dựng pháp luật về mua bán, sáp nhập TCTD ở Việt Nam, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về mua bán, sáp nhập các TCTD và nghiên cứu về một số thương vụ thực tế đối với mua bán, sáp nhập TCTD tại Việt Nam cũng như một số quốc gia trên thế giới để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp xây dựng, hoàn thiện pháp luật về mua bán và sáp nhập các TCTD ở Việt Nam. 11 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật và thực trạng hoạt động M&A đối với các TCTD tại Việt Nam hiện nay. Trên thực tế, hoạt động M&A chủ yếu tập trung vào trong lĩnh vực ngân hàng. Vì vậy, luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động M&A đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) để từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về mua bán, sáp nhập các TCTD tại Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động M&A đối với các TCTD có nhiều nội dung khác nhau và bao quát một lĩnh vực rất rộng, không thể trình bày hết trong luận văn. Vì vậy, luận văn này giới hạn nghiên cứu về quy định của pháp luật hiện hành đối với hoạt động mua bán và sáp nhập NHTM, thực trạng hoạt động M&A tại Việt Nam và kinh nghiệm pháp lý về hoạt động này của một số quốc gia trên thế giới. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được viết trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận, thực tiễn được các nhà nghiên cứu đi trước đưa ra, những tài liệu được công bố trên tạp chí, bài viết, bài báo, báo cáo tổng kết và các tài liệu, các nguồn từ nước ngoài. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp: Dựa trên việc thu thập số liệu về một số thương vụ trên thế giới, từ đó phân tích đưa ra những đánh giá, nhận định đối với thực trạng M&A trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại một số quốc gia và rút ra những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Tuy nhiên, do thị trường M&A ở Việt Nam cũng khá mới mẻ, việc kiểm soát và quản lý còn nhiều khoảng trống nên các số liệu thống kê chỉ 12 mang tính chất tương đối. Đồng thời, do đặc tính của những thương vụ M&A trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng phải yêu cầu độ bảo mật cao nên việc thu thập thông tin chi tiết các vấn đề liên quan đến một số thương vụ cụ thể gặp nhiều khó khăn. Trong tương lai, khi hoạt động của thị trường M&A đi vào ổn định, có sự quản lý, kiểm soát, công bố thông tin rõ ràng và minh bạch thì việc phân tích hoạt động M&A trên thị trường nói chung sẽ được thực hiện một cách rõ ràng hơn. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả mong muốn góp phần nghiên cứu làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, TCTD, trong đó có sự cần thiết phải xây dựng pháp luật về mua bán, sáp nhập TCTD ở Việt Nam; pháp luật về mua bán, sáp nhập TCTD tại Việt Nam và sau khi nghiên cứu pháp luật về mua bán, sáp nhập TCTD của một số nước trên thế giới để từ đó đưa ra những giải pháp xây dựng, hoàn thiện pháp luật về mua bán, sáp nhập các TCTD ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng và các quy định pháp luật về mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng hoạt động mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng ở Việt Nam và kinh nghiệm pháp luật về mua bán, sáp nhập tổ chức tín dụng của một số nước trên thế giới. Chương 3: Một số đề xuất nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về mua bán, sáp nhập các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. 13 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1.1.1. Quan niệm về mua bán và sáp nhập doanh nghiệp Khái niệm về M&A hiện đang được định nghĩa theo các tiêu chí khác nhau (trong các tài liệu như Mergers, Consolidation, Acquitions, Leverged Buyouts, Takeovers (friendly/hostile), Management Buyouts, Share-Due, Asset-Due...), nhưng đều có nội dung về quan hệ sáp nhập, hợp nhất hoặc thâu tóm giữa các doanh nghiệp với mong muốn tìm kiếm, mở rộng thị trường, nâng cao quy mô doanh nghiệp. M&A cũng góp phần "làm sạch" thị trường đối với những doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản, hoặc những doanh nghiệp cần phải được đầu tư về vốn, quản trị, công nghệ... từ các doanh nghiệp khác. Hơn nữa, cũng như quy luật của sự phát triển, các doanh nghiệp không chỉ chọn giải pháp phát triển "tự sinh" thông qua việc tự thành lập các doanh nghiệp trực thuộc, mà còn thông qua các biện pháp phát triển "ngoại sinh" với việc sáp nhập, thâu tóm doanh nghiệp khác. M&A (viết tắt của cụm từ tiếng Anh Mergers and Acquisitions) có nghĩa là mua bán và sáp nhập. M&A thể hiện hoạt động của hai doanh nghiệp kết hợp lại với nhau nhằm đạt được những mục tiêu đã được xác định trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. M&A là một trong các hình thức đầu tư có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với trực tiếp hai doanh nghiệp, mà còn đối với các đối tượng khác như người quản lý, người lao động, đối thủ cạnh tranh của các bên, thậm chí cả đối với cộng đồng và nền kinh tế của mỗi 14 quốc gia. Trên thực tế, hoạt động M&A xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX, là hoạt động không còn xa lạ ở các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Dưới góc độ kinh tế, M&A được định nghĩa như sau: Mergers (sáp nhập) xảy ra khi hai công ty, thường là các công ty có cùng quy mô, đồng ý tiến tới thành lập một công ty mới mà không duy trì sở hữu và hoạt động của các công ty thành phần. Chứng khoán của các công ty thành phần sẽ bị xóa bỏ và công ty mới sẽ phát hành chứng khoán thay thế. Các công ty bị sáp nhập sẽ chấm dứt hoạt động, công ty mới được thành lập và phát hành chứng khoán thay thế. Acquisitions (mua lại) là hoạt động thông qua đó, các công ty tìm kiếm lợi nhuận kinh tế nhờ quy mô, hiệu quả và khả năng chiếm lĩnh thị trường. Khác với sáp nhập, các công ty thâu tóm sẽ mua công ty mục tiêu, không có sự thay đổi về chứng khoán hoặc sự hợp nhất thành công ty mới. Dưới góc độ pháp lý, công ty mục tiêu bị chấm dứt tồn tại và công ty mua sẽ nuốt chửng hoạt động kinh doanh của công ty mục tiêu và chứng khoán của công ty mua vẫn tiếp tục được giao dịch. Công ty mục tiêu sẽ chấm dứt hoạt động và chứng khoán của công ty thâu tóm vẫn được giao dịch bình thường [39]. Theo định nghĩa kỹ thuật của David L.Scott, viết trong cuốn Wall Street Words: An A to Z Guide to Investment Term for Today’s Investor thì: Sáp nhập: là sự kết hợp của hai hay nhiều công ty, trong đó có tài sản và trách nhiệm pháp lý của (những) công ty được công ty khác tiếp nhận. Mặc dù công ty mua lại có thể làm một tổ chức khác đi rất nhiều sau quá trình mua lại, nhưng nó vẫn là thực thể ban đầu. Mua lại: là quá trình mua lại tài sản như máy móc, một bộ phận hay thậm chí là toàn bộ công ty. 15 Từ định nghĩa trên có thể thấy mặc dù có nhiều điểm tương đồng, nhưng Mergers and Acquisitions có những điểm khác nhau có thể phân biệt được. Khi một công ty mua lại (tiếp quản) một công ty khác và đặt mình vào vị trí chủ sở hữu mới thì thương vụ đó được gọi là mua bán. Công ty bị mua lại sẽ chấm dứt tồn tại, trong khi cổ phiếu của công ty mua lại vẫn tiếp tục giao dịch bình thường. Trên thực tế, không phải bất cứ lúc nào một thương vụ mua lại cũng sẽ chấm dứt sự tồn tại của công ty mục tiêu, trường hợp này chỉ xảy ra khi công ty đi mua mua lại toàn bộ tài sản của công ty mục tiêu (được gọi là hình thức buy-out), phần lớn những thương vụ mua lại là mua lại một phần tài sản hoặc vốn cổ phần của công ty mục tiêu, khi đó công ty mục tiêu vẫn hoạt động bình thường, chỉ có điều phần tài sản bị mua sẽ thuộc về công ty đi mua. Trong trường hợp mua lại cổ phần thì công ty đi mua sẽ trở thành một cổ đông của công ty mục tiêu. Đối với sáp nhập, hiểu theo nghĩa hẹp, là giao dịch trong đó một hoặc một số doanh nghiệp từ bỏ pháp nhân của mình để gia nhập vào một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập. Sau khi việc sáp nhập hoàn thành thì doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình. Hiểu theo nghĩa rộng, sáp nhập doanh nghiệp bao gồm cả việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới; đồng thời, chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp trước sáp nhập. Sáp nhập theo nghĩa rộng, bao gồm cả hợp nhất. Trong trường hợp này thì cổ phiếu của hai công ty được thay thế bằng cổ phiếu của công ty mới. Vậy, có thể thấy, quan niệm phổ biến về M&A trên thế giới được hiểu bao gồm không chỉ sáp nhập, mua lại, mà bao gồm cả hợp nhất và giành quyền kiểm soát đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nếu phân tích về sáp nhập, hợp nhất thì đây không phải là hoạt động đầu tư theo nghĩa thông 16 thường, mà về bản chất đó là sự tối ưu hóa đầu tư. Chỉ mua lại, giành quyền kiểm soát mới thực sự là bỏ vốn để tiến hành hoạt động đầu tư. Tại Việt Nam, hiện tại chưa có một khung pháp lý hoàn chỉnh và thống nhất điều chỉnh hoạt động M&A. Theo đó, khái niệm về mua lại, sáp nhập được quy định rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, chính việc này đã gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp muốn thực hiện hoạt động M&A. Trên thực tế, quy định về M&A tồn tại trong Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh. Dưới đây là các quy định về M&A trong từng văn bản pháp luật cụ thể. Luật Doanh nghiệp Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, hoạt động mua bán và sáp nhập được xem là hình thức của hoạt động cơ cấu, tổ chức lại doanh nghiệp. Cụ thể, Điều 153 quy định: Sáp nhập doanh nghiệp là việc: Một hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập [19]. Khái niệm hai công ty cùng loại trong điều kiện trên được hiểu theo nghĩa là các công ty cùng loại hình doanh nghiệp. Ở đây công ty cùng loại theo quy định của pháp luật là cùng có loại hình giống nhau như cùng là Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên, hai thành viên trở lên, Công ty cổ phần hoặc Công ty hợp danh. Như vậy, điều kiện tiên quyết để có một vụ sáp nhập là hai doanh nghiệp phải cùng loại hình và có sự chấm dứt hoạt động của một bên tham gia. Hiện nay, Luật Doanh nghiệp mới chỉ quy định về mua bán/mua lại doanh nghiệp tư nhân tại Điều 145 như sau: 17 1. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác. Chậm nhất mười lăm ngày trước ngày chuyển giao doanh nghiệp cho người mua, chủ doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh.... 2. Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác [19]. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác như công ty TNHH, Công ty cổ phần, Luật Doanh nghiệp chỉ quy định về việc mua bán/chuyển nhượng phần vốn góp hoặc mua bán/chuyển nhượng cổ phần, cụ thể như sau: Đối với Công ty TNHH, việc mua bán/chuyển nhượng phần vốn góp được quy định tại Điều 44. Theo đó: Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định sau đây: 1. Phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện; 2. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày chào bán [19]. Đối với Công ty cổ phần, việc mua bán/chuyển nhượng phần cổ phần được quy định tai Điều 87. Theo đó, điều khoản này quy định như sau: 1. Hội đồng quản trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán cổ phần trong số cổ phần được quyền chào bán. Giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm 18 chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất, trừ những trường hợp sau đây: ... 2. Trường hợp công ty phát hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán số cổ phần đó cho tất cả cổ đông phổ thông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty thì phải thực hiện theo quy định sau đây: … 5. Các cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng văn bản theo cách thông thường hoặc bằng cách trao tay cổ phiếu. Giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Bên chuyển nhượng vẫn là người sở hữu cổ phần có liên quan cho đến khi tên của người nhận chuyển nhượng được đăng ký vào sổ đăng ký cổ đông. Trường hợp chỉ chuyển nhượng một số cổ phần trong cổ phiếu có ghi tên thì cổ phiếu cũ bị hủy bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số cổ phần còn lại... [19]. Từ các quy định nêu trên, có thể nhận thấy một số điểm khác biệt trong việc mua bán doanh nghiệp tư nhân và mua bán/chuyển nhượng phần vốn góp/cổ phần như sau: Về mặt thủ tục, việc mua bán/chuyển nhượng phần vốn góp/cổ phần có thể được thực hiện đối với một phần hoặc toàn bộ vốn góp/cổ phần của doanh nghiệp, trong khi việc bán doanh nghiệp tư nhân là bán toàn bộ doanh nghiệp. Điểm khác biệt này xuất phát từ đặc điểm về cơ cấu chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân là một chủ, chịu trách nhiệm đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. Đối với công ty TNHH hoặc công ty cổ phần có thể có nhiều chủ sở hữu, mỗi chủ sở hữu chỉ chịu TNHH trong phạm vi phần vốn 19 góp/cổ phần của mình. Riêng đối với công ty TNHH một thành viên (chủ sở hữu là một tổ chức hoặc một cá nhân) thì vẫn có thể chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của chủ sở hữu đó cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Về tính chịu trách nhiệm, đối với hoạt động mua bán doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm toàn bộ về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác. Còn đối với công ty TNHH/ công ty cổ phần thì sau khi thực hiện xong việc mua bán/chuyển nhượng phần vốn góp/cổ phần thì các bên sẽ không còn trách nhiệm gì với nhau. Như trên đã phân tích, một trong những mục tiêu lớn nhất của M&A là nhà đầu tư mới/cổ đông mới của doanh nghiệp mong muốn giành quyền kiểm soát doanh nghiệp ở mức độ nhất định, không đơn thuần là sở hữu một phần vốn góp hay cổ phần của doanh nghiệp như các nhà đầu tư nhỏ, lẻ. Vì vậy, khi một nhà đầu tư mới/cổ đông mới đạt được mức sở hữu phần vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp đủ để tham gia, quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thì khi đó mới có thể coi đây là hoạt động M&A. Ngược lại, khi nhà đầu tư sở hữu phần vốn góp, cổ phần không đủ để quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thì đây chỉ được coi là hoạt động đầu tư thông thường. Như vậy, đối với việc mua lại toàn bộ doanh nghiệp của nhà đầu tư (áp dụng doanh nghiệp tư nhân) thì coi như chủ đầu tư đã kiểm soát toàn bộ doanh nghiệp, có thể coi là hoạt động M&A. Trường hợp của công ty TNHH/ công ty cổ phần sẽ xảy ra các trường hợp sau đây: Thứ nhất, đối với việc mua lại toàn bộ phần vốn góp/cổ phần thì nhà đầu tư mới/cổ đông mới có quyền kiểm soát toàn bộ doanh nghiệp. Mục đích của M&A coi như đã đạt được. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan