Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi xay sổm bun nước cộng hũa dân chủ nhân dân ...

Tài liệu Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi xay sổm bun nước cộng hũa dân chủ nhân dân lào trong thời kỳ đổi mới

.PDF
84
69243
154

Mô tả:

LUẬN VĂN: Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi Xay Sổm Bun nước Cộng hũa dõn chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước Lào. Trong những giai đoạn lịch sử cách mạng trước đây, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã có sự quan tâm nhất định, nhưng nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới. Bước vào thời kỳ phát triển kinh tế thị trường, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở cần được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn. ở các vùng miền núi xa xôi trong quá trình chuyển mình phát triển cùng với sự phát triển chung của đất nước, hòa nhập với khu vực và quốc tế điều này lại càng có ý nghĩa quan trọng. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động văn hóa hiện nay là phát huy vai trò của văn hóa ở cấp cơ sở bản, làng, làm cho văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước Lào. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài " Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi Xay Sổm Bun nước Cộng hũa dõn chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới " vừa có ý nghĩa lý luận vừa có nghĩa thực tiễn cấp bách. Đề tài góp phần làm sáng tỏ nhận thức về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi của Lào nói chung và ở khu Xay Sổm Bun nói riêng. Đồng thời, qua sự khảo sát nghiên cứu đời sống văn hóa ở khu Xay Sổm Bun, luận văn sẽ góp phần đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác văn hóa trên địa bàn khu vực này, và qua đó góp phần xây dựng đời sống văn hóa của nước Lào trong thời kỳ đổi mới. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài - Làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi trong quá trình đổi mới hiện nay. - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở khu vực miền núi Xay Sổm Bun trong thời gian vừa qua, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của công tác này trong quá trình phát triển của khu vực. - Đề xuất những giải pháp góp phần giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời phát huy vai trò động lực của văn hóa đối với sự phát triển đời sống kinh tế - xã hội của khu Xay Sổm Bun hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về xây dựng nền văn hóa mới và phát triển miền núi làm phương pháp nghiên cứu cơ bản. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như so sánh, tổng hợp, thống kê và điều tra xã hội học để thực hiện các nhiệm vụ do đề tài đặt ra. 4. Tình hình nghiên cứu Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa nói chung, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở miền núi nói riêng đã được nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Lào quan tâm. Tiêu biểu là các ý kiến của đồng chí Kay Sỏn Phôm Vi Hản trong cuốn sách "Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở địa bàn và chính sách của Đảng đối với các dân tộc của Lào" do Nhà xuất bản Quốc gia Lào xuất bản, 13/12/1995. Ngoài công trình của đồng chí Kay Sỏn Phôm Vi Hản còn có một số công trình đề cập tới văn hóa ở miền núi như tác phẩm "Văn hóa và lễ hội của các dân tộc vùng Xay Sổm Bun" của đồng chí Nọi Chăn Sa Mọn (1998) và công trình nghiên cứu về Vùng dân tộc của Koong Kẹo (1999). Những công trình đó đã có những đóng góp đáng kể trong việc làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc và vai trò, vị trí của việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nhận diện đặc trưng văn hóa của vùng đặc biệt là bản làng cổ truyền Lào. Bên cạnh những công trình trên còn có một số cuốn sách của Viện Nghiên cứu quốc gia Lào bàn về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong những năm gần đây. Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về khu Xay Sổm Bun như: - Vấn đề dân tộc ở Long Chạnh của Cha Lân Dơ Pao Hơ. - Lễ hội truyền thống của các dân tộc Mương Xay Sổm Bun của Nọi Súc Ma La. - Đời sống kinh tế của nhân dân Xay Sổm Bun của Nọi Súc Ma La. - Lịch sử chiến tranh Phả Thi (1945 - 1975). - Dân ca Sảo Long Chạnh. Đó là những công trình đề cập tới những lĩnh vực khác nhau của đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của khu ít nhiều đã đề cập tới đời sống văn hóa cơ sở ở đây. Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu nào đề cập một cách hệ thống vấn đề "Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi Xay Sổm Bun nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới". Vì vậy, đề tài này không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố từ trước tới nay. 5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài "Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi Xay Sổm Bun nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới" là loại đề tài vừa có ý nghĩa lý thuyết vừa có ý nghĩa thực tiễn. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hệ thống hóa những quan niệm chung về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng miền núi, làm rõ đặc thù của khu Xay Sổm Bun trong quá trình đổi mới hiện nay, khảo sát thực trạng đời sống văn hóa ở đây, tập trung ở lĩnh vực văn hóa tinh thần, gắn liền với lối sống, phong tục tập quán, sinh hoạt, giải trí và tổ chức hoạt động văn hóa cộng đồng là chủ yếu. Về thời gian khảo sát, trọng tâm là khoảng từ 1988 đến nay. Từ 1988 đến nay là khoảng thời gian có nhiều sự kiện về chính trị kinh tế, xã hội tác động sâu sắc đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở bản làng và cũng là cơ sở để đặt ra và giải quyết các vấn đề bức thiết của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa sắp tới của Lào. 6. Những đóng góp của luận văn - Đề tài góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào về vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng miền núi trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Đề tài khảo sát phân tích và đánh giá có hệ thống thực trạng văn hóa cơ sở ở vùng Xay Sổm Bun hiện nay, đề ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở vùng Xay Sổm Bun trong sự nghiệp đổi mới hiện nay của Lào. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng núi của nước Lào hiện nay. Chương 2: Khái quát thực trạng đời sống văn hóa ở các bản làng khu Xay Sổm Bun. Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở các bản làng vùng Xay Sổm Bun. Chương 1 Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng núi của nước Lào hiện nay 1.1. Quan niệm chung về văn hóa "Văn hóa" là thuật ngữ đa nghĩa, thường được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau. Theo nghĩa rộng, văn hóa là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một xã hội, thể hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm, biểu hiện phương thức sống và sự sáng tạo của một dân tộc. Ngoài văn học nghệ thuật, văn hóa còn gồm hệ thống giá trị, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo... Theo nghĩa chung nhất, văn hóa là hoạt động phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của con người. Đó là năng lực của nhận thức, hiểu biết, sáng tạo. Là năng lực tình cảm, cảm xúc, tưởng tượng hướng tới cái chân, thiện, mỹ. Văn hóa là hoạt động của con người, bằng lao động và tri thức, tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, tạo ra các chuẩn mực của xã hội, được thực hiện qua nhiều hoạt động như giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật... và trong cả đạo đức, lối sống. Theo nghĩa đó văn hóa bao trùm mọi hoạt động của đời sống xã hội, cũng như của mọi cá nhân trong cộng đồng. Nó vừa là sản phẩm tinh thần, vừa là sản phẩm vật chất do lao động của con người tạo ra. Văn hóa được hình thành và phát triển trong quan hệ thích nghi giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và cải tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người tích lũy được đã trở thành nền tảng cơ bản cho sự phát triển của văn hóa. Văn hóa không chỉ bó hẹp trong quan hệ cá nhân gia đình và cộng đồng mà còn mở rộng trong mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Văn hóa hình thành trong quá trình tiếp xúc, giao lưu, sàng lọc, cải biến giữa văn hóa bản địa với những nền văn hóa khác. Do đó, văn hóa bao giờ cũng thể hiện sự đa dạng, phong phú nhưng luôn mang những nét độc đáo của dân tộc, đồng thời bao hàm tiềm ẩn những giá trị chung của nhân loại. Thuật ngữ "văn hóa" theo nghĩa hẹp cổ xưa vốn bắt nguồn từ chữ la tinh (Cullture) nghĩa là cày cấy, vun trồng - gắn liền với hoạt động nông nghiệp. Sau này, nội dung đó phát triển thành ý nghĩa hoạt động vun trồng, bù đắp... tinh thần của con người, gắn chặt với lao động sáng tạo. Chủ nghĩa Mác - Lênin xem văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội - lịch sử, tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội [32, tr. 507]. Thông thường người ta chia văn hóa thành văn hóa vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất) và văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ thuật và văn học, triết học, đạo đức, giáo dục...). Văn hóa là một hiện tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội [32, tr. 505]. Thời đại ngày nay là thời đại giao lưu rộng rãi giữa các quốc gia, dân tộc, những nhận thức mới về văn hóa luôn được bổ sung thêm những nội dung mới, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của nhân loại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa quá trình giao lưu văn hóa giữa các quốc gia dân tộc, kể cả những nước có chế độ chính trị khác nhau đang diễn ra trên quy mô rộng lớn và tốc độ nhanh. Sự biến đổi văn hóa của các dân tộc do đó cũng diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh những thời cơ lớn, giao lưu quốc tế khiến cho nhiều nước, nhất là các nước chậm phát triển về kinh tế, có nguy cơ bị chèn ép và đồng hóa về văn hóa. Do đó, vấn đề giữ gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc chống nguy cơ đồng hóa về văn hóa là một trong những thách thức lớn đối với các quốc gia. Năm 1986, khi phát động Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (1988 - 1997), ông Tổng giám đốc UNESCO, Fêdêrico Mayer đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của cộng đồng), đã diễn ra trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thị hiếu thẩm mỹ và lối sống, dựa trên cơ sở đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình" [3, tr. 11]. Giáo sư, tiến sĩ A.I. ácnônđốp cho rằng: "Văn hóa là hiện tượng phức tạp và đa diện. Nó bao gồm cả hoạt động sáng tạo, tức là toàn bộ quá trình sản xuất ra tư tưởng và vật chất hóa các tư tưởng đó; cả những tính cách của con người như một chủ thể hoạt động, và cả bản thân nói chung những giá trị vật chất và tinh thần được tạo ra trong quá trình hoạt động ấy. Một định nghĩa thỏa đáng về văn hóa cần phải bao hàm tất cả các mặt trên đây" [1, tr. 32]. Nghiên cứu đầy đủ tổng thể các hiện tượng bao chứa trong khái niệm phức tạp này, A.I.ácnônđốp đã đề xuất một định nghĩa khái quát như sau: "Văn hóa là hoạt động sáng tạo tích cực của con người (cá thể nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung) thực hiện trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần, nắm bắt và khai thác thế giới, quá trình này sẽ sản xuất, bảo quản phân phối, trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa xã hội, đồng thời nó là một tổng hợp chính những giá trị đã vật thể hóa hoạt động sáng tạo của người" [1, tr. 33]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được" [21, tr. 345]. Đây là một quan niệm khác với quan niệm về văn hóa trước kia của nhà nho, của các trí thức tư sản đã tách văn hóa khỏi đời sống kinh tế xã hội và coi lĩnh vực văn hóa gắn liền với những cách sống cao thượng của tầng lớp trên. Mặt khác, Người khẳng định rằng: "Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi nguồn gốc của các quan hệ và các giá trị văn hóa gắn liền với trình độ phát triển của sản xuất vật chất. Người cho rằng: "Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất" [31]. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu bản chất của mọi hiện tượng văn hóa đều gắn với khả năng sáng tạo của con người. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" [34, tr. 110]. Từ các quan niệm đó, chúng ta có thể thấy rằng: văn hóa là sự phát triển năng lực của con người trong quá trình không ngừng nâng cao trình độ làm chủ của mình đối với tự nhiên, xã hội và bản thân, nhằm thỏa mãn nhu cầu về tinh thần và vật chất trong hoạt động thực tiễn hướng tới các giá trị nhân văn. Chính lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh điều đó. Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của văn hóa. Trên hành tinh này không có gì quý hơn con người. Thực chất chiến lược văn hóa cũng là chiến lược con người. Nếu văn hóa là sự phát triển năng lực, khẳng định bản chất của con người theo hướng ngày càng đạt tới cái đúng, cái tốt và đẹp, thì sự phát triển của văn hóa phải hướng vào con người, phát hiện ra bản chất con người và hoàn thiện nó cả về thể chất và tâm hồn, cả về trí tuệ và đạo đức. Những năng lực của con người và quá trình làm chủ của con người với tự nhiên và xã hội, đã làm cho "thiên nhiên thứ nhất" biến thành "thiên nhiên thứ hai", đây là bước phát triển của văn minh nhân loại. Vì lẽ đó mà lâu nay có sự đồng nhất giữa văn hóa và văn minh. Thực ra văn hóa và văn minh có sự gắn bó hết sức chặt chẽ nhưng đồng thời cũng có sự khác biệt. Văn minh gắn bó chặt chẽ với văn hóa, vì văn minh và văn hóa đều chỉ trình độ làm chủ tự nhiên, xã hội và làm chủ bản thân của con người, đều là những hình thái cơ bản của nhận thức và hoạt động sáng tạo cải tạo thế giới của con người. Văn minh là bộ phận cấu thành văn hóa, là sự tồn tại xã hội của bản thân văn hóa và ngược lại giá trị văn hóa có khả năng đem lại một ý nghĩa, một động lực, một định hướng nhất định cho hoạt động của con người tạo thành cơ sở cho nền văn minh. Do vậy, không có nền văn minh nào tách rời các giá trị văn hóa và cũng không có văn hóa nào đối lập hoàn toàn với văn minh. Tuy vậy, văn hóa và văn minh cũng có sự khác biệt nhất định: Văn hóa gồm có văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong khi đó văn minh nghiêng về sự sáng tạo, làm chủ các quy luật tự nhiên, các hoạt động vật chất trong đời sống xã hội, văn minh chủ yếu chỉ trình độ phát triển của văn hóa vật chất. Mặt khác, văn hóa thường gắn chặt với từng dân tộc, còn văn minh chỉ trình độ chung về khoa học kỹ thuật cho nhiều dân tộc, nó mang tính khu vực và tính quốc tế. Chẳng hạn, văn minh phương Đông, văn minh phương Tây, văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp... Văn hóa mang bề dày lịch sử với sự bền vững, trường tồn của nó, còn văn minh chỉ là những giai đoạn lịch sử tương đối ngắn. Vì vậy giai đoạn phát triển của văn hóa và giai đoạn văn minh không trùng khít với nhau. Văn hóa giàu tính nhân văn, luôn hướng tới giá trị vĩnh hằng đó là Chân, Thiện, Mỹ, còn văn minh thì luôn hướng tới sự hợp lý hóa cuộc sống, sự thuận tiện, tính hiệu quả trong công việc. Do đó, bên cạnh cái có ích, cái tích cực, trong một thời đại văn minh hoạt động của con người cũng có thể mang lại những hiểm họa, như những vấn đề toàn cầu mà loài người đang phải đối phó như sự ô nhiễm môi trường, đói nghèo, HIV/ AISD hậu quả tiêu cực của kinh tế thị trường... Trong khi đó văn hóa là sự sáng tạo vươn tới các giá trị nhân văn, nâng đỡ cho hạnh phúc của con người. Mọi hoạt động hướng tới làm tha hóa tiêu diệt con người, con người đều là phản văn hóa. Chính vì vậy, trong hoạt động phát triển xã hội, văn hóa là nhân tố cốt lõi nhất. Những hoạt động xã hội nào đi ngược lại giá trị văn hóa, giá trị Chân, Thiện, Mỹ đều phải bị xem là những hiện tượng phản văn hóa. Đảng nhân dân Cách mạng Lào ngày càng nhận thức đầy đủ hơn ý nghĩa và vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã viết: "Văn hóa là vốn quý giá nhất của đất nước, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" [33, tr. 91]. 1.2. Vai trò của văn hóa trong sự phát triển kinh tế - xã hội miền núi Lào ngày nay 1.2.1. Một số đặc điểm vùng núi Lào trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nằm dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam ở nội địa bán đảo Đông Dương, có đường biên giới chung khép kín với năm nước. Phía Đông giáp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở khu vực Đông Nam á, cùng chung đường biên giới dài 1.957 km. Đây là đường biên giới hữu nghị. Trên đường biên giới có các đèo Mường - xem, Mụ Giạ, Lao Bảo, Na meo, v.v... là những cửa khẩu mở cho nhân dân hai nước Lào - Việt Nam đi lại, trao đổi hàng hóa và giao lưu văn hóa với nhau. Phía Tây giáp Vương quốc Thái Lan, cùng chung đường biên giới dài 1.730 km, trong đó có dòng sông Mê Công dài: 1.500 km. Sông Mê Công vừa là đường biên giới pháp lý quốc tế vừa là mạch máu kinh tế của nhân dân hai nước Lào - Thái Lan. Đây cũng là "hàng rào" chiến lược ngăn chặn âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa Đại Thái chống phá cách mạng Lào. Chắn ngang ở phía Bắc Lào là nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, nước xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt. Nằm ở phía Nam là Vương quốc Campuchia, có chung đường biên giới dài 492 km. Phía tây Bắc, Lào giáp với Liên bang xã hội chủ nghĩa Miến Điện. Đường biên giới là sông Mê Công, dài 230km. Có thể nói, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào như là cửa ngõ và cầu nối giữa các nước Đông - Tây, Nam - Bắc, các nước lục địa với các nước Đông Nam á. Nhà văn Xipasợt của Lào đã ví đất nước Lao Lạn - Xạng tươi đẹp như một bông hoa Chăm pa đang nở trong buổi bình minh của ngày tháng mùa xuân. Hoa chăm pa có nhụy với mùi vị thơm ngát nằm ở trung tâm của năm cánh bên cạnh. Lời ca ngợi đó thật đúng vì trong thực tế Lào không bao giờ xa rời một quan hệ mật thiết với năm nước bên cạnh. Trong mỗi một thời đại Lào tất yếu chịu ảnh hưởng về sự thay đổi các mặt kinh tế, chính trị văn hóa của những nước liền kề cũng như các nước khác. Không có đường biên giới biển, muốn tiếp xúc với biển, Lào phải sử dụng các cảng ở miền Trung Việt Nam, chủ yếu là: Cửa Lò, Đông Hà, Vinh, Bến Thủy, Đà Nẵng. Lào nằm trên bán đảo Đông Dương có diện tích 2.368.000 km2, trong đó diện tích vùng núi và cao nguyên chiếm 90%. Đồng bằng chỉ chiếm 10%. Căn cứ vào địa hình người ta chia Lào thành hai khu vực Thượng Lào và Hạ Lào. Thượng Lào là miền đồi núi cao, cao nguyên từ tỉnh Say Nha Bu Ly, Bo Kẹo, Luông Pha Bang, Xay Sổm Bun, Xiêng Khoảng, Ô đôm xay, Phông Xa Lỵ, Hủa Phăn... Hạ Lào từ thung lũng sông Ca Đinh thuộc tỉnh Bọ Ly Khăm Xay đến Chăm Pa Sắc và át Ta Pư, phần lớn địa hình là cao nguyên có bề mặt bằng phẳng và độ cao giảm dần từ dãy núi Phu Luông (Trường Sơn) đến đồng bằng thung lũng sông Mê Công. Dân số nước Lào khoảng năm triệu người ( năm 2000). Trên lãnh thổ Lào có 68 bộ tộc (dân tộc) anh em, chia làm ba nhóm. Những dân tộc có dân số lớn là: Người Lào Lùm có trình độ văn hóa, kinh tế và tổ chức xã hội cao hơn các dân tộc khác, bao gồm các nhóm như Thái, Tày, Lự, Duôn, Đăng... cư trú trên vùng đồng bằng, canh tác lúa nước, chiếm khoảng 60% dân số cả nước. Người Lào Thơng sống trên vùng đồi núi, có nguồn gốc Inđonexia, thuộc ngữ hệ Môn - Khơ me, còn gọi là người Khạ. Họ là chủ nhân của nền văn hóa văn minh cổ xưa của Lào, làm nương rẫy và nghề rừng. Người Lào Xủng sống chủ yếu trên vùng núi cao Bắc Lào, thuộc hệ Miến - Tạng, H'Mông - Dao, mới sống định cư trên đất nước Lào trong khoảng thời gian 200 - 300 năm gần đây. Họ chuyên làm nương rẫy, trồng lúa, ngô, sắn trên ruộng bậc thang và đồi núi cao. Kể từ khi đất nước Lào bước vào thời kỳ đổi mới, nhân dân các bộ tộc Lào đã vượt qua một loạt khó khăn, phức tạp giành được những thành tựu to lớn. Nông nghiệp là ngành kinh tế chính của Lào. Chăn nuôi là ngành quan trọng. ở một số vùng núi người Lào chăn nuôi và thuần hóa voi để giúp đỡ con người làm những công việc nặng nhọc như khai thác gỗ trên đồi núi hoặc làm nương lấy nước vào ruộng. ở Lào voi là vật nuôi của các gia đình. Voi là người người bạn thân thích của con người. Từ lâu Voi là biểu tượng của nước Lào. Chính vì vậy nước Lào còn được gọi là nước "Triệu Voi". Quyết tâm của Đảng và Chính phủ Lào là cải biến đất nước nghèo, kém phát triển thành một trong những nước phát triển, có khả năng cung ứng điện năng chủ lực cho bạn hàng láng giềng gần nhất là Thái Lan. Trong sự nghiệp đổi mới về kinh tế, Chính phủ Lào đang cố gắng tìm mọi cách giảm bớt khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa đồng bằng với miền núi, đồng thời bảo vệ môi trường và nâng cao mức sống kinh tế, văn hóa của nhân dân các bộ tộc Lào. Lào dự tính sẽ xây dựng 58 đập nước trên sông Mê Công từ nay đến năm 2020 với chỉ tiêu tăng thêm 1.800 MW để phát triển kinh tế trong nước và xuất khẩu điện cho nước láng giềng Thái Lan. Trên sông Mê Công có thể sản xuất 37.000 MW điện trong đó riêng Lào sản xuất 18.000 MW. Hiện nay, Lào mới chỉ có 3 nhà máy thủy điện, trong đó có thủy điện Nặm Ngừm, Nặm Thơn 1, Nặm Thơn 2. Riêng Nặm Ngừm, sản xuất 210 MW, mang lại số ngoại tệ lớn cho Lào, còn trong tương lai có Nặm Thơn 3 nằm ở vùng núi Xay Sổm Bun, miền Bắc của Lào. Mục tiêu chiến lược 20 năm tới của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là biến nước Lào trở thành một nước có nền kinh tế xã hội của một nước công nghiệp. Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, sang nền kinh tế công nghiệp, là sự chuyển đổi có tính chất cách mạng. Bởi vậy chúng ta cần phải nhận thức lại vị trí chiến lược của miền núi của Lào hiện nay. Miền núi của Lào có thể chia làm ba vùng: Vùng thứ nhất, là vùng cư trú xen kẽ của ba dân tộc Lào Thơng, Lào Xủng, Lào Lùm, đa số là người sống ở phía tây Thái Lan trước đây, trong đó 80% là Lào Thơng và Lào Xủng, 20% là Lào Lùm. Lý do di cư chủ yếu của họ là tìm đến những vùng đất mới thuận lợi cho việc làm ăn sinh sống. Sự di cư này còn do chiến tranh, loạn lạc, sự hiềm khích trong nội bộ bản làng và có thể còn do mê tín dị đoan (đất lành, đất dữ). Dân trong vùng chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Vùng thứ hai, là vùng của người Lào Thơng. Bản làng của họ lớn lên đến 200 300 nóc nhà. Họ chính là người chủ đầu tiên trên lãnh thổ Lạn Xang. Theo tài liệu khảo cổ, người Lào Thơng đã xây dựng nên nhiều công trình văn hóa thuộc thời đại đồ đá, đồ đồng, mà chúng ta tìm thấy ở các hang đá. Vùng Chiêng Ngân, Xiêng Thoong (Luông Pha Bang - Xiêng Khoảng hiện nay) và Cánh Đồng Chum. Người Lào Thơng có một nền văn hóa dân gian phong phú và được bảo lưu cho đến ngày nay, như: múa, hát khắp tớm, chớm ai, Tăng vại, Lăm nghé, Lăm Lơ vên, Lăm lơ ve (múa chung quanh đống lửa, Múa chung quanh đống thóc, Múa ống bương). Đời sống của người Lào Thơng hiện nay khá lên nhiều so với trước đây. Họ sống chủ yếu dựa vào nương rẫy, trồng lúa, cà phê, ngoài ra còn làm nghề thủ công và chăn nuôi trâu bò, dê v.v... Vùng thứ ba, là vùng sinh sống của người Lào Xủng. Người Lào Xủng mới sống định cư trên đất nước Lào khoảng 200 - 300 năm lại đây. Họ chuyên làm nương rẫy, trồng lúa, ngô, sắn và thuốc phiện (là một thứ hàng hóa đem lại thu nhập cao nhất của họ). Người Lào Xủng chăn nuôi rất giỏi và có nghề thủ công khéo léo, tinh xảo như dệt vải và đúc sắt, đúc đồng làm công cụ lao động. Người Lào Xủng còn nổi tiếng về khả năng chữa bệnh bằng các loại cây cỏ. Văn hóa văn nghệ của người Lào Xủng khá phong phú, đa dạng. Họ làm thơ và sáng tác dân ca, có khèn hàng (kèn đuôi), có sáo, có kèn thổi bằng lá cây để giao duyên giữa các chàng trai và các cô gái. Hàng năm họ có tổ chức tết cổ truyền, hội chợ núi, đó là những ngày hội vui nhất, họ vừa hát, vừa múa, thổi khèn kéo giây, ném khọn, đấu bò, chọi gà v.v... Nhìn chung các vùng Lào Xủng có trình độ sản xuất cao hơn các vùng Lào Thơng nhưng so với các vùng Lào Lùm thì trình độ của người Lào Thơng thấp hơn. Bởi vì, cơ sở kinh tế thấp, công cụ sản xuất thô sơ, năng suất thấp. Người Lào Thơng còn mang nặng tín ngưỡng dân gian, mê tín dị đoan. Quan niệm về "vùng núi" ở Lào là một quan niệm tương đối phức tạp, quan niệm vùng núi truyền thống thường đi liền với quan niệm về nông nghiệp và nông dân. Vùng miền núi ở Lào là môi trường sinh sống của cư dân nông nghiệp. Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Chủ thể của xã hội vùng núi Lào là nông dân. Trong quá trình đổi mới, miền núi đang có bước chuyển cả về cơ cấu kinh tế, cơ cấu cư dân và tổ chức cộng đồng. Quan niệm mà chúng tôi sử dụng trong luận văn này là miền núi gắn với vùng dân cư chủ yếu sản xuất nông nghiệp, phân biệt với vùng đồng bằng, đô thị là nơi của dân sống chủ yếu với sản xuất phi nông nghiệp. Sau 25 năm đổi mới, nền nông nghiệp của đất nước Lào đã có bước phát triển đáng kể. Từ một nước nghèo đói thiếu lương thực phải nhờ sự giúp đỡ của các nước XHCN như Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô... Trong nhiều năm qua, đời sống của nhân dân Lào đã từng bước được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Các nguồn lực ở vùng miền núi của Lào đang dần dần phát huy sức mạnh góp phần phát triển đất nước. So với yêu cầu chung, miền núi Lào đối diện với những vấn đề vừa cơ bản và cấp bách nhất. Đó là vấn đề nghèo đói và việc làm. Hiện nay, cả nước có 1,3 triệu hộ dân sống ở vùng núi, với khoảng 1 triệu hộ làm nông nghiệp, trong đó có 30% hộ nghèo, khoảng 10% hộ còn đói kinh niên. Đặc biệt ở vùng núi cao có tới 3 vạn người sống du canh, du cư. Lào là một nước sản xuất nông nghiệp nhỏ là chính cho nên việc làm, nhất là cho thanh niên ở vùng núi là một vấn đề hết sức bức xúc hiện nay. ở nhiều vùng miền núi có tới 40% thanh niên đang khó khăn trong tìm kiếm việc làm. Hiện nay có khoảng 50.000 dân di cư tự do gây khó khăn rất lớn đến sự ổn định kinh tế - xã hội và giữ gìn môi trường sinh thái. Trình độ hưởng thụ văn hóa ở vùng núi còn thấp, các tiêu cực xã hội như mê tín dị đoan, nghiện hút, mại dâm... đang có nguy cơ gia tăng trong cộng đồng. Vẫn còn một số gia đình còn trồng cây thuốc phiện để sử dụng hoặc trao đổi buôn bán... 1.2.2. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội miền núi ở nước Lào hiện nay Phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi của Lào hiện nay là một trong những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu cơ bản, nhưng nhìn chung miền núi nước Lào trình độ phát triển vẫn còn quá thấp, so với một số nước khác trong khu vực như Việt Nam, Thái Lan hoặc Trung Quốc. Vì vậy, phát triển toàn diện đời sống kinh tế - xã hội ở miền núi nước Lào vừa là nhiệm vụ có chiến lược lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách. Văn hóa dân tộc là cội nguồn của nội lực quốc gia, nó gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người. Văn hóa các dân tộc ở Lào có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định tính dân tộc, bản sắc văn hóa Lào. Đó chính là cội nguồn của sức mạnh vật chất và tinh thần, là chỗ dựa, là điểm xuất phát cho nhân dân các bộ tộc Lào trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Truyền thống văn hóa Lào đã thắp sáng khát vọng tự do, độc lập, hòa bình và hạnh phúc của nhân dân các bộ tộc Lào. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và con người ở vùng núi nước Lào trong thời kỳ đổi mới có thể nhận thấy ở các khía cạnh chủ yếu sau đây: 1.2.2.1. Trước hết đó là vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế. Vai trò đó thể hiện ở việc làm thay đổi những quan niệm nhận thức truyền thống sang những quan niệm hiện đại trong phát triển kinh tế Văn hóa cung cấp những tri thức, những kinh nghiệm chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp dựa trên cơ sở lao động giản đơn với những công cụ thô sơ, sang hoạt động sản xuất với công cụ cơ khí, máy móc trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường. Đồng thời nền kinh tế đó còn mở rộng giao lưu với các nước trong khu vực và quốc tế. Nền sản xuất tự cung tự cấp gắn liền với nếp sống, nếp nghĩ ổn định, không chú ý đến cạnh tranh để phát triển. Nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường là nền sản xuất năng động, nhạy cảm với nhu cầu con người, chú ý khai thác mọi nguồn lực về trí tuệ, tài năng, nguồn vốn, tài nguyên thiên nhiên, kỹ thuật khoa học... và chấp nhận cạnh tranh như là một động lực để phát triển. Văn hóa phản ánh trình độ và chất lượng của sự phát triển năng lực thực tiễn, tinh thần của con người. Nó tác động mạnh đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Sự nhận thức về công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn gắn với sự phát triển của khoa học công nghệ, bảo đảm cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của nền kinh tế, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, thực hiện sự tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường. Hiện nay các chủ trương chính sách phát triển đất nước cần đưa yếu tố xây dựng đời sống văn hóa vào các lĩnh vực của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn hóa và sự lựa chọn loại hình kinh tế. - Về năng lượng: Nếu nền văn minh hậu công nghiệp giải quyết theo hướng đa dạng hóa và phân tán thì ở nước Lào có thể đi theo hướng đó, tức là xây dựng những nhà máy thủy điện nhỏ, điện mặt trời... phân tán các nguồn năng lượng cho miền núi, giảm bớt sự tập trung ở đô thị, tạo ra sự phát triển đất nước một cách hài hòa cân đối. - Về nông nghiệp sinh thái: Hướng phát triển nông nghiệp hiện đại cần dựa vào toàn bộ các hệ sinh thái hiện có góp phần tạo nên môi trường cộng sinh giữa con người và tự nhiên bảo đảm cân bằng sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền nông nghiệp sinh thái phát triển hệ thống canh tác mới bằng chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi thích hợp với điều kiện khí hậu, đất đai và thời tiết... vì thực tế ở miền núi nước Lào tài nguyên sinh thái phong phú đa dạng, dân số ít...., chưa được khai thác quá mức. Đó là điều kiện thuận lợi để phát triển nông lâm nghiệp theo hướng kinh tế sinh thái, bảo vệ môi trường. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế không chỉ dừng lại ở việc lựa chọn mô hình phát triển mà còn thấm sâu vào các hoạt động kinh tế. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sản xuất, kinh doanh cần và phải bảo đảm các tiêu chuẩn pháp lý và văn hóa đạo đức của các chủ thể kinh tế. 1.2.2.2. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Đó là sự thể hiện các mặt vật chất, tinh thần, tri thức tình cảm, sức sống và sức sáng tạo của nhân dân các bộ tộc, nó đóng vai trò định hướng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng những tác động đối với con người. Văn hóa Lào đã và đang tác động đến mọi mặt của cuộc sống các bộ tộc Lào. Văn hóa đã tạo nên sức sống mãnh liệt, giúp nhân dân các bộ tộc Lào vượt qua khó khăn, gian khổ trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó tạo nên những phẩm chất, tính cách người Lào, tạo ra sức mạnh, sức sống, sự gắn kết giữa con người Lào với môi trường xã hội và tự nhiên một cách bền vững. Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, văn hóa đang góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc Lào. - Về ngôn ngữ: chữ viết và tiếng nói Lào không những không bị mất đi mà trái lại ngày càng phát triển, mặc dù các thế lực thù địch đang tìm mọi cách để đồng hóa tiếng nói và chữ viết, nhưng họ đều thất bại. - Về phong tục tập quán, những nét riêng biệt tạo nên đặc thù của văn hóa Lào nói chung, văn hóa miền núi nói riêng, không những không bị mai một mà còn được khôi phục, phát huy những nét tốt đẹp, tích cực góp phần phát triển xã hội Lào. - Lối sống trung thực đôn hậu cần cù, chịu khó; tinh thần yêu nước, thương nòi, ý chí dũng cảm, kiên cường, tinh thần đoàn kết, bao dung, nhân ái đang được phát huy trở thành động lực để phát triển đất nước trong sự nghiệp đổi mới. Lào là một quốc gia có mật độ dân số thấp, nông thôn miền núi chiếm phần lớn diện tích lãnh thổ là một quốc gia đa dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời. Nhờ có công cuộc đổi mới, nền kinh tế đang có sự khởi sắc, nhưng cũng xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo. Do đó, một trong những nhiệm vụ của văn hóa là góp phần vào nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời văn hóa cần phải góp phần đẩy mạnh chuyển giao kinh nghiệm quản lý, tổ chức sản xuất; đưa cán bộ khoa học lên miền núi; giáo dục ý thức pháp luật cho công nhân, nông dân; nâng cao trình độ học vấn; tăng cường chăm sóc sức khỏe cộng đồng; kích thích nhu cầu làm giàu chính đáng; tích cực xóa đói giảm nghèo, bảo đảm công bằng xã hội... Tuy nhiên, hiện nay đời sống ở miền núi của Lào cũng đang xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực. Một số giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa vùng cao miền núi bị mai một; tinh thần cộng đồng, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau trong bản làng cổ truyền đang có nguy cơ rạn vỡ; quan hệ gia đình, quan hệ thân tộc, quan hệ cộng đồng rạn nứt. Các giá trị văn hóa vật thể, và đặc biệt là các giá trị văn hóa phi vật thể bị biến dạng. Lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến lợi ích riêng, xâm hại lợi ích chung, không tuân thủ luật pháp; ý thức cộng đồng có nguy cơ suy thoái. Tình trạng cờ bạc, nghiện hút, rượu chè... ở miền núi đang lan rộng. Trước sự tác động của những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và văn hóa ngoại lai đang xâm nhập, nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian cổ truyền có nguy cơ mai một. ở địa bàn người Lào Thơng (Người Khơ mu) sinh hoạt văn hóa lễ tết là một giá trị quý báu, nhưng hiện nay nhiều bản đã bỏ đi, đó là một dấu hiệu đáng lo ngại. Hiện nay có một số dân tộc không muốn mặc quần áo của dân tộc mình, không thích hát những bài dân ca của dân tộc vì nghĩ rằng đó là sự lạc hậu, lỗi thời so với cái "hiện đại" trên các phim ảnh, báo chí... Như vậy nhiệm vụ bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở vùng miền núi xa xôi, từng bước xây dựng những giá trị và chuẩn mực văn hóa ở vùng miền núi, góp phần làm lành mạnh đời sống tinh thần của đồng bào miền núi là một nhiệm vụ hết sức cơ bản. Theo chủ trương của Đảng, hiện nay miền núi đang có phong trào xây dựng "bản làng văn hóa". Những phong trào này cần được phát triển hơn nữa, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở miền núi chính là một trong những nhiệm vụ cấp bách góp phần bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa của các bộ tộc Lào trong quá trình phát triển "hiện đại hóa" đất nước. 1.2.2.3. Văn hóa phải tham gia xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng, dân chủ ở vùng miền núi Trong công cuộc đổi mới, kinh tế của Lào đã có sự tăng trưởng đáng kể, song đã xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và miền núi. "Riêng ở miền núi của Lào hiện nay có tới 30 - 40% tổng số hộ thuộc loại nghèo với mức thu nhập bình quân đầu người dưới 100.000 kíp/tháng, trong đó có khoảng 15 - 20% thuộc loại hộ đói có thu nhập 50.000 kíp/tháng. Sự chênh lệch giữa giàu và nghèo lên tới 20 - 30 lần. Đó chưa nói đến sự chênh lệch mức sống giữa vùng miền núi và đồng bằng ngày càng gia tăng. Để xóa đói giảm nghèo, các hoạt động văn hóa có vai trò tích cực. Kết quả điều tra về nguyên nhân đói nghèo ở miền núi cả nước cho thấy: - Thiếu kiến thức và kinh nghiệm 60 - 80%. - Thiếu ruộng, thiếu việc làm 5 - 10%. - Đông con, mê tín dị đoan 50 - 70%. - Lười lao động, ăn tiêu lãng phí 10 - 15%. - Bỏ ruộng đất vào thành phố 60 - 70%. (Điều tra kế hoạch phát triển miền núi 2003 - 2004 ngày 30/9/2003, nguồn dẫn của cơ quan kế hoạch và điều tra khu Xay-sổm-bun). Như vậy nguyên nhân hàng đầu và cơ bản nhất của đói nghèo ở vùng núi Lào hiện nay là thiếu kiến thức và kinh nghiệm. Thiếu kiến thức và kinh nghiệm thì không dám đầu tư vốn lớn vào công việc sản xuất vì sợ lỗ, hoặc không thể "vay vốn" ở ngân hàng được. Kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh là quá trình tích lũy lâu dài bằng nhiều con đường và phương pháp khác nhau, đặc biệt là phụ thuộc vào chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo. Việc đa dạng hóa các hình thức và phương pháp giáo dục tri thức và kinh nghiệm sản xuất, nhất là trong thời kỳ bùng nổ thông tin sẽ là một phương
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng