Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong quân đội nhân dân việt n...

Tài liệu Xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong quân đội nhân dân việt nam hiện nay

.DOC
196
177
106

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Văn Phương MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ BAN TỔ CHỨC Ở CÁC SƯ ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 1.1. Ban tổ chức và đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam 1.2. Những vấn đề cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội Nhân dân Việt Nam Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ BAN TỔ CHỨC Ở CÁC SƯ ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 2.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam 2.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam Chương 3. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ BAN TỔ CHỨC Ở CÁC SƯ ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Tình hình nhiệm vụ và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 3.2. Những giải pháp tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 5 11 30 30 52 75 75 99 116 116 127 172 174 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 175 188 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 Chữ viết đầy đủ Ban Chấp hành Trung ương Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Công tác đảng, công tác chính trị Chính trị quốc gia Đảng Cộng sản Việt Nam Đội ngũ cán bộ Học viện Chính trị quân sự Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Việt Nam Trong sạch vững mạnh Xã hội chủ nghĩa Vững mạnh toàn diện Chữ viết tắt BCHTW CNH, HĐH CTĐ, CTCT CTQG ĐCSVN ĐNCB HVCTQS Nxb QĐNDVN TSVM XHCN VMTD 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Đề tài luận án: “Xây dựng đội ngũ cán ban tổ chức ở các sư đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, được nghiên cứu sinh tâm huyết, ấp ủ và đầu tư trí tuệ, công sức nghiên cứu suốt quá trình học tập và trải nghiệm thực tiễn công tác trong lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng gần 20 năm. Trong thời gian đó, nghiên cứu sinh luôn nỗ lực tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm và chủ động nghiên cứu, viết các bài báo đăng trên các tạp chí có uy tín trong quân đội về nội dung có liên quan. Đề tài được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng ĐNCB; tham khảo, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài; cùng với các báo cáo sơ kết, tổng kết của các đơn vị và số liệu điều tra, khảo sát; sự định hướng, trao đổi của tập thể cán bộ hướng dẫn khoa học để nghiên cứu sinh giải quyết những nhiệm vụ mà công trình nghiên cứu đặt ra. Đề tài luận án hướng vào làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN. Trên cơ sở đó, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN những năm vừa qua. Từ những phân tích làm rõ sự tác động của tình hình nhiệm vụ, đề tài luận án xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp tăng cường xây dựng đội ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN hiện nay. 2. Lý do lựa chọn luận án Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong đó, xây dựng ĐNCB là khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt, nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với sứ mệnh của Đảng, vận mệnh của đất nước và chế độ. Nhờ đó, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, 6 chính sách, pháp luật của Nhà nước đều được lãnh đạo, triển khai tổ chức thực hiện thống nhất từ trung ương tới cơ sở, góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống tổ chức đảng thuộc Đảng bộ QĐNDVN, đảng bộ sư đoàn là đảng bộ cấp trên cơ sở, lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở sư đoàn, bảo đảm cho sư đoàn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. ĐNCB ban tổ chức thuộc phòng chính trị ở các sư đoàn có vai trò rất quan trọng trong công tác xây dựng đảng ở đảng bộ các sư đoàn, họ là những người trực tiếp tham mưu, đề xuất với ban chủ nhiệm phòng chính trị những chủ trương, biện pháp xây dựng đảng bộ sư đoàn về mặt tổ chức; hướng dẫn, bồi dưỡng các cấp ủy, cán bộ chính trị, đội ngũ cấp ủy viên các cấp về nghiệp vụ công tác tổ chức xây dựng Đảng; theo sự phân công của thủ trưởng cơ quan chính trị và đảng ủy sư đoàn chuẩn bị các văn kiện, nghị quyết, soạn thảo các quy chế, chỉ thị, hướng dẫn, các báo cáo nghiệp vụ công tác tổ chức xây dựng Đảng của đảng ủy sư đoàn. Vì vậy, ĐNCB ban tổ chức có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động lãnh đạo và công tác xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong đảng bộ sư đoàn. Chất lượng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lãnh đạo, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng thuộc đảng bộ các sư đoàn trong QĐNDVN. Trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong đảng bộ sư đoàn nên số lượng ĐNCB ban tổ chức thường xuyên được kiện toàn, chất lượng ngày càng được nâng lên; đại bộ phận được đào tạo cơ bản trong các nhà trường quân đội, được rèn luyện qua các cương vị cán bộ chủ trì về chính trị ở các đơn vị cấp phân đội, có năng lực công tác xây Đảng, CTĐ, CTCT tốt, có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ công tác xây dựng đảng bộ các sư đoàn TSVM, thì chất lượng ĐNCB ban tổ chức có 7 mặt chưa đáp ứng. Số lượng còn thiếu so với nhu cầu nhiệm vụ, cơ cấu đội ngũ chưa thật hợp lý, năng lực công tác xây dựng Đảng, nhất là năng lực tham mưu đề xuất; năng lực chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra; năng lực tổng hợp, dự báo; năng lực phối hợp hiệp đồng; năng lực xử lý các tình huống…cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định so với yêu cầu chức trách, nhiệm vụ. Những hạn chế, khuyết điểm đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến công tác tổ chức xây dựng Đảng ở đảng bộ các sư đoàn trong QĐNDVN hiện nay. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nâng cao chất lượng công tác xây dựng dựng Đảng ở đảng bộ các sư đoàn trong tình hình hiện nay, phải xây dựng và phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của ĐNCB ban tổ chức - lực lượng trực tiếp tham mưu giúp đảng ủy, chính ủy sư đoàn về công tác xây dựng Đảng. Điều đó, đòi hỏi phải tập trung xây dựng ĐNCB ban tổ chức ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Với những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Xây dựng ĐNCB ban tổ ở các sư đoàn trong QĐNDVN hiện nay” làm đề tài luận án, mong muốn góp phần xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp tăng cường xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án - Làm rõ những vấn đề cơ bản về cán bộ ban tổ chức và xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN. - Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN. 8 - Làm rõ sự tác động tình hình nhiệm vụ, xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp tăng cường xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN là đối tượng nghiên cứu của luận án. * Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động xây dựng ĐNCB ban tổ chức thuộc phòng chính trị ở các sư đoàn đủ quân trong quân đội, bao gồm các sư đoàn bộ binh, bộ binh cơ giới thuộc các quân khu, quân đoàn, các sư đoàn phòng không, sư đoàn không quân thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân. Các số liệu, tư liệu phục vụ cho luận án được giới hạn chủ yếu từ năm 2005 đến nay, những giải pháp có giá trị định hướng đến năm 2030. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay; các văn kiện, nghị quyết của Đảng, của Quân ủy Trung ương về cán bộ và công tác cán bộ. * Cơ sở thực tiễn Là thực tiễn xây dựng ĐNCB ban tổ chức và công tác tổ chức xây dựng Đảng ở các sư đoàn trong QĐNDVN; tham khảo các báo cáo sơ kết, tổng kết của các quân khu, quân đoàn, Quân chủng Phòng không - Không quân và các sư đoàn về những vấn đề có liên quan. Kết hợp với kết quả điều tra, khảo sát thực tế về thực trạng xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn của nghiên cứu sinh. * Phương pháp nghiên cứu 9 Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống-cấu trúc, lịch sử-logic, khái quát hoá, hệ thống hóa, khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia. 6. Những đóng góp mới của luận án - Luận giải làm rõ quan niệm và những vấn đề cơ bản vể xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN. - Tổng kết một số kinh nghiệm xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN. Đó là, luôn xuất phát từ nhiệm vụ của sư đoàn, yêu cầu nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng và chức trách, nhiệm vụ của cán bộ ban tổ chức; xây dựng ĐNCB ban tổ chức phải tiến hành đồng bộ các khâu, các bước trong quy trình xây dựng ĐNCB; chú trọng giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa yêu cầu “chuyên môn hóa” và luân chuyển cán bộ ban tổ chức ở các sư đoàn trong quân đội - Đề xuất một số nội dung, biện pháp tăng cường xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong QĐNDVN hiện nay. Đó là, nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp về vị trí, vai trò, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng; làm tốt công tác tạo nguồn, tuyển chọn cán bộ ban tổ chức; phối hợp chặt chẽ giữa các nhà trường và đơn vị trong đào tạo ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn; tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chức năng cấp trên trong xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp cho đảng ủy các sư đoàn, cấp ủy, thủ trưởng phòng chính trị sư đoàn xác định các chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ĐNCB ban tổ chức ở các sư đoàn trong quân đội vững mạnh, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. 10 Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn CTĐ, CTCT ở các nhà trường quân đội. 8. Kết cấu của luận án Luận án gồm: Mở đầu; tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án; 3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến luận án; danh mục tài liệu tham khảo; phụ lục. 11 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài 1.1. Các công trình nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ Tác giả Tăng Ngọc Thành, Chu La Canh (1997),“Đẩy mạnh cải cách mở cửa, tiến lên phía trước” [118], đã tổng kết những kinh nghiệm và thành tựu trong công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc, những thách thức mà Trung Quốc đang phải đối mặt. Một trong những vấn đề nghiên cứu được tác giả cuốn sách nêu lên là: để vượt qua thách thức đưa công cuộc cải cách mở cửa tiếp tục tiến lên cần phải quan tâm xây dựng ĐNCB cách mạng, năng động, sáng tạo. Kinh nghiệm cốt tử là công tác cán bộ phải phục tùng Đảng. Đảng phải xây dựng ĐNCB cho cả hệ thống chính trị bao gồm cả người trong Đảng và người ngoài Đảng. Trung Quốc kiên trì phương châm “bốn hóa” trong xây dựng ĐNCB. Bốn hóa bao gồm: Cách mạng hóa, trẻ hóa, tri thức hóa, chuyên môn hóa. Trung Quốc coi đó là một khái niệm hoàn chỉnh, trong đó cách mạng hóa là tiền đề quyết định tính chất của phương châm này. Thực hiện phương châm “bốn hóa” là yêu cầu tất yếu của sự nghiệp cải cách mở cửa hiện nay. Về tiêu chuẩn cán bộ, Trung Quốc kiên trì nguyên tắc “tài đức song toàn” gắn chặt với nguyên tắc “thực tiễn là số một” và nguyên tắc “được nhân dân công nhận”. Về đánh giá cán bộ, Trung Quốc thực hiện xem xét một cách toàn diện cả “đức, năng, cần, tích” để quyết định lấy hay không lấy, dùng hay không dùng. Một kinh nghiệm quý giá mà Trung Quốc đúc kết là: phải coi trọng bồi dưỡng cán bộ mới và cốt cán cách mạng. Đảng Cộng sản Trung Quốc coi việc bồi dưỡng người kế tục sự nghiệp cách mạng là việc quan trọng trong công tác cách mạng của Đảng, hình thành nên một hệ thống lý luận và phương châm, nguyên tắc hoàn chỉnh. Theo đó, Trung Quốc đã xây dựng và hoàn thiện “Chiến lược nhân tài”, trọng tâm của chiến lược hướng vào việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hiền tài kế tục sự nghiệp cách mạng. Trung Quốc coi trọng cải cách việc dạy và học ở các trường Đảng, Học viện Hành chính, coi trọng đưa 12 người ra nước ngoài đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tăng cường tính thực tiễn trong đào tạo cán bộ. Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (2008), (đồng chủ biên) “Tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước” [62]. Đã phân tích rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc xây dựng ĐNCB Trung quốc trong thời kỳ mới, trong đó tri thức được đề cao, đi đôi với đòi hỏi “tài đức song toàn”. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Trung Quốc, tác giả chỉ ra tính cấp thiết để xây dựng CNXH, Đảng phải tìm cho ra và đào tạo được ĐNCB có tài, đức, hết lòng với sự nghiệp cách mạng. Đảng Cộng sản Trung Quốc kiên trì tư tưởng Mao Trạch Đông và lý luận Đặng Tiểu Bình trong tiến hành đường lối công tác tổ chức cán bộ. Theo quan niệm của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình, sự nghiệp xây dựng CNXH cần những con người Macxit-Lêninnit chân chính, toàn tâm toàn ý phục vụ cho sự nghiệp vĩ đại của tuyệt đại đa số nhân dân Trung Quốc. Mao Trạch Đông nhấn mạnh rằng: cán bộ lãnh đạo phải cố gắng để trở thành chuyên gia tinh thông công tác kinh tế “Những người không chú trọng nghiên cứu sản xuất thì không thể nói là người lãnh đạo tốt được” [62, tr.67]. Mao Trạch Đông cũng yêu cầu: cán bộ phải hăng hái nỗ lực để nâng cao trình độ chủ nghĩa Mác-Lênin, làm cho mình trở thành chuyên gia tinh thông công tác chính trị nữa. Tuy nhiên, do những hạn chế của thời đại và đặc biệt là cá nhân Mao Trạch Đông đã có những sai lầm nghiêm trọng, làm ảnh hưởng sự phát triển của Trung Quốc, nhất là tư tưởng tả khuynh trong “Đại cách mạng văn hoá” đã gây tổn hại cho cách mạng, nhất là tổn thất ĐNCB của Đảng. Song, những tư tưởng của Mao Trạch Đông về xây dựng ĐNCB vẫn có giá trị, nhất là trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc hiện nay. Tác giả A.A.Grê-Scô (1978), “Các lực lượng vũ trang của Nhà nước Xô Viết” [53]. Cuốn sách với dung lượng 582 trang, đây là một công trình khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn cao về xây dựng quân đội. Chương VII của công trình đã luận giải về cán bộ, sĩ quan của các lực lượng vũ trang đó là: “Không thể xây dựng và phát triển quân đội mà không có một số lượng đầy đủ cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị, cán bộ kỹ thuật - kỹ sư được đào tạo một cách thích đáng. 13 Đó là chân lý hoàn toàn rõ ràng. Sĩ quan là cơ sở, là sườn của quân đội và hạm đội” [53, tr.289]. Tác giả đã đưa ra những yêu cầu rất cụ thể với cán bộ, sĩ quan và việc đào tạo họ như: phải có tính kiên định cộng sản chủ nghĩa, lòng trung thành vô hạn với Đảng và nhân dân; có kỷ luật và ý thức chấp hành cao, đó là việc thực hiện một cách chính xác và kịp thời mệnh lệnh của cấp trên, tính trung thực và chân thành; phải thường xuyên sáng kiến và tính chủ động trong mọi hoạt động; luôn có ý chí chỉ huy và năng lực tổ chức trong việc đạt tới mục đích; phải có trình độ nghiệp vụ, trình độ văn hóa và trình độ kỹ thuật - quân sự cao; biết huấn luyện và giáo dục những người dưới quyền của mình. 1.2. Các công trình nghiên cứu về cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và cán bộ tổ chức trong quân đội Viện Lịch sử quân sự Bộ Quốc phòng Liên Xô (1976), “Công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô 1918 - 1973” [150], đã tổng kết khá sâu sắc về lịch sử quá trình hình thành, phát triển CTĐ, CTCT trong các lực lượng vũ trang Liên Xô; sự hình thành, phát triển, bổ sung về biên chế tổ chức, thay đổi chức năng, nhiệm vụ và vai trò của hệ thống cơ quan chính trị trong Quân đội và Hải quân Xô viết đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN từ năm 1918 đến năm 1973. Bàn về cơ quan chính trị, cuốn sách đề cập ở chương V, chương VI và chương VII. Điểm 3, phần 1, Chương V: “Việc củng cố các cơ quan chính trị và các tổ chức đảng trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai từ năm 1941 đến năm 1945”, trong đó có nhấn mạnh việc củng cố các cơ quan chính trị là vấn đề có ý nghĩa rất lớn. Đồng thời, đánh giá cao những thành công trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ ở cơ quan chính trị. Tác giả cuốn sách xác định: “Trong quá trình chiến tranh, các cán bộ chính trị đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt đẹp” [150, tr.340]. Điểm 2 phần 1 của chương VI đề cập đến việc cải tổ lại cơ cấu và công tác của các cơ quan chính trị, các tổ chức đảng và đoàn thời kỳ những năm sau chiến tranh năm 1946 đến năm 1953. Lý do cải tổ cơ quan chính trị là nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chuyển từ thời chiến sang thời bình; để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Điều lệ về cơ quan chính trị của các lực lượng vũ trang Xô viết được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô 14 thông qua và ban hành đã quy định rõ về cơ cấu, nhiệm vụ của cơ quan chính trị, đồng thời xác định: cơ quan chính trị phải tập trung sự chú ý của mình vào việc giáo dục chính trị cho các quân nhân, củng cố chế độ một thủ trưởng, lãnh đạo các tổ chức đảng và đoàn, tổng kết và áp dụng vào kinh nghiệm CTĐ, CTCT đã tích lũy được trong những năm chiến tranh. P.l.Các-pen-cô (1981), “Công tác đảng - chính trị trong các lực lượng vũ trang Xô viết” [16]. Đây là một cuốn sách giáo khoa dùng để giảng dạy về công tác đảng - chính trị, theo chương trình đào tạo sỹ quan dự bị tại các trường đại học và cao đẳng. Cuốn sách đã nghiên cứu về nhiều vấn đề, song ở Điểm 1, Chương III đề cập “Các cơ quan chính trị, nhiệm vụ, cơ cấu, tính chất hoạt động”. Về nhiệm vụ của cơ quan chính trị được xác định là: giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ; giáo dục đạo đức quân nhân; tăng cường ảnh hưởng của Đảng đến mọi mặt của đời sống và hoạt động của bộ đội; tăng cường vai trò của tổ chức đảng; lãnh đạo các tổ chức đoàn thanh niên; nghiên cứu, lựa chọn, giáo dục ĐNCB chính trị. Về cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan chính trị: lãnh đạo công tác đảng trong các lực lượng vũ trang thông qua Tổng cục Chính trị Quân đội và Hải quân Xô viết (với quyền hạn là một ban của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô); dưới từng quân chủng, tập đoàn, binh đoàn, thành lập Cục chính trị; dưới các cụm bộ đội, hạm đội, nhà trường, cơ quan nghiên cứu thành lập phòng chính trị. Về tính chất của cơ quan chính trị được xác định: tính lãnh đạo; tính chính trị, tư tưởng; tính chiến đấu và tính quần chúng. Trương Tư Nghị (1986, 1987), (chủ biên) “Giáo trình công tác đảng, công tác chính trị của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc” (dùng trong các học viện, nhà trường trong thời kỳ mới) [93], ở Phần 3, Chương XI, viết về cơ quan chính trị, xác định các đơn vị Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc: từ cấp trung đoàn và tương đương thành lập phòng chính trị, từ sư đoàn và tương trở lên thành lập Bộ chính trị, cơ quan chính trị toàn quân gọi Tổng bộ Chính trị. Trong đó: Bài một, đã đề cập đến tính chất, vị trí, vai trò của cơ quan chính trị. Bài hai, đề cập đến công tác chủ yếu và yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan chính trị. Đây là cơ quan có nhiệm vụ rất quan trọng trong tham mưu và tổ chức thực hiện mọi đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản, Hiến pháp, pháp 15 luật của Nhà nước và điều lệnh, điều lệ của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Cuốn sách xác định rõ, công tác chủ yếu của cơ quan chính trị là: Quán triệt thực hiện đường lối, phương châm, chính sách và Hiến pháp, pháp luật quốc gia, của Đảng Cộng sản Trung Quốc, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với quân đội, kiên trì “bốn nguyên tắc” cơ bản, quét sạch ảnh hưởng của cánh tả, phòng ngừa và khắc phục thiên hướng cánh hữu, duy trì sự thống nhất với Trung ương Đảng về mặt chính trị, tư tưởng [93, tr.254]. Bài ba, đề cập đến chức trách công tác của các ban ngành trong cơ quan chính trị như: ngành tổ chức, ngành cán bộ, ngành tuyên truyền, ngành bảo vệ, ngành văn hoá, ngành công tác quần chúng, ngành liên lạc và ngành thư ký. Đối với công tác tổ chức, tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm, luận cứ cứu có giá trị như: Ngành tổ chức các cấp là ngành nghiệp vụ quản lý công tác tổ chức và công tác thanh niên. Nhiệm vụ cơ bản của nó là lấy học thuyết xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam, lấy Điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc, những chuẩn mực cơ bản của đời sống chính trị trong Đảng và những chỉ thị, nghị quyết của đảng ủy làm căn cứ để chỉ đạo công tác xây dựng Đảng đoàn của các đơn vị [93, tr.259]. Trong bài này, còn chỉ rõ chín chức trách của công tác tổ chức, đây là những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao, làm cơ sở cho việc triển khai tổ chức thực hiện công tác tổ chức ở các đơn vị quân đội Trung Quốc. Về chức trách công tác tổ chức được tác giả chỉ ra, gồm: Một là, tìm hiểu và nghiên cứu tình hình xây dựng đảng ủy của các đơn vị trực thuộc Hai là, nắm vững và nghiên cứu tình hình tổ chức cơ sở đảng, chỉ đạo và giúp đỡ các chi bộ đảng tăng cường tự thân vận động Ba là, tìm hiểu và nghiên cứu tình hình kỷ luật của Đảng, phối hợp giúp đỡ với ủy ban kiểm tra kỷ luật của Đảng để làm tốt công tác kiểm tra kỷ luật 16 Bốn là, chỉ đạo bộ đội trực thuộc làm tốt công tác tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản và công tác thanh niên Năm là, đồng thời phối hợp với những ngành có liên quan nghiên cứu và chỉ đạo bộ đội làm tốt công tác chính trị trong quá trình huấn luyện quân sự và công tác chính trị thời chiến Sáu là, chỉ đạo bộ đội triển khai các hoạt động xây dựng văn minh tinh thần, những vấn đề mũi nhọn mang tính quần chúng nhân dân, v.v...Tổng kết phát triển kinh nghiệm tiên tiến, phụ trách công tác tổ chức và công tác xét tuyển của hội nghị đại biểu đơn vị tiên tiến, cá nhân tiên tiến Bẩy là, tìm hiểu và chỉ đạo công tác ủy ban hội đồng quân nhân cách mạng quân đội về phát huy Ba dân chủ trong quân sự, kinh tế, chính trị Tám là, phụ trách công tác quản lý việc chăm sóc, động viên an ủi và quản lý việc hôn nhân của chiến sĩ, đảm nhận công tác có liên quan đến tổ chức như là tham gia các tổ chức đại hội đại biểu nhân dân, đại hội hiệp thương chính trị và đại hội công nhân viên chức quốc phòng, thanh niên, phụ nữ, v.v... Chín là, quản lý biên chế cơ quan chính trị đơn vị trực thuộc, kiểm tra tình hình chấp hành Điều lệ Đảng của các quân nhân trong các đơn vị trực thuộc. Phụ trách công tác thống kê thực lực công tác chính trị; công tác quản lý đảng viên; công tác khen thưởng và kỷ luật đảng; công tác quản lý và tiếp nhận đảng viên, đoàn viên; công tác chuyển đảng và công tác tổ chức đảng, quản lý đảng phí, đoàn phí, sử dụng, quản lý công tác đảng vụ, công tác đoàn và các cộng tác viên làm công tác chính trị sở tại thực hiện Điều lệ Công tác chính trị. Phụ trách việc lấy thực lực chính trị, quản lý đảng viên, công tác thưởng phạt, quan hệ tổ chức đoàn, sử dụng đảng phí, đoàn phí, giải quyết xử lý công tác, nhiệm vụ khác của Đảng và công tác, nhiệm vụ của đoàn, v.v... [93, tr.260-261]. 1.3. Các công trình nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ 17 chính trị trong quân đội A.Ph.Sram-tren-cô (1983), “Những vấn đề Tâm lý học trong chỉ huy bộ đội” [112]. Ở chương IV, tác giả đã đưa ra vấn đề lựa chọn và phân phối cán bộ, hình thành các tập thể quân nhân. Trong đó, chú ý nhiều đến việc lựa chọn cán bộ, tìm tòi và phát hiện những người thực sự có tài, có năng lực, từ đó mà biết giao việc cho từng người cán bộ để họ trưởng thành, và thường xuyên giúp đỡ họ. Đồng thời, đưa ra những nội dung, biện pháp trong bồi dưỡng, giáo dục, quản lý cán bộ trẻ, ít kinh nghiệm thực tế, tâm lý, tư tưởng luôn bị tác động chi phối, dao động trong thực tiễn công tác. Tác giả xác định: Trong kế hoạch công tác đảng - công tác chính trị của tổ chức các cấp cần phải dự kiến trước những biện pháp giúp đỡ các sĩ quan trẻ như: tổ chức gặp gỡ những người chỉ huy có kinh nghiệm và chuyên gia giỏi về phương pháp giảng dạy, những nhà cách mạng lão thành và cựu chiến binh, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ họ trong công tác, trong tổ chức đời sống và các hoạt động văn hóa quần chúng khác nhau [112, tr.227]. A.A.Ê-pi-sép (1976), “Tóm tắt lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô 1918 – 1973” [51], chương III, phần 2 của cuốn sách đã tổng kết lịch sử CTĐ, CTCT trong lực lượng vũ trang Xô viết giai đoạn 1921 đến 1928. Tác giả cho rằng: Đảng Cộng sản Liên xô rất coi trọng đến việc lựa chọn, đào tạo cán bộ chính trị cho quân đội và đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo như: phải lựa chọn, bồi dưỡng cán bộ chính trị đáp ứng yêu cầu sự phát triển của quân đội, trở thành một việc hết sức cấp thiết để cán bộ chính trị có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ; việc đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho ĐNCB chính trị được tiến hành bằng các phương hướng cơ bản: bằng học tập ở các nhà trường quân sự, trực tiếp ở các đơn vị và tự học của cán bộ chính trị. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử để quân đội tiến hành đào tạo bổ túc, đào tạo dài hạn cán bộ chính trị. Nhưng việc bồi dưỡng tại chức cho cán bộ chính trị, là hình thức quan trọng để nâng cao trình độ năng lực của cán bộ chính trị, bảo đảm cho họ đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, tác giả cho rằng hình thức tự học vẫn là hình thức chủ yếu để mở rộng kiến thức lý luận, 18 thực tiễn của các cán bộ chính trị. Nội dung đào tạo cán bộ chính trị được tiến hành toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự. Bun Lon Sa Luôi Sắc (2014) "Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Lào ngày càng vững mạnh và có chất lượng cao" [15]. Tác giả khẳng định: ĐNCB giữ các cương vị, trọng trách lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cơ quan, đơn vị trong toàn quân là lực lượng nòng cốt trong tổ chức thực hiện đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng; có vai trò quyết định trong tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật và trong thực hiện các nhiệm vụ khác của quân đội. Vì vậy, Đảng nhân dân cách mạng Lào luôn coi trọng lãnh đạo công tác cán bộ, bảo đảm cho ĐNCB thực sự là lực lượng nòng cốt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội, làm cho quân đội thực sự là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào. Khi bàn về: nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị của ĐNCB, tác giả chỉ rõ: thực hiện các nội dung trong công tác cán bộ, nâng cao trình độ mọi mặt của ĐNCB phải gắn với trách nhiệm lãnh đạo, quản lý chỉ huy đơn vị; lấy kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của cán bộ mà đánh giá chất lượng công tác xây dựng ĐNCB. Neang Phat (2016) “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội Hoàng gia Cam puchia hiện nay” [91]. Tác giả cho rằng: trong Quân đội Hoàng gia Campuchia, ĐNCB có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần xây dựng quân đội, cơ quan, đơn vị VMTD, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Nhà vua, Chính phủ Hoàng gia và nhân dân giao cho. Từ khi ra đời cho đến nay, Hoàng gia và Chính phủ Campuchia đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng ĐNCB quân đội, bảo đảm cho quân đội được quản lý và chỉ huy thông suốt. Trên cơ sở phân tích các đặc điển của ĐNCB, chỉ ra những yếu tố tác động đến xây dựng ĐNCB Quân đội Hoàng gia Campuchia, tác giả đã đề xuất 06 giải pháp tăng cường xây dựng ĐNCB Quân đội Hoàng gia Campuchia hiện nay, Ở giải pháp thứ 03, bàn về đổi mới, nâng cao chất lượng tạo nguồn, tuyển chọn, quy hoạch ĐNCB Quân đội Hoàng gia Campuchia, tác giả cho rằng: thực hiện đúng phương châm “động”, “mở” và “mềm” trong 19 quy hoạch ĐNCB các cấp, đảm bảo cho công tác quy hoạch không hạn chế số người định sẵn, có nhiều nguồn để lựa chọn, không khép kín trong từng cơ quan, đơn vị; cần nhớ đến chính sách tiến cử, bầu cử, thăng chức vượt cấp của các triều đại Campuchia trong lịch sử dựng nước và giữ nước nhằm trọng dụng, không bỏ sót người tài. Chính sách này đã được thực tiễn lịch sử chứng minh là đúng đắn và có hiệu quả. 2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài 2.1. Các công trình nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ Nguyễn Minh Tuấn (2012),“Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [140], tác giả đã chỉ ra vấn đề cán bộ là then chốt của khâu then chốt, là nhân tố quyết định thành bại của cách mạng, đồng thời đưa ra cơ sở lý luận, thực tiễn của việc đổi mới đồng bộ công tác cán bộ hiện nay là xuất phát từ đòi hỏi của thời kỳ CNH, HĐH đất nước, từ yêu cầu của chiến lược cán bộ của Đảng thời kỳ mới. Từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp đồng bộ bao gồm: xây dựng tiêu chuẩn, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, quản lý, bố trí, sử dụng, thực hiện chế độ chính sách đối với ĐNCB. Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết về công tác cán bộ, tác giả đã đưa ra những vấn đề mới trong xây dựng ĐNCB hiện nay như: đổi mới quy trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng thiết thực, hiệu quả; nâng cao chất lượng nguồn quy hoạch đáp ứng yêu cầu trẻ hoá cán bộ; đưa ra được nhiều hình thức, phương pháp cụ thể phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát, đánh giá, kiểm tra cán bộ… Dương Quang Hiền (2013), “Xây dựng đạo đức cách mạng của người cán bộ, viên chức xứng đáng là “công bộc” của dân” [61, tr.50-52]. Tác giả đã khái quát, đánh giá thực trạng tình hình yếu kém về đạo đức, tác phong cũng như trình độ năng lực của ĐNCB hiện nay đó là: vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức tự coi mình là “quan cách mạng”, vẫn còn hiện tượng “quan tham”, làm việc trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, những hiện tượng đó đều đối lập với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “công bộc” của dân [61, tr.51]. Để khắc phục tình trạng yếu kém trên, đồng thời bảo đảm cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất 20 lượng cán bộ của Đảng nói chung theo tác giả cần thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau đây: Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý để điều chỉnh đối tượng là cán bộ, công chức. Thứ hai, cán bộ, viên chức phải luôn hành động theo phương châm “việc gì lợi cho dân, phải hết sức làm; việc gì hại cho dân, phải hết sức tránh”. Thứ ba, mỗi cán bộ, viên chức phải yêu dân, tin dân, trọng dân, gần dân, học dân. Thứ tư, mỗi cán bộ, đảng viên luôn thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Thứ năm, mỗi cán bộ, công chức phải ra sức học tập, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực để có cống hiến cao nhất cho nhân dân. Thứ sáu, Nhà nước chăm lo đến chế độ, chính sách đối với ĐNCB, công chức để họ thực sự là “công bộc” của dân. Thứ bảy, mỗi cán bộ công chức nghiêm túc và thường xuyên thực hành phê bình và tự phê bình [61, tr.51-52]. Nguyễn Quang Phát (2001), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị phân đội của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [94], tác giả khái quát tư tưởng của Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn cán bộ chính trị, đó là: phải là người thật sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, có năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội; thực sự mẫu mực về phong cách, phương pháp công tác, nói đi đôi với làm. Tác giả đánh giá thực trạng xây dựng ĐNCB chính trị cấp phân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đề xuất những nội dung cơ bản về tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, thực hiện chính sách đối với ĐNCB chính trị cấp phân đội, bảo đảm đội ngũ này có cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, số lượng phù hợp theo yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Tuyển chọn chặt chẽ qua thực tiễn, đào tạo, bồi dưỡng toàn diện, chú trọng về bồi dưỡng đạo đức cách mạng, đánh giá đúng đắn, khéo bố trí, sử dụng và quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ chính trị. 2.2. Các công trình nghiên cứu về phòng chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội Tổng Cục chính trị (1990), “Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” [124]. Cuốn sách đã bàn về vấn đề xây dựng ĐNCB chính trị trong quân đội. Khẳng định ĐNCB chính trị trong 21 quân đội đã được phát triển nhanh, được bồi dưỡng về phẩm chất, năng lực; phát huy được trách nhiệm trong xây dựng và chiến đấu. Trang bị cho ĐNCB cơ quan chính trị cả nội dung quân sự và nội dung chính trị; hệ thống cơ quan chính trị được kiện toàn theo kịp sự phát triển lực lượng và quy mô tác chiến trong chiến tranh; hoạt động có chất lượng, có tính chiến đấu và sinh động được nhân dân yêu mến; đánh dấu bước tiến bộ của ĐNCB chính trị, nhưng cũng chỉ ra những hạn chế của cán bộ chính trị, do chưa đi sâu sát được vào mọi hoạt động của bộ đội, hoặc chưa bám sát thực tế chiến trường, có một số cán bộ chính trị trình độ lý luận và kiến thức quân sự còn thấp; ít liên hệ công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm để phát triển bổ sung lý luận CTĐ, CTCT, nên nhận thức về vị trí, vai trò, tính chất và chức năng CTĐ, CTCT chưa được thống nhất. Phạm Văn Thắng (2003), “Nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng với yêu cầu thời kỳ mới” [119]. Trong Chương III của đề tài, các tác giả đã đưa ra biện pháp có hiệu quả nhất để nâng cao năng lực của cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp trong quân đội là: phải tích cực bồi dưỡng để cơ quan chính trị, cán bộ chính trị thể hiện tốt vai trò là lực lượng nòng cốt, chuyên trách tiến hành CTĐ, CTCT. Xác định một số nội dung, biện pháp cụ thể để bồi dưỡng cơ quan chính trị, cán bộ chính trị trong quân đội, gồm: bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực của chủ nhiệm chính trị, bảo đảm điều hành cơ quan chính trị, làm và triển khai thực hiện tốt kế hoạch CTĐ, CTCT của đơn vị dưới sự chỉ đạo trực tiếp của phó chỉ huy về chính trị; Bồi dưỡng ĐNCB chính trị làm việc ở các cơ quan chuyên môn, đội ngũ trợ lý chính trị ở các đơn vị không có cơ quan chính trị, nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp công tác chuyên môn theo cương vị được giao. Trong đó, cần chú ý năng lực nắm tình hình, nghiên cứu, đề xuất; năng lực hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của ngành, kế hoạch CTĐ, CTCT; năng lực tổng hợp, báo cáo, sơ kết, tổng kết. Cùng với bồi dưỡng năng lực cần bồi dưỡng nâng cao tính nguyên tắc, sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt trong các hoạt động thể hiện đúng tác phong của cán bộ chính trị; bồi dưỡng nâng cao trí tuệ, trình độ nghiên cứu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất