BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thùy Linh
XÂY DỰNG E-LEARNING CHƯƠNG “LIÊN KẾT
HÓA HỌC VÀ CẤU TẠO PHÂN TỬ” HỌC PHẦN
HÓA ĐẠI CƯƠNG TRƯỜNG CAO ĐẲNG
GIAO THÔNG VẬN TẢI 3
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Hóa Học
Mã số
: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ PHI THÚY
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin gởi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
TS. Lê Phi Thúy, người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình thực
hiện luận văn cao học và tạo mọi điều kiện để tác giả có thể hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng Khoa học Công
nghệ - Sau đại học, các Thầy Cô Khoa Hóa học trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành luận
văn đúng thời hạn.
Tác giả xin cảm ơn các bạn cùng lớp đã luôn đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ,
động viên nhau trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên trong thời gian học tập, nghiên cứu để tác giả có thể
hoàn thành luận văn này.
Nguyễn Thị Thùy Linh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNTT&TT
:
Công nghệ thông tin và truyền thông
CBT
:
Computer Base Training (đào tạo trên cở sở máy tính)
ĐC
:
Đối chứng
ĐHQG
:
Đại học Quốc gia
GV
:
Giảng viên
HĐC
:
Hóa đại cương
LKHH&CTPT
:
Liên kết hoá học và cấu tạo phân tử
LMS
:
Learning Management System hệ thống quản lý khóa
học)
SCORM
:
Sharable Content Object Reference Model (là một
chuẩn đóng gói nội dung giáo dục)
SV
:
Sinh viên
Tkđ
:
Đại lượng kiểm định T (Student)
T, k
:
Giá trị T tra theo bảng với mức ý nghĩa α và bậc tự do k
TP.HCM
:
Thành phố Hồ Chí Minh
TN
:
Thực nghiệm
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
E-learning là một phương thức dạy học mới dựa trên công nghệ thông tin và
truyền thông (CNTT&TT). Với e-learning, việc học là linh hoạt và mở. Người học
có thể học bất kì lúc nào, bất kì ở đâu, với bất kì ai, học những vấn đề bản thân quan
tâm, phù hợp với năng lực và sở thích, phù hợp với yêu cầu công việc… mà chỉ cần
có phương tiện là máy tính và mạng Internet. E-learning là một giải pháp hữu hiệu
để giải quyết vấn đề đặt ra hiện nay: việc học tập không chỉ bó gọn trong học ở phổ
thông, ở học đại học mà là học suốt đời. Phương thức học tập này có tính tương tác
cao, sẽ hỗ trợ và bổ sung cho các phương thức đào tạo truyền thống góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy.
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO khi nền kinh tế thế giới
đang bước vào giai đoạn kinh tế tri thức. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả chất lượng
giáo dục đào tạo là một trong những nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
đất nước và cá nhân. E-learning sẽ là một phương thức dạy và học rất phù hợp trong
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu xã hội khi nước
ta gia nhập WTO.
E-learning thuộc mô hình giáo dục “tri thức”, là mô hình giáo dục hiện đại
nhất, hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của CNTT&TT là
mạng Internet. Mô hình này đã tạo ra những yếu tố thay đổi sâu sắc trong giáo dục:
yếu tố thời gian và không gian sẽ không còn bị ràng buộc chặt chẽ, sinh viên (SV)
tham gia học tập mà không cần đến trường đại học. Sự chuyển giao tri thức không
còn chiếm vị trí hàng đầu của giáo dục, SV phải học cách truy tìm thông tin bản
thân cần, đánh giá và xử lý thông tin để biến thành tri thức qua giao tiếp.
E-learning đang là xu hướng chung của giáo dục thế giới. Việc triển khai
e-learning trong giáo dục đào tạo là một hướng đi tất yếu nhằm đưa giáo dục Việt
Nam tiếp cận với nền giáo dục thế giới.
SV Việt Nam nói chung và SV trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 (CĐ
GTVT3) nói riêng, hiện tại vẫn quen với cách học truyền thống: thụ động, chưa tự
mình tìm đến kiến thức, chưa học theo nhu cầu, năng lực, sở thích thật sự của bản
thân. Vì vậy, việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cần bao gồm cả
việc giúp SV tiếp cận với cách học chủ động, tự tìm hiểu, tự kiểm tra đánh giá, tích
cực trao đổi với giảng viên (GV), bạn bè. E-learning là một trong những phương
thức giúp SV chủ động về thời gian học tập, nội dung học tập, khối lượng kiến thức,
tự kiểm tra đánh giá, dễ dàng trao đổi thông tin…
Tin học hóa quản lý đào tạo và giáo dục đang là xu hướng chung trong giáo
dục đào tạo ở Việt Nam, và trường CĐ GTVT3 cũng không ngoại lệ. Việc xây dựng
e-learning với mục đích đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng đầu ra
của SV không nằm ngoài mục tiêu của trường.
Hiện nay có rất nhiều trường đại học đầu tư xây dựng chương trình e-learning,
tuy nhiên phần lớn là cho các chuyên ngành kinh tế, ngoại ngữ, tin học… Số trường
sử dụng kết hợp e-learning với phương pháp truyền thống trong việc dạy học bộ
môn Hóa đại cương (HĐC) là rất ít và đang ở giai đoạn hình thành.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “XÂY DỰNG
E-LEARNING CHƯƠNG “LIÊN KẾT HÓA HỌC VÀ CẤU TẠO PHÂN TỬ”
HỌC PHẦN HÓA ĐẠI CƯƠNG TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN
TẢI 3”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng e-learning chương liên kết hóa học và cấu tạo phân tử
(LKHH&CTPT) thuộc học phần HĐC trường CĐ GTVT3, nhằm nâng cao chất
lượng học tập và góp phần đưa SV tiếp cận với phương thức học tập hiện đại dựa
trên CNTT&TT.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học bộ môn HĐC ở trường Đại học, Cao
đẳng.
Đối tượng nghiên cứu: chương trình e-learning chương “LKHH&CTPT” học
phần HĐC ở trường CĐ GTVT3.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Để thực hiện đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu những đặc điểm cơ bản và cách thức khai thác, ứng dụng elearning.
Nghiên cứu cơ sở lý luận việc dạy và học bằng e-learning, cách thức
xây dựng chương trình e-learning.
Nghiên cứu phương pháp dạy và học HĐC bằng e-learning.
Xây dựng chương trình e-learning chương “LKHH&CTPT” dùng dạy
học học phần HĐC trường CĐGTVT3.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm xác định hiệu quả của đề tài và
đề xuất việc ứng dụng e-learning trong dạy học HĐC.
5. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn nội dung vấn đề nghiên cứu: xây dựng e-learning hỗ trợ việc dạy học
HĐC với nội dung thuộc chương “LKHH&CTPT” chương trình HĐC trường CĐ
GTVT3.
Đối tượng thực nghiệm: SV trường CĐ GTVT3.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng kết hợp e-learning với phương pháp dạy học truyền thống một
cách có hiệu quả sẽ giúp SV tiếp cận với phương thức học tập hiện đại, làm nền
tảng cho việc xây dựng toàn bộ chương trình e-learning HĐC, góp phần nâng cao
chất lượng học tập bộ môn HĐC ở trường CĐ GTVT3 nói riêng cũng như các
trường đại học cao đẳng nói chung.
7. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận:
Đọc và nghiên cứu về lý luận dạy học dựa trên CNTT&TT, hệ thống
quản lý học tập, nghiên cứu tài liệu về cách thức, phương pháp xây dựng
chương trình e-learning.
Đọc và nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học đại học, tâm lý học,
đặc biệt tâm lý khi học bằng phương tiện máy tính và mạng internet và các
tài liệu khoa học khác liên quan đến đề tài.
Phân tích và tổng hợp lý thuyết.
Nghiên cứu thực tiễn, các điều tra cơ bản:
Dùng phiếu điều tra thăm dò hiểu biết của SV về e-learning.
Thăm dò ý kiến SV trường CĐ GTVT3 sau khi học chương
LKHH&CTPT bằng cách kết hợp giữa phương pháp truyền thống với
e-learning.
Dùng phiếu điều tra thăm dò ý kiến của GV về website e-learning HĐC.
Thực nghiệm sư phạm: tiến hành lên lớp có kết hợp e-learning và không kết
hợp e-learning để so sánh kết quả học tập.
Tổng hợp, xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê toán học.
8. Điểm mới của luận văn
Nghiên cứu đưa ra cách thức xây dựng chương trình e-learning cho bộ môn
HĐC.
Nghiên cứu về việc dạy học kết hợp e-learning với phương thức dạy học
truyền thống.
Đánh giá sơ bộ chương trình e-learning, tâm lý SV khi học với e-learning, từ
đó đưa ra những đóng góp cho cách thức xây dựng chương trình e-learning HĐC và
cách thức dạy học HĐC bằng e-learning phù hợp hơn, hiệu quả hơn.
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Lịch sử phát triển của e-learning [12]
Thuật ngữ e-learning đã trở nên quen thuộc trên thế giới trong một vài thập kỷ
gần đây. Cùng với sự phát triển của Tin học và mạng truyền thông, các phương thức
giáo dục, đào tạo ngày càng được cải tiến nhằm nâng cao chất lượng, tiết kiệm thời
gian và tiền bạc cho người học. Ngay từ khi mới ra đời, e-learning đã xâm nhập vào
hầu hết các hoạt động huấn luyện đào tạo của các nước trên thế giới. Tập đoàn dữ
liệu quốc tế nhận định rằng sẽ có một sự phát triển bùng nổ trong lĩnh vực elearning. Và điều đó đã được chứng minh qua sự thành công của các hệ thống thống
giáo dục hiện đại có sử dụng phương pháp e-learning của nhiều quốc gia như Mỹ,
Anh, Nhật,…
Gắn với sự phát triển của công nghệ thông tin và phương pháp giáo dục đào
tạo, quá trình phát triển của e-learning có thể chia ra thành 4 thời kỳ như sau:
Trước năm 1983: thời kì này máy tính chưa được sử dụng rộng rãi,
phương pháp giáo dục “Lấy GV làm trung tâm” là phương pháp phổ biến
nhất trong các trường đại học.
Giai đoạn 1984 – 1993: sự ra đời của hệ điều hành Windows 3.1, máy
tính Macintosh, phần mềm trình diễn Powerpoint, cùng các công cụ đa
phương tiện khác đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên đa phương tiện.
Những công cụ này cho phép tạo ra những bài giảng có tích hợp âm thanh
và hình ảnh dựa trên công nghệ Computer Base Training (CBT). Bài học
được phân phối qua đĩa CD-ROM hoặc đĩa mềm. Vào bất kì thời gian nào,
ở đâu, người học đều có thể mua và tự học. Tuy nhiên, sự hướng dẫn của
GV là rất hạn chế.
Giai đoạn 1993 – 1999: khi công nghệ web được phát minh, các nhà
cung cấp dịch vụ giáo dục đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiến
phương pháp giáo dục bằng công nghệ này. Các chương trình: Email, Web,
trình duyệt, Media player, kỹ thuật truyền Audio/Video tốc độ thấp cùng
với ngôn ngữ hỗ trợ Web như HTML, JAVA bắt đầu trở nên thông dụng và
đã làm thay đổi bộ mặt của đào tạo bằng đa phương tiện.
Giai đoạn 2000 – đến nay: các công nghệ tiên tiến bao gồm JAVA và
các ứng dụng mạng IP, công nghệ truy cập mạng và băng thông Internet
rộng, các công nghệ thiết kế web tiên tiến đã trở thành một cuộc cách mạng
trong giáo dục và đào tạo. Ngày nay thông qua web, GV có thể hướng dẫn
trực tuyến (hình ảnh, âm thanh, các công cụ trình diễn) tới mọi người học.
Càng ngày công nghệ web càng chứng tỏ có khả năng mang lại hiệu quả
cao trong giáo dục đào tạo, cho phép đa dạng hóa các môi trường học tập.
Điều này đã tạo ra một cuộc cách mạng trong đào tạo với giá thành rẻ, chất
lượng cao và hiệu quả. Đó chính là kỷ nguyên của e-learning.
1.1.2. Tình hình phát triển và ứng dụng e-learning trên thế giới [28], [32], [37]
E-learning phát triển không đồng đều tại các khu vực trên thế giới. E-learning
phát triển mạnh nhất ở khu vực Bắc Mỹ, tiếp đến là ở châu Âu, ở châu Á ít ứng
dụng công nghệ này.
Tại Mỹ, e-learning đã nhận được sự ủng hộ và các chính sách trợ giúp của
Chính phủ ngay từ cuối những năm 90. Theo số liệu thống kê của Hội Phát triển và
Đào tạo Mỹ (American Society for Training and Development, ASTD), năm 2000
Mỹ có gần 47% các trường đại học, cao đẳng đã đưa ra các dạng khác nhau của mô
hình đào tạo từ xa, tạo nên 54.000 khoá học trực tuyến. E-learning không chỉ được
triển khai ở các trường đại học mà ngay ở các công ty việc xây dựng và triển khai
cũng diễn ra rất mạnh mẽ. Có rất nhiều công ty thực hiện việc triển khai e-learning
thay cho phương thức đào tạo truyền thống và đã mang lại hiệu quả cao. Do thị
trường rộng lớn và sức thu hút mạnh mẽ của e-learning nên hàng loạt các công ty đã
chuyển sang hướng chuyên nghiên cứu và xây dựng các giải pháp về e-learning
như: Click2Learn, Global Learning Systems, Smart Force...
Trong những năm gần đây, châu Âu đã có một thái độ tích cực đối với việc
phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc
biệt là ứng dụng trong hệ thống giáo dục. Các nước trong Cộng đồng châu Âu đều
nhận thức được tiềm năng to lớn mà công nghệ thông tin mang lại trong việc mở
rộng phạm vi, làm phong phú thêm nội dung và nâng cao chất lượng của nền giáo
dục. Ngoài việc tích cực triển khai e-learning tại mỗi nước, giữa các nước châu Âu
có nhiều sự hợp tác đa quốc gia trong lĩnh vực e-learning. Điển hình là dự án xây
dựng mạng xuyên châu Âu EuroPACE. Đây là mạng e-learning của 36 trường đại
học hàng đầu châu Âu thuộc các quốc gia như Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Anh, Pháp
cùng hợp tác với công ty e-learning Docent của Mỹ nhằm cung cấp các khoá học về
các lĩnh vực như khoa học, nghệ thuật, con người phù hợp với nhu cầu học của các
SV đại học, sau đại học, các nhà chuyên môn ở châu Âu.
Tại châu Á, e-learning vẫn đang ở trong tình trạng sơ khai, chưa có nhiều
thành công vì một số lý do như: các quy tắc, luật lệ bảo thủ, sự ưa chuộng đào tạo
truyền thống của văn hóa châu Á, vấn đề ngôn ngữ không đồng nhất, cơ sở hạ tầng
nghèo nàn và nền kinh tế lạc hậu ở một số quốc gia châu Á. Tuy vậy, đó chỉ là
những rào cản tạm thời. Do các cơ sở giáo dục truyền thống ngày càng không thể
đáp ứng nhu cầu đào tạo, buộc các quốc gia châu Á đang dần dần phải thừa nhận
tiềm năng to lớn mà e-learning mang lại. Một số quốc gia, đặc biệt là các nước có
nền kinh tế phát triển tại châu Á cũng đang có những nỗ lực phát triển e-learning
như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan,Trung Quốc,... Nhật Bản là nước
có ứng dụng e-learning nhiều nhất so với các nước khác trong khu vực. Môi trường
ứng dụng e-learning chủ yếu là trong các công ty lớn, các hãng sản xuất, các doanh
nghiệp... và dùng để đào tạo nhân viên.
1.1.3. Tình hình phát triển và ứng dụng e-learning ở Việt Nam
Việt Nam bắt đầu quan tâm đến e-learning khoảng từ năm 2000. Hội thảo nâng
cao chất lượng đào tạo ĐHQGHN năm 2000, Hội nghị giáo dục đại học năm 2001
đã có đề cập đến e-learning. Tuy vậy, Vào khoảng năm 2002 trở về trước các tài
liệu nghiên cứu, tìm hiểu về e-learning ở Việt Nam không nhiều. Trong hai năm
2003-2004, việc nghiên cứu e-learning ở Việt Nam đã được nhiều đơn vị quan tâm
hơn. Gần đây các hội nghị, hội thảo về công nghệ thông tin và giáo dục đều có đề
cập nhiều đến vấn đề e-learning và khả năng áp dụng vào môi trường đào tạo ở Việt
Nam như [37]:
Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ nhất về nghiên cứu phát triển và ứng
dụng CNTT&TT ICT/rda 2/2003, lần thứ hai là ICT/rda 9/2004, lần thứ ba
là ICT/rda /2006.
Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và triển khai E-learning” do Viện Công
nghệ Thông tin (ĐHQG Hà Nội) và Khoa Công nghệ Thông tin (Đại học
Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức đầu tháng 3/2005 là hội thảo khoa học
về E-learning đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.
Hội thảo lần thứ tư nghiên cứu phát triển và ứng dụng CNTT&TT
ICT/rda dự kiến tổ chức vào tháng 8/2008.
Bên cạnh đó, một số công ty phần mềm ở Việt Nam đã tung ra thị trường
những sản phẩm hỗ trợ đào tạo. Tuy các sản phẩm này chưa phải là sản phẩm lớn,
được đóng gói hoàn chỉnh nhưng đã bước đầu góp phần thúc đẩy sự phát triển
e-learning ở Việt Nam.
Việt Nam đã gia nhập mạng e-learning châu Á (Asia E-learning Network AEN, www.asia-elearning.net) với sự tham gia của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ
Khoa học - Công nghệ, trường Đại học Bách khoa, Bộ Bưu chính Viễn thông...
Có thể thấy tình hình nghiên cứu và ứng dụng e-learning đang được quan tâm
ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, Việt Nam mới chỉ ở giai
đoạn đầu và để tiến kịp các nước còn rất nhiều việc phải làm.
Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu và triển khai
e-learning. Một số đơn vị đã triển khai các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho các kết
quả khả quan: Đại học Công nghệ – ĐHQG Hà Nội, Viện CNTT – ĐHQG Hà Nội,
Đại học Bách khoa Hà Nội, ĐHQG TP.HCM, Học viện Bưu chính Viễn thông,...
Gần đây nhất, Trung tâm Tin học Bộ Giáo dục & Đào tạo đã triển khai cổng elearning nhằm cung cấp một cách có hệ thống các thông tin e-learning trên thế giới
và ở Việt Nam.
Tuy nhiên, phần lớn các chương trình e-learning được xây dựng ở các trường
đại học nhằm phục vụ cho công tác đào tạo từ xa. Hơn nữa, chương trình chủ yếu là
các bộ môn thuộc chuyên ngành kinh tế, công nghệ thông tin hay ngoại ngữ. Các
chuyên ngành khác hay các bộ môn đại cương hầu như chỉ đang ở giai đoạn thử
nghiệm. Việc xây dựng chương trình e-learning dùng kết hợp giảng dạy với phương
thức truyền thống hầu như rất ít. Việc xây dựng một chương trình e-learning HĐC
sử dụng cho việc kết hợp với phương pháp dạy học truyền thống là chưa được
nghiên cứu và thử nghiệm rộng rãi.
1.2. Lý luận dạy học dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông
1.2.1. Khái niệm dạy học dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông
CNTT&TT hay còn được viết là ICT (Information and Communication
Technologies) là [49]: “Một tập hợp đa dạng các công cụ và tài nguyên công nghệ
được sử dụng để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lý thông tin. Các công
nghệ này bao gồm máy tính, điện thoại, internet, vô tuyến truyền hình, đài phát
thanh…”
CNTT&TT được coi là những công cụ tiềm năng mạnh mẽ, có khả năng tạo ra
những thay đổi và cải cách giáo dục. Ở đó, những cơ cấu cứng nhắc theo truyền
thống về mối quan hệ “không gian – thời gian – trật tự thang bậc” sẽ bị phá vỡ.
Chẳng hạn, việc phát sóng chương trình giáo dục trên đài hay vô tuyến không cần
thiết phải có GV và học viên tại cùng một địa điểm vật lý. Bài học, bài tập, bài
giảng,… được ghi vào đĩa CD hoặc được đưa lên mạng internet, nhờ đó mọi người
có thể học bất kì khi nào. Những diễn đàn trao đổi về mọi vấn đề, những buổi hội
thảo trực tuyến... sẽ giúp cho người học có thể học mọi lúc, mọi nơi, mọi lứa tuổi,
bất kì ai có khả năng và mong muốn đều học được [52].
Với sự phát triển như vũ bão của CNTT&TT, những thành tựu và sản phẩm
mới liên tục ra đời, trong đó thành tựu quan trọng nhất là mạng Internet thì việc tạo
ra, phổ biến, lưu giữ và quản lý, trao đổi thông tin là rất dễ dàng. Vì vậy, trong
những năm gần đây, người ta thường đặc biệt quan tâm đến việc làm thế nào để
khai thác một cách hiệu quả nhất máy tính và Internet nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục ở mọi cấp độ, mọi cơ sở đào tạo và mọi hình thức đào tạo.
Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, việc dạy học dựa trên CNTT&TT được
định nghĩa là việc ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin và công nghệ
truyền thông đặc biệt là máy tính và mạng Internet vào việc dạy học nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo. E-learning là một trong những cách thức
dạy học dựa trên CNTT&TT.
1.2.2. Khái niệm e-learning
1.2.2.1. Khái niệm
Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về e-learning, dưới đây sẽ trích ra
một số định nghĩa e-learning đặc trưng nhất [12], [19], [20], [30]:
E-learning là sử dụng các công nghệ Web và Internet trong học tập.
E-learning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa
trên CNTT&TT.
Việc học tập hay đào tạo được chuẩn bị, truyền tải hoặc quản lý sử dụng
nhiều công cụ của CNTT&TT và được thực hiện ở mức cục bộ hay toàn
cục được gọi là e-learning.
Việc học tập được truyền tải, hỗ trợ qua công nghệ điện tử và qua nhiều
kĩ thuật khác nhau như Internet, TV, video tape, các hệ thống giảng dạy
thông minh, và việc đào tạo dựa trên máy tính CBT gọi là e-learning.
Việc truyền tải các hoạt động, quá trình, và sự kiện đào tạo và học tập
thông qua các phương tiện điện tử như Internet, intranet, extranet, CDROM, video tape, DVD, TV, các thiết bị cá nhân... gọi là e-learning.
"Việc sử dụng công nghệ để tạo ra, đưa các dữ liệu có giá trị, thông tin,
học tập và kiến thức với mục đích nâng cao hoạt động của tổ chức và phát
triển khả năng cá nhân" gọi là e-learning.
E-learning là tổ hợp của công nghệ Internet và Web nhằm tạo ra, cho
phép, phân phối, và cung cấp các phương tiện phục vụ học tập.
Việc triển khai áp dụng mô hình đào tạo e-learning khá đa dạng, đơn giản nhất
là hình thức cung cấp các bài giảng điện tử trên đĩa CD cho học viên tự học, phức
tạp hơn là những lớp học được tổ chức trên mạng Internet với sự quản lý một cách
có hệ thống. Nhìn chung, hệ thống e-learning thường bao gồm nhiều thành phần
chức năng được tích hợp trên môi trường mạng Internet, mỗi thành phần đều được
tách riêng biệt và cung cấp các dịch vụ khác nhau, tuy nhiên tất cả các thành phần
đó đều được tập trung trong một hệ thống thống nhất để cung cấp dịch vụ đào tạo
cho người sử dụng.
Về bản chất, đó vẫn là quá trình truyền tải kiến thức từ GV đến học viên dưới
sự giám sát của hệ thống quản lý, do đó nó cần phải tuân thủ các tiến trình cơ bản
trong quá trình đào tạo và triển khai hệ thống. E-learning luôn được hiểu gắn với
quá trình học hơn là với quá trình dạy – học. Lý do đơn giản là theo thời gian người
ta đã thay đổi từng bước cách nhìn trong mối quan hệ giữa dạy và học: từ lấy người
thầy làm trung tâm (dạy), chuyển sang tạo sự bình đẳng giữa thầy và trò (dạy –
học), hiện nay là lấy học trò làm trung tâm (học).
Vậy một cách chung nhất, e-learning là hệ thống đào tạo sử dụng các công
nghệ Multimedia dựa trên nền tảng của mạng Internet. Người học sẽ học bằng máy
tính, thông qua trang Web trong một lớp học ảo. Nội dung bài học sẽ được phân
phối tới học viên qua Internet, mạng intranet/extranet (LAN/WAN), băng audio và
video, vệ tinh, truyền hình tương tác, CD-ROM, và các loại học liệu điện tử khác.
Hình 1.1 mô tả một cách tổng quát khái niệm e-learning. Trong mô hình này
hệ thống đào tạo bao gồm 4 thành phần, được chuyển tải tới người học thông qua
các phương tiện truyền thông điện tử [12].
Hình 1.1. Mô hình e-learning
Nội dung: Các nội dung đào tạo, bài giảng được thể hiện dưới dạng các
phương tiện truyền thông điện tử, đa phương tiện. Ví dụ: một file hướng dẫn truy
cập trang web được tạo lập bằng phần mềm adobe pdf, bài giảng HĐC viết bằng
phần mềm công cụ Toolbook, Director, Flash,...
Phân phối: Việc phân phối các nội dung đào tạo được thực hiện thông qua các
phương tiện điện tử. Ví dụ tài liệu được gửi cho học viên bằng e-mail, học viên học
trên website, học qua đĩa CD-ROM multimedia,…
Quản lý: Quá trình quản lý học tập, đào tạo được thực hiện hoàn toàn nhờ
phương tiện truyền thông điện tử. Ví dụ như việc đăng ký học qua mạng, bằng tin
nhắn SMS, việc theo dõi tiến độ học tập (điểm danh), thi kiểm tra đánh giá được
thực hiện qua mạng Internet,...
Hợp tác: Sự hợp tác, trao đổi của người học trong quá trình học tập cũng được
thông qua phương tiện truyền thông điện tử. Ví dụ như việc trao đổi thảo luận thông
qua email, chatting, forum trên mạng,…
Ngày nay với sự hội tụ của máy tính và truyền thông, e-learning được hiểu một
cách trực tiếp hơn là quá trình học thông qua mạng Internet và công nghệ Web.
Có rất nhiều định nghĩa về e-learning, trong giới hạn của đề tài nghiên cứu,
chúng tôi định nghĩa e-learning như sau: “E-Learning là một thuật ngữ dùng để mô
tả việc học tập, đào tạo dựa trên CNTT&TT, trong đó chủ yếu sử dụng công nghệ
Web và Internet.”
1.2.2.2. Đặc điểm của e-learning
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng nói chung e-learning có những đặc
điểm sau [10], [12], [29], [30]:
Dựa trên CNTT&TT. Cụ thể là công nghệ mạng, kĩ thuật đồ họa, kĩ
thuật mô phỏng, công nghệ tính toán…
E-learning bổ sung rất tốt cho phương pháp học truyền thống do có tính
tương tác cao dựa trên multimedia, tạo điều kiện cho người học trao đổi
thông tin dễ dàng hơn, cũng như đưa ra nội dung học tập phù hợp với khả
năng và sở thích của từng người.
1.2.2.3. Phân biệt e-learning với một số khái niệm khác [10]
Online Learning – Học tập trực tuyến: chỉ là một phần của e-learning, mô tả
việc học tập qua Internet / Intranet / LAN / WAN.
Synchronous Learning – Học đồng bộ: mô tả việc học tập trực tuyến, thời gian
thực trong đó mọi người đăng nhập vào cùng một thời điểm và trao đổi thông tin
trực tiếp với nhau.
Formal Learning – Học tập thông thường: đa số thời gian học tập tuân theo
một chương trình được xác định trước. Mô hình đào tạo có G hướng dẫn là dựa trên
formal learning.
1.2.2.4. Cấu trúc của một e-learning
Tổng hợp các cấp của một chương trình học của E-Learning. Cấp cao nhất là
chương trình và cấp thấp nhất là media [10].
Bảng 1.1. Mô tả các cấp của một chương trình e-learning
Cấp
Người tạo nội
Xuất bản và
Dùng cho học
Công cụ tạo
dung
quản lý nội dung
viên truy
và quản lý
trên máy chủ
nhập
Tạo một chương Đòi hỏi phải thể Học viên phải Learning
trình tích hợp các hiện
Chương
trình
được
mối đăng kí mới Management
khoá học theo một quan hệ logic giữa được tham gia System
trình tự chặt chẽ.
các khoá học và vào khoá học.
( LMS ).
theo dõi được các
khoá học.
Tạo các khoá học. Theo dõi được các Truy cập khoá Course
Yêu cầu kết hợp phần trong khoá học học viên Authoring
các trang nội dung học, học viên đã có thể mở để Tool.
Khoá học có cơ chế duyệt học hoặc đã hoàn xem và chọn
như là mục lục.
thành.
các
bài
trong
học
khoá
học.
Tạo bài học bao Đưa các bài học Truy cập bài Couse
gồm các yêu cầu lên đòi hỏi khả học. Học viên authoring
chọn và kết nối năng
Bài học
biểu
diễn có
thể
chọn Web
các trang hay các nhiều trang hay một trong các authoring
đối tượng khác các
thành
phần trang của bài Tool.
thành một cấu trúc khác như một thể học.
chặt chẽ, logic.
thống nhất.
và
site
Tạo trang đòi hỏi Cung cấp các Phải
có
một Website
đưa text vào và trang cho học cách để yêu cầu authoring
Trang
tích hợp với các viên theo yêu một trang và thể Tool.
media khác.
cầu.
hiện nó khi nhận
được.
Tạo media đòi hỏi Đòi hỏi phải lưu Truy
phải tạo ra các trữ media hiệu thành
Media
hình
ảnh,
cập
các Media Editor
phần
ảnh quả và tiết kiệm. media. Đòi hỏi
động, âm thanh,
khả năng hoạt
video…
động
riêng
lẻ
của từng media.
Cấu trúc chức năng điển hình của một hệ thống e-learning được mô tả ở Hình
1.2 [12].
Hình 1.2. Mô hình chức năng hệ thống e-learning
1.2.2.5. Các kiểu trao đổi thông tin trong e-elearning
Bao gồm các kiểu trao đổi thông tin như sau [26]:
Một - Một: kiểu trao đổi này thường diễn ra giữa:
Học viên với học viên.
Học viên với GV.
GV với học viên.
Một - Nhiều: kiểu trao đổi này thường diễn ra giữa:
GV với các học viên.
Học viên với các học viên khác.
Nhiều - Một: kiểu trao đổi này thường diễn ra giữa:
Các học viên với GV.
Các học viên với một học viên.
Nhiều - Nhiều: kiểu trao đổi này thường diễn ra giữa:
Các học viên với các học viên.
Các học viên với các học viên và GV.
1.2.2.6. Ưu nhược điểm của e-learning
Ưu điểm:
Không bị giới hạn bởi không gian và thời gian: sự phổ cập rộng rãi của
Internet đã dần xoá đi khoảng cách về thời gian và không gian cho
e-learning. Một khoá học e-learning được chuyển tải qua mạng tới máy tính
của người học, điều này cho phép các học viên học bất cứ lúc nào và bất cứ
nơi đâu. Cả người dạy lẫn người học đều có cơ hội thảo luận vấn đề mà
không bị ràng buộc bởi thời gian, không gian...
Tính hấp dẫn: với sự hỗ trợ của công nghệ multimedia, những bài giảng
tích hợp text, hình ảnh minh họa, âm thanh tăng thêm tính hấp dẫn của bài
học. Người học giờ đây không chỉ còn nghe giảng mà còn được xem những
ví dụ minh họa trực quan, thậm chí còn có thể tiến hành tương tác với bài
học nên khả năng nắm bắt kiến thức cũng tăng lên.
Tính linh hoạt: một khoá học e-learning được phục vụ theo nhu cầu
người học, chứ không nhất thiết phải theo một thời gian biểu cố định. Vì thế
người học có thể tự điều chỉnh quá trình học, lựa chọn cách học phù hợp
nhất với hoàn cảnh của mình.
Dễ tiếp cận và truy cập ngẫu nhiên: bảng danh mục bài giảng sẽ cho
phép học viên lựa chọn đơn vị tri thức, tài liệu một cách tuỳ ý theo trình độ
kiến thức và điều kiện truy nhập mạng của mình. Học viên tự tìm ra các kĩ
năng học cho riêng mình với sự giúp đỡ của những tài liệu trực tuyến.
Tính cập nhật: nội dung khoá học thường xuyên được cập nhật và đổi
mới nhằm đáp ứng tốt nhất và phù hợp nhất với học viên.
Học có sự hợp tác, phối hợp: các học viên có thể dễ dàng trao đổi với
nhau qua mạng trong quá trình học, trao đổi giữa các học viên và với GV.
Các trao đổi này hỗ trợ tích cực cho quá trình học tập của học viên.
Tâm lý dễ chịu: mọi rào cản về tâm lý giao tiếp của cả người dạy và
người học đều bị xoá bỏ, mọi người tự tin hơn trong việc trao đổi quan
điểm.
Các kỹ năng giao tiếp, làm việc hợp tác, tự điều chỉnh để thích ứng...
của người học sẽ được hoàn thiện không ngừng.
Sự tương tác giữa người dạy và người học vẫn được duy trì thông qua
các diễn đàn (forum), hội thoại trực tuyến (chat), thư từ (e-mail), hội nghị
truyền hình (video conferencing)...
Dựa trên phương tiện truyền thông là mạng internet, có sự hỗ trợ của
multimedia, mỗi người học khi tiếp cận với e-learning có thể có cách thích nghi
riêng, cách hiểu riêng về một vấn đề. Do đó, khi đến với e-learning, mọi thành phần
không phân biệt trình độ, giới tính, tuổi tác… đều có thể tìm cho mình một hướng
tiếp cận khác nhau với vấn đề mà không bị ràng buộc trong một khuôn khổ cụ thể
nào (cá nhân hóa người học).
- Xem thêm -