ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN CÔNG TIẾN
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CÓ CỦA THƢƠNG NHÂN
THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN CÔNG TIẾN
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CÓ CỦA THƢƠNG NHÂN
THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS. TS. Vũ Thị Hồng Vân
Hà nội – 2016
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................ Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. Những vấn đề cơ bản về xác định tài sản có của thƣơng nhân mất
khả năng thanh toán ................................................................................................. 8
1.1.
Một số vấn đề cơ bản về tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toán8
1.1.1. Khái niệm thương nhân ..................................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm thương nhân mấ t khả năng thanh toán .......................................... 12
1.1.3. Khái niệm tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toán ................... 15
1.2.
Các tiêu chí xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toán .. 20
1.2.1. Xác định thời điể m tiế n hành giải quyế t vu ̣ viê ̣c phá sản ............................... 21
1.2.2. Xác định nguồ n tài sản, loại hình tài sản ........................................................ 22
1.2.3. Xác định pha ̣m vi không gian mà tài sản có của thương nhân m
ất khả năng
thanh toán đang hiê ̣n hữu .......................................................................................... 24
1.2.4. Xác định tài sản loa ̣i trừ .................................................................................. 25
1.3.
Các bước tiến hành xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh
toán.... ........................................................................................................................ 26
1.3.1. Xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toán tại thời điểm
mở thủ tục phá sản .................................................................................................... 27
1.3.2. Xác định tài sản có của thương nhân trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc
phá sản ....................................................................................................................... 27
1.3.3. Xác định tài sản có của thương nhân sau khi tuyên bố phá sản...................... 28
1.4.
Ý nghĩa của việc xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh
toán.... ........................................................................................................................ 29
Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về xác định tài sản có
của thƣơng nhân mất khả năng thanh toán ............. Error! Bookmark not defined.
2.1.
Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về xác định tài sản có của thương
nhân mất khả năng thanh toán ................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Thời điểm xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toánError! Bookma
2.1.1.1.
Thời ha ̣n kiể m kê và xác đinh tài sản có của thương nhân
̣
mất khả năng
thanh toán.. ................................................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.1.2.
Thời ha ̣n xác đinh các k hoản nợ phải thu hồi của thương nhân m ất khả
̣
năng thanh toán ......................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.1.3.
Xác định tài sản có của thương nhân m ất khả năng thanh toán trong và
sau quá trinh giải quyế t thủ tu ̣c phá sản .................... Error! Bookmark not defined.
̀
2.1.2. Xác định phạm vi tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toán..Error! Book
2.1.3. Chủ thể xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toánError! Bookma
2.1.3.1.
Quản tài viên ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.3.2.
Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản .... Error! Bookmark not defined.
2.1.3.3.
Thương nhân mất khả năng thanh toán .... Error! Bookmark not defined.
2.1.4. Các biện pháp bảo toàn tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toánError! Book
2.2.
Thực trạng thi hành pháp luật về xác định tài sản có của thương nhân mất khả
năng thanh toán ......................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Một số kết quả đạt được trong quá trình thực hiệnError! Bookmark not defined.
2.2.2. Một số khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật về xác định tài
sản có của thương nhân mất khả năng thanh toán..... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về xác định tài sản có của thƣơng nhân mất khả năng thanh toánError! Bookmar
3.1.
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác định tài sản có của thương nhân
mất khả năng thanh toán ........................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.
Một số giải pháp về tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của pháp luật về xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh
toán.... ........................................................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................................. Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 34
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Có thể thấy rằng , mục đích quan trọng của thủ tục phá sản là xác định khả
năng phục hồi của thương nhân mấ t khả năng thanh toán đ ể hỗ trợ, thúc đẩy và tạo
điều kiện cho thương nhân quay trở lại thị trường. Trường hợp thương nhân không
còn khả năng phục hồi, thì cần xác định chính xác sản nghiệp thương mại để đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, trong đó, việc xác định tài sản có của
thương nhân đóng vai trò quan trọng. Đây không đơn giản chỉ là mô ̣t môn khoa ho ̣c
chính xác, mà cao hơn thế, nó còn là nghệ thuật . Không những phải xác đinh những
̣
tài sản hiện hữu , hữu hinh mà viê ̣c xác đinh tài s ản có của thương nhân còn đặt ra
̣
̀
đố i với những tài sản khó n ắm bắ t th ậm chí tài sản chủ sở hữu cố tình che giấu
(trong một số trường hợp).
Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, vấ n đề xác đinh tài sản có của thương nhân
̣
trong trường hơ ̣p phá sản còn chứa đựng nhiề u tồ n ta ̣i trên cả
phương diê ̣n pháp lý
cũng như thực tiễn . Luật Phá sản số 51/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hànhngày 19/6/2014 chưa có những quy pha ̣m pháp
lý cụ thể , trực tiế p đề câ ̣p tới vấ n đề này , nó đang được n êu ra nhưng chỉ dưới góc
đô ̣ khoa ho ̣c luâ ̣t và thuô ̣c tài sản phá sản của doanh nghiê ̣p , hơ ̣p tác xã nói chung .
Mă ̣t khác , đố i với những quy đinh đang tồ n ta ̣i có liên quan tới ho ạt động xác định
̣
tài sản có của thương nhân trong trườ ng hơ ̣p phá sản cũng chưa thực sự hoàn thi ện,
bản thân các quy đ ịnh này còn nhiều bất cập và mới chỉ xác lập về mặt hình thức
chung cho công tác xác định tài sản của thương nhân. Chính những hạn chế về mặt
lâ ̣p pháp đã gây nhi ều khó khăn cho hoạt động thực tế của cơ quan nhà nước có
thẩ m quyề n , thương nhân cũng như các bên liên quan . Thực tế đã chỉ ra rằ ng , nhiều
cơ quan, doanh nghiê ̣p vẫn tỏ ra lúng túng, chưa có những kiến thức cơ bản và tổng
thể về xác định tài s ản có của thương nhân mất khả năng thanh toán trong trường
hợp phá sản, dẫn đến bỏ lọt nhiều tài sản, xác định chưa chính xác tài sản có của
1
thương nhân để đánh giá khả năng phục hồi cũng như đ ảm bảo các nghĩa v ụ của
thương nhân đố i với chủ nơ .̣
Trên thực tế trong thời gian gần đây, Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư vừa công bố báo cáo về tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2016, theo
đó cả nước có 5.500 doanh nghiê ̣p phá s ản, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2015. Số
doanh nghiê ̣p bu ộc tạm ngừng hoạt động là 31.119 doanh nghiê ̣p , tăng 15%, bao
gồm 12.203 doanh nghiê ̣p ng ừng hoạt động có thời hạn (tăng 37,1%) và 18.900
doanh nghiê ̣p ng ừng hoạt động chờ đóng mã số thuế. Tổng số doanh nghiê ̣p phá
sản, chờ phá sản 6 tháng đầu năm 2016 đạt 36.600 doanh nghiê ̣p, bình quân mỗi
tháng có hơn 6.000 doanh nghiê ̣p phá sản, chờ phá sản, mỗi ngày có hơn 200 doanh
nghiê ̣p phá sản, chờ đóng cửa. So với số doanh nghiê ̣p phá sản, chờ phá sản 6 tháng
đầu năm 2015 (31.700 doanh nghiê ̣p ), con số 6 tháng năm tăng gần 5.000 doanh
nghiê ̣p, đáng nói có hơn 5.100 doanh nghiê ̣p ch ờ phá sản có quy mô vốn đăng ký
khoảng 10 tỷ đồng [47]. Như vậy, trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị
trường tại Việt Nam hiện nay, số lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản ngày càng
lớn và đang là vấn đề cần được quan tâm giải quyết.
Như vâ ̣y, những vướng mắ c nêu trên là hê ̣ quả tấ t yế u của viê ̣c thiế u vắ ng đi
những quy đinh cu ̣ thể của pháp luâ ̣t . Nhìn nhận một cách khách quan , pháp luật
̣
Viê ̣t Nam điề u chỉnh về vấ n đề xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng
thanh toán còn khá nhiều lỗ hổng cần được bù đắp . Do đó, cần xây dựng hành lang
pháp lý hoàn thiện, đảm bảo quyền lợi của thương nhân mất khả năng thanh toán và
chủ nợ trong trường hợp phá sản.
Xuấ t phát từ những điề u nêu trên , tôi cho rằ ng, viê ̣c đi sâu nghiên cứu về vấ n
đề “Xác định tài sản có của thương nhân theo pháp luật phá sản ở Việt Nam” là
hế t sức cầ n thiế t trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài liên quan đến pháp luật Việt Nam về xác định tài s ản có của thương
nhân theo pháp luật phá sản ở Việt Nam đã thu hút sự chú ý của không it các ho ̣c
́
giả, nhà nghiên cứu . Qua tìm hiể u , hiê ̣n nay có mô ̣t số bài viế t , nghiên cứu về chủ
2
đề này như:
-
TS. Hay Sinh – Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh “Ước
tính chi phí phá sản trong thẩm định giá trị doanh nghiệp”, Tạp chí Phát triển và
hội nhập số 12 (22) - tháng 9 – 10/2013;
-
Hội đồng phối hợp phổ biến và giáo dục pháp luật Trung ương, “Pháp
luật phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đặc
san tuyên truyền pháp luật số 9/2014;
-
ThS. Trầ n Duy Tuấ n , “Chế định tài sản phá sản trong pháp luật một số
quốc gia trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luâ ̣t ngày 20/10/2014;
-
PGS, TS. Dương Đăng Huệ, Ths. Nguyễn Thanh Tịnh – Chủ biên ,
“Thực trạng pháp luật về phá sản và viê ̣c hoàn thiê ̣n môi trường pháp luật kinh
doanh ta ̣i Viê ̣t Nam”, tháng 11/2008;
-
TS. Lê Danh Vinh , Hoàng Xuân Bắc , ThS. Nguyễn Ngo ̣c Sơn , “Pháp
̃
luật ca ̣nh tranh Viê ̣t Nam”, NXB Tư pháp, năm 2006;
-
TS. Phạm Duy Nghĩa, “Chuyên khảo Luật Kinh tế ”, NXB Đa ̣i ho ̣c Quố c
gia Hà Nô ̣i, năm 2004;
-
FRASER Law Company, “Luật Phá sản năm 2014 và việc g iải quyết
các lợi ích có bảo đảm tại Việt Nam ”, Bản tin pháp luật – Pháp luật phá sản năm
2015;
-
Vũ Thị Hồng Vân, “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của
pháp luật phá sản Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Hà Nội, năm 2008;
-
Vũ T hị Hồng Vân , “Bàn về nguyên tắc và cách thức xác định TSPS
theo pháp luật phá sản Việt Nam”, Tạp chí kiểm sát số 3 tháng 2 năm 2007;
-
Hà Thị Thanh Bình, “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ
bị phá sản”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 5/2003;
-
Trương Hồng Hải, “Đặc điểm của Quy chế xác định tài sản doanh
nghiệp phá sản doanh nghiệp của Việt Nam và những đề xuất sửa đổi”, Tạp chí
Luật học số 1/2004;
3
-
Nguyễn Kim Chi, “Xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản theo Luật Phá sản”, luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2004;
-
Lê Thế Phúc , “Tìm hiểu các quy định của Luật Phá sản năm 2004 về
tài sản, nghĩa vụ về tài sản, các biện pháp bảo toàn tài sản, hội nghị chủ nợ và
một số kiến nghị, Chuyên đề khoa học xét xử , Viê ̣n Khoa học xét xử ”, Tòa án
nhân dân tố i cao, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2010.
Những đề tài, công trình nghiên cứu nêu trên mới chỉ nghiên cứu một khía
cạnh của việc xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toán trong
trường hợp phá sản; hoặc đã nghiên cứu về tài sản phá sản, xác định tài sản có của
thương nhân nhưng lại theo Luật Phá sản 2004. Chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách trực tiế p , đầy đủ, toàn diện các khía cạnh pháp lý về xác định tài s ản
có của thương nhân theo pháp luật phá sản hiện hành ở Việt Nam.
Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Xác đi ̣nh tài sản
có của thương nhân theo pháp luật phá sản ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật
học với mong muốn nghiên cứu, đánh giá nhữ ng quy đinh mới về xác đinh tài s ản
̣
̣
có của thương nhân theo pháp luật phá sản, góp phần làm sáng tỏ các vấn đề vướng
mắc trong quá trình thực hiện pháp luật ta ̣i Viê ̣t Nam v ề xác định tài s ản có của
thương nhân mất khả năng thanh toán, để từ đó đề xuất một vài ý kiến nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề cơ bản về tài sản có của
thương nhân mất khả năng thanh toán trong trường hợp phá sản; các quy định hiện
hành của pháp luật phá sản điều chinh viê ̣c xác đinh tài s ản có của thương nhân mất
̣
̉
khả năng thanh toán ở Việt Nam; phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định này
trong tổng thể hệ thống pháp luật Viê ̣t Nam và pháp luật một số nước trên thế giới.
Trong phạm vi này, Luận văn không đi sâu vào tìm hiểu tất cả các vấn đề về
xác định tài s ản doanh nghiê ̣p trong trư ờng hợp phá sản cũng như việc xác định tài
sản có của thương nhân ở nước ngoài; mà chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh pháp
4
lý, cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung về xác định tài sản có của thương nhân mất
khả năng thánh toán theo pháp luật phá sản ở Việt Nam. Trên cơ sở phạm vi nghiên
cứu, Luận văn đưa ra những khuyến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam về vấ n đề này.
4. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra, tôi
đã sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, dựa trên
đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách kinh tế - xã hội và các
nội dung khác có liên quan.
Trong những trường hợp cụ thể, tôi kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên
cứu phù hợp như thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích…nhằm kết hợp nhuần
nhuyễn giữa kiến thức lý luận và thực tiễn để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề
cần nghiên cứu.
5. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đế n pháp luâ ̣t về xác đinh tài s ản có của thương nhân theo pháp
̣
luật phá sản ở Việt Nam. Thông qua cơ sở lý luâ ̣n về hoa ̣t đô ̣ng xác đinh tài s ản có
̣
của thương nhân theo pháp luật phá sản, kế t hơ ̣p với thực tiễn khảo sát , điề u tra hoa ̣t
đô ̣ng xác định tài sản có của thương nhân trong thời gian qua sẽ làm sán g tỏ những
vấ n đề pháp lý trong luâ ̣t hiê ̣n hành , đồ ng thời nêu ra mô ̣t số điể m bấ t câ ̣p vướng
mắ c để căn cứ vào đó , sẽ có những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện những quy
đinh của pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam về vấ n đề này ở Việt Nam và góp phầ n nâng cao hiê ̣u
̣
quả áp dụng những quy định của pháp luật vào thực tiễn .
Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, luận văn đưa ra những mục tiêu cụ thể sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về xác định tài sản có của thương nhân
theo pháp luật phá sản ở Việt Nam, nghiên cứu bản chất, đặc điểm và vai trò c ủa
5
việc xác định tài sản, phạm vi tài sản cũng như các giao dịch khác liên quan.
- Nghiên cứu thực trạng hệ thống pháp luật về xác định tài sản có của thương
nhân theo pháp luật phá sản cũng như thực trạng thực thi pháp luật ta ̣i Viê ̣t Nam.
- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về xác định tài s ản có của
thương nhân theo pháp luật phá sản ở Việt Nam cho phù hợp với thực tế và phù hợp
với xu hướng hội nhập quốc tế.
6. Nội dung, địa điểm nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề xác đinh tài s ản có của thương nhân mất khả năng thanh
̣
toán theo pháp luật phá sản ở Việt Nam.
Địa điểm nghiên cứu
Luâ ̣n văn tâ ̣p trung nghiên cứu các quy đinh pháp luật Việt Nam có liên quan
̣
đến hoạt động xác định tài s ản có của thương nhân mất khả năng thanh toán. Vì
vâ ̣y, địa điểm nghiên cứu đề tài này chúng tôi chọn là ở Việt Nam, cụ thể là các
thương nhân trong nền kinh tế Việt Nam mất khả năng thanh toán. Mục đích là tập
trung nghiên cứu pháp luật Viê ̣t Nam về xác đinh tài s ản có của thương nhân mất
̣
khả năng thanh toán trong trường hợp phá sản.
7. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là một công trình khoa học ở cấp thạc sĩ luật học đề cập mô ̣t cách
chuyên sâu, đầ y đủ và toàn diê ̣n v ấn đề lý luận, thực tiễn về xác đinh tài s ản có của
̣
thương nhân theo pháp luật phá sản ở Việt Nam.
Đề tài “Xác đi ̣nh tài s ản có của thương nhân theo pháp luật phá sản ở Việt
Nam” sẽ trực tiếp nghiên cứu chuyên sâu, và đưa ra một số điểm mới như sau:
Thứ nhấ t: Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về xác định tài sản có của
thương nhân mất khả năng thanh toán theo pháp luật phá sản ở Việt Nam. Từ đó
đưa ra định nghĩa về thương nhân mất khả năng thanh toán và tài sản có của thương
nhân mất khả năng thanh toán, làm nền tảng phát triển theo định hướng nghiên cứu.
Thứ hai: Đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn để
6
phân tích, đánh giá làm rõ ưu điểm và hạn chế của các quy định và hoạt động thực
thi pháp luật về xác định tài s ản có của thương nhân mất khả năng thanh toán theo
pháp luật phá sản ở Việt Nam. Đồng thời tìm hiểu , nghiên cứu th ực trạng hệ thống
pháp luật cũng như thực trạng thực thi pháp luật về xác định tài sản có của thương
nhân mất khả năng thanh toán theo pháp luật phá sản ở Việt Nam.
Thứ ba: Từ nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn pháp luật, kiến nghị
hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về xác định tài sản có của thương nhân mất khả
năng thanh toán theo pháp luật phá sản ở Việt Nam cho phù hợp với thực tế và xu
hướng hội nhập quốc tế.
Đề tài này mang ý nghia lý luâ ̣n cho viê ̣c xây dựng những quy pha ̣m pháp
̃
luâ ̣t đầ y đủ đố i với viê ̣c xác đinh tài s ản có của thương nhân mất khả năng thanh
̣
toán theo pháp luật phá sản ở Việt Nam, là cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các quy
phạm pháp luật doanh nghiệp , thương ma ̣i trong thực tiễn nhằ m ổ n đinh môi trường
̣
kinh doanh thương mại cũng như ta ̣o môi trường pháp lý thuâ ̣n l ợi cho các nhà đầu
tư, thu hút đầ u tư nước ngoài vào Viê ̣t Nam.
8. Kế t cấ u của đề tài
Ngoài phần mục lục , mở đầ u , kế t luận, danh mục tài liệu tham khảo, kế t quả
luâ ̣n văn bao gồ m các nô ̣i dung sau đây:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về xác định tài sản có của thương nhân mất
khả năng thanh toán.
Chương 2. Thực trạng về xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng
thanh toán.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về xác định tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toán.
7
Chƣơng 1. Những vấn đề cơ bản về xác định tài sản có của thƣơng nhân
mất khả năng thanh toán
1.1.
Một số vấn đề cơ bản về tài sản có của thƣơng nhân mất khả năng
thanh toán
1.1.1. Khái niệm thƣơng nhân
Với tư cách là một ngành luật, Luâ ̣t Thương ma ̣i còn đươ ̣c go ̣i là luâ ̣t của
thương nhân (Merchant law ). Ngành luật này điều tiết quan hệ giữa các thương
nhân hoă ̣c hành vi thương ma ̣i . Xoay quanh vấn đề khái niệm thương nhân là gì,
pháp luật thương mại của mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau, cụ thể:
Bô ̣ luâ ̣t Thương ma ̣i Pháp
1807 (Bô ̣ luâ ̣t Thương ma ̣i đầ u tiên đươ ̣c pháp
điể n hóa theo kiể u hiê ̣n đa ̣i trên thế giới ) có đưa ra định nghĩa pháp lý kinh đi ển về
“thương nhân” như sau: Thương nhân là những người thực hiê ̣n các hành vi thương
mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thường xuyên của mìn h [15]. Theo đó, pháp luật
thương mại của Pháp đưa tới sự hiểu về thương nhân trước hết phải là những người
thực hiện các hành vi thương mại, với mục đích của các hành vi này là nhằm sinh
lợi, tức là có lãi hơn so với chi phí bỏ ra ban đầu. Trước đây, cụm từ “hành vi
thương mại” được đề cập gói gọn trong việc trao đổi hàng hóa giữa các thương
nhân, về sau cùng với sự phát triể n kinh tế , xã hô ̣i, đố i tươ ̣ng điề u chỉnh của luâ ̣t
thương ma ̣i ngày càng đươ ̣c mở rô ̣ng trên nhiề u linh vực
̃
, do đó mà phạm vi của
“hành vi thương mại” cũng vì thế mà được hiểu rộng hơn, nó là tất cả các hành vi
bao gồ m từ sản xuấ t cho đế n tiêu thu ̣ hoă ̣c
cung ứng dich vu ̣ trên thi ̣trường nhằ m
̣
mục đích sinh lợi.
Thêm vào đó, để được coi là một thương nhân theo pháp luật thương mại của
Pháp thìmột người không chỉ phải thực hiện hành vi thương mại mà còn phải coi
việc thực hiện những hành vi đó là nghề nghiệp thường xuyên của mình. Nghề
nghiê ̣p thường xuyên đươ ̣c hiể u là hoa ̣t đô ̣ng đem la ̣i cho mô ̣t người những phương
8
tiê ̣n sinh số ng. Các hành vi này phải được chủ thể tiến hành thường xuyên, liên tục
và lặp đi lặp lại. Cùng với đó, nó mang lại nguồn thu nhập chính cho chủ thể thực
hiện hành vi.
Khi nghiên cứu về vấn đề này trong pháp luật thương mại của Hoa Kỳ,
PGS.TS. Trầ n Đình Hảo đã cho rằng có sự khác nhau về cơ bản so với pháp luâ ̣t
thương ma ̣i của các nước theo hê ̣ thố ng pháp luâ ̣
t Châu Âu lu ̣c điạ .Tại Bô ̣ luâ ̣t
Thương ma ̣i Nhấ t thể của Hoa Kỳ (UCC-1990) cùng với khái niê ̣m “mua bán” , “chi
nhánh tài chính” , các nhà làm luật đã đưa ra nhâ ̣n đinh: Thương gia đươ ̣c dùng để
̣
chỉ một nhóm nhất định của các chủ thể kinh doanh mà những người này là những
người tiế n hành hoa ̣t đô ̣ng kinh doanh hàng hóa các loa ̣i thông qua các công viê ̣c
thường xuyên, lâu dài của ho .̣ Những công viê ̣c đó đòi hỏi phải có những nhâ ̣n thức
và kỹ năng thực hiện riêng biê ̣t. Thương nhân theo Bô ̣ luâ ̣t này có 3 loại hình chủ
yế u là cá nhân kinh doanh (Sole proprietorship), công ty đố i nhân (partnership) và
công ty đố i vố n (corporation) [29, tr. 18].
Áp dụng phương thức liệt kê, tại khoản 2, Điề u 2 Bô ̣ luâ ̣t Thương ma ̣i Cô ̣ng
hòa Czech mô tả , thương nhân đươ ̣c coi là : a/Ngườ i (thể nhân hoặc pháp nhân )
được ghi tên vào sổ đăng ký thương mại ; b/Ngườ i thực hiê ̣n hoạt động kinh doanh
trên cơ sở một giấ y phép cho tiế n hành một số hoạ
t động buôn bán nhấ t đi ̣nh ;
c/Ngườ i thực hiê ̣n các hoạt động kinh doanh trên cơ sở một giấ y phép được cấ p
theo các luật hoặc các quy đi ̣nh đặc biê ̣t khác với các quy đi ̣nh điề u chỉnh viê ̣c cấ p
giấ y phép bán buôn ; d/Thể nhân th ực hiện hoạt động nông nghiệp (sản xuất nông
nghiê ̣p) mà được đăng ký vào sổ đăng ký thích hợp theo luật quy định đặc biệt [15].
Với quy định này, thương nhân theo pháp luật thương mại của Cô ̣ng hòa Czech
được hiểu với phạm vi tương đối rộng, đó có thể là thể nhân hoặc pháp nhân có tên
trong sổ đăng ký thương mại, họ thực hiện hoạt động kinh doanh hoặc một số hoạt
động buôn bán nhất định trên cơ sở giấy phép kinh doanh được cấp theo quy định
của pháp luật.
Tại Việt Nam, Điều 6 Luật Thương mại 2005 quy định: “Thương nhân bao
9
gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Theo khái niệm
này, thương nhân bao gồm: a/Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp; b/Cá nhân.
Tuy nhiên không phải tổ chức thành lập hợp pháp hoặc cá nhân nào cũng được pháp
luật thương mại Việt Nam công nhận là thương nhân. Để là thương nhân, các chủ
thể nói trên phải có những đặc điểm pháp lý đặc trưng sau:
- Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại. Hành vi thương mại và
thương nhân có mối quan hệ logic với nhau, thương nhân là chủ thể thực hiện hành
vi thương mại. Đây được coi là một đặc điểm không thể tách rời của thương nhân
và cũng là tiêu chí để phân biệt thương nhân với các chủ thể khác.Không chỉ ở Việt
Nam mà các nước trên thế giới cũng đều lấy dấu hiệu “thực hiện hành vi thương
mại” làm tiêu chí để xác định khái niệm thương nhân.
- Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa
chính mình và vì lợi ích của bản thân mình.Theo tinh thần của pháp luật thương
mại, thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi
ích của bản thân mình là dấu hiệu cần thiết để xác định chủ thể tham gia vào các
hoạt động thương mại có phải là thương nhân hay không? Bởi trên thực tế, hoạt
động thương mại thường có nhiều người tham gia vào như người làm công, các
nhân viên quản lí điều hành…nên cần phải dựa vào tính độc lập trong thực hiện
hành vi của chủ thể để có thể xác định chủ thể có tư cách thương nhân. Thương
nhân sẽ thực hiện hành vi thương mại môt cách tự thân, nhân danh mình, vì lợi ích
của bản thân mình và tự chịu trách nhiệm về hành vi thương mại của mình, do đó,
những người làm công ăn lương hay người quản lí điều hành một chi nhánh không
được coi là thương nhân vì họ thực hiện những hành vi thương mại vì lợi ích của
ông chủ…Chính vì vậy, có thể nói, nếu thiếu đặc điểm thứ hai này thì chủ thể cũng
sẽ không có tư cách thương nhân.
- Thương nhân phải thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề
nghiệp thường xuyên. Pháp luật thương mại thừa nhận sự cần thiết của hai yếu tố:
tính nghề nghiệp và tính thường xuyên thực hiện hành vi thương mai, điều đó có
10
nghĩa là chủ thể thực hiện những hành vi thương mại một cách thực tế, lặp đi lặp
lại, kế tiếp, liên tục mang tính nghề nghiệp. Điều này có nghĩa rằng, các chủ thể
thực hiện hành vi thương mại một cách riêng lẻ, đứt quãng sẽ không có tư cách
thương nhân. Bên cạnh đó khi xác định tư cách thương nhân cũng cần quan tâm đến
tính nghề nghiệp, tức là cá nhân hay pháp nhân nào đó phải thực hiện những hoạt
động thương mại một cách thường xuyên, liên tục nhằm tạo thu nhập chính cho
thương nhân.
- Thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại. Được hiểu là khả năng
của tổ chức, cá nhân bằng những hành vi của mình có thể xác lập và thực hiện các
quyền, nghĩa vụ pháp lí. Để bảo vệ lợi ích xã hội, pháp luật thương mại Việt Nam
quy định một số người không được công nhận là thương nhân như người bị mất
năng lực hành vi dân sự hay người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự…
- Thương nhân phải có đăng kí kinh doanh. Đây là một đặc điểm bắt buộc
của thương nhân. Khi đăng kí kinh doanh những thông tin chủ yếu về thương nhân
sẽ được công khai như: tên thương mại, trụ sở, mục tiêu, ngành nghề kinh doanh…
được ghi nhận vào sổ đăng kí kinh doanh và như vậy một người nào đó muốn có
thông tin về một thương nhân cụ thể thì sẽ chỉ cần đến những cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để có được thông tin cần thiết.
Xuất phát từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, khi đề cập tới khái niệm
thương nhân, pháp luật thương mại của một số nước trên thế giới, trong đó có Việt
Nam đều thống nhất quan điểm khi khẳng định một cá nhân hay pháp nhân để được
coi là thương nhân thì trước tiên họ phải thực hiện hành vi thương mại bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác
nhằm mục đích sinh lợi. Đồng thời các hành vi thương mại mà họ thực hiện phải là
mang tính nghề nghiệp, tức là các hoạt động ấy được tiến hành một cách thường
xuyên, liên tục, lặp đi lặp lại và nó mang lại nguồn thu nhập chính cho họ. Ngoài ra,
tùy thuộc vào quan điểm lập pháp, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước
mà các nhà làm luật sẽ nêu thêm những đặc điểm khác nhau về thương nhân.
Xét về bản chất, việc phá sản không chỉ áp dụng đối với công ty (pháp nhân)
11
mà còn đối với cả cá nhân. Trên thực tế, đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản vẫn có
thể bao gồm cá nhân, ví dụ chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh trong các
công ty hợp danh. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này, người viết tập trung nghiên cứu
đối tượng là thương nhân mất khả năng thanh toán chứ không đơn thuần là doanh
nghiệp để đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện và phù hợp dưới giác độ khoa học.
1.1.2. Khái niệm thƣơng nhân mấ t khả năng thanh toán
“Mấ t khả năng thanh to án” là một cụm từ được pháp luật phá sản của nhiều
quố c gia trên thế giới sử du ̣ng để nói tới tinh tra ̣ng pháp lý của thương nhân . Nó bắt
̀
nguồ n từ chữ “Ruin” trong tiế ng Latinh , dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa t hu
và chi của một thương nhân với biểu hiện trực tiếp là mất khả năng thanh toán
khoản nợ đến hạn (insolvency) [33, tr. 4].
Ở góc độ tài chính - kế toán, tình trạng mất khả năng thanh toán sẽ chủ yếu
xem xét đến dòng tiền (cash follow) của thương nhân mắc nợ, hướng trực tiếp đến
tính “tức thời của việc trả nợ”, khả năng thanh toán tức thời của thương nhân mắc
nợ mà không quan tâm nhiều đến số lượng tài sản hiện có của họ. Theo đó, thương
nhân bị mất khả năng thanh toán không chỉ là những con nợ không còn hoặc còn rất
ít tài sản mà thậm chí còn rất nhiều tài sản song không hoặc chưa thể “hiện kim” số
tài sản đó ngay vì nhiều nguyên nhân khác nhau [34, tr. 271 – 279]. Vì vậy, khi xem
xét tình trạng mấ t khả năng thanh toán với tư cách là căn cứ để thụ lý vụ phá sản,
tòa án cầ n xem xét bản chấ t của hiê ̣n tươ ̣ng này chứ không phải chỉ xem xét hình
thức bên ngoài là trả hay không trả đươ ̣c nơ ̣. Bởi vì thực tế rấ t có thể có những
thương nhân không trả đươ ̣c mô ̣t vài khoản nơ ̣ nào đó nhưng hiê ̣n tươ ̣ng đó chỉ
mang tính nhấ t thời, bấ t thường, trong khi đó hoạt đô ̣ng kinh doanh của họ vẫn diễn
ra bình thường. Ngươ ̣c lại, có những doanh nghiê ̣p nhìn bề ngoài có vẻ “nơ ̣ nầ n
sòng phẳ ng” nhưng sự trả nơ ̣ chỉ mang tính chấ t trá hình nhằ m che đâ ̣y mô ̣t tình
trạng “vô phương cứu chữa” bên trong. Thêm nữa, thương nhân mất khả năng thanh
toán thường dựa trên tiêu chí không thanh toán nợ đến hạn (dòng tiền) hoặc tổng nợ
vượt quá tài sản có (cân đối tài sản), điều này không có ý nghĩa thương nhân đã phá
12
sản, cần phải thu hồi, phát mại và thanh lý sản nghiệp, cũng chính vì lý do đó, nhiều
nước đã đổi tên Luật Phá sản thành Luật Mất khả năng thanh toán.
Dưới góc độ lập pháp , liên quan tới khái niê ̣m thương nhân mấ t khả năng
thanh toán , pháp luật phá sản của một số quốc gia cũng có những quy định nhất
đinh về vấ n đề này . Dù có sự khác nhau về kỹ thuật lập pháp nhưng hầu hết pháp
̣
luật phá sản của các nước nêu dưới đây đều đưa ra một sự hiểu chung tương đối
thống nhất khi nói về thương nhân mất khả năng thanh toán cụ thể:
Theo quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1992 của Liên bang Nga,
tình trạng mấ t khả năng thanh toán đươ ̣c hiể u là tình tra ̣ng con nơ ̣ mất khả năng đáp
ứng yêu cầu của chủ nợ về thanh toán hàng hóa (công việc, dịch vụ) kể cả việc mất
khả năng bảo đảm các thanh toán phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân sách do
nghĩa vụ của người mắc nợ vượt quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán
cân thanh toán của người mắc nợ. Dấu hiệu bên trong của tinh tra ̣ng này là s
̀
ự
ngừng việc thanh toán bình thường của con nơ ̣ , nếu không bảo đảm hoặc rõ ràng
không có khả năng thực hiện các yêu cầu của chủ nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ
ngày đến hạn thực hiện các yêu cầu đó [18, tr. 96].
Theo Luật Phá sản hiện hành của Cộng hòa liên bang Đức, con nợ được coi
là không có khả năng thanh toán, nếu con nợ lâm vào tình trạng không thực hiện
được nghĩa vụ thanh toán khoản nợ đến hạn, con nợ ngừng các hoạt động thanh
toán. Con nợ sẽ có nguy cơ mất khả năng thanh toán, nếu con nợ tiên đoán trước là
không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ thanh toán vào thời điểm đến hạn. Còn
theo pháp luật phá sản Nhật Bản, pháp nhân được coi là không có khả năng trả nợ
khi khoản tiền nợ lớn hơn tài sản có của pháp nhân. Khi thương nhân mắc nợ ngừng
trả các khoản nợ, thì người mắc nợ được coi là không có khả năng tài chính để trả
nợ và thường khi không trả hai ký phiếu hồi lại thì được coi là một dấu hiệu ngừng
thanh toán [31, tr. 9].
Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 quy đinh: “Doanh
̣
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không
13
thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn
thanh toán”. Theo đó thì Luật Phá sản năm 2014 không còn dùng khái niệm mang
tính chấ t đinh tính là “lâm vào tình trạng phá sản” của Luật Phá sản năm 2004 mà
̣
thay vào đó là dùng khái niệm mang tính chấ t đinh lươ ̣ng là “mất khả năng thanh
̣
toán”. Có thể thấy, nội hàm của khái niệm “thương nhân mất khả năng thanh
toán” tức là không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng
kể từ ngày đến hạn thanh toán. Việc các nhà làm luật có sự điều chỉnh như trên đã
làm cho khả năng mở thủ tục phá sản đối với một thương nhân đến sớm hơn để có
thể có những giải pháp “phục hồi” hoặc cho phá sản thương nhân đó một cách kịp
thời nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân
thương nhân mắc nợ và các chủ nợ, ngăn chặn hiện tượng phá sản dây chuyền.
Đồng thời, việc bỏ từ “các” trong cụm từ “các khoản nợ” để thể hiện rõ tiêu chí mất
khả năng thanh toán không phụ thuộc vào số lượng khoản nợ mà chỉ cần một khoản
nợ. Thêm vào đó , quy đinh hiê ̣n hành vẫn dành một khoảng thời gian 03 tháng kể từ
̣
ngày khoản nợ đến hạn để thương nhân tự giải quyết những khó khăn về tài chính
tạm thời, qua đó tạo thêm cơ hội để thương nhân thanh toán nợ và giảm áp lực “đe
dọa” nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía chủ nợ. Quy định này thể hiện sự
tiếp thu tích cực của lập pháp nước ta, phù hợp với kinh nghiệm lập pháp của một
số nước trên thế giới.
Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu vấ n đề này dưới nhiề u góc đô ̣ khác nhau, tác
giả xin đươ ̣c đưa ra khái niê ̣m về thương nhân mấ t khả năng thanh toán như sau:
Thương nhân mất khả năng thanh toán là tình trạng của thương nhân bị mấ t
cân đố i trong cán cân thanh toán, theo đó thương nhân mắ c nợ không thực hiện
hoặc không thể thực hiê ̣n nghĩa vụ thanh toán hoặc ngừng các hoạt động thanh
toán đối với khoản nợ đến hạn trong một thời hạn nhất định theo quy đinh của
̣
pháp luật kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Trên cơ sở đó, thương nhân mất khả năng thanh toán có những đặc điểm cơ
bản sau:
14
- Về khoản nợ đến hạn mà thương nhân không thanh toán được. Đó là bất
kỳ khoản nợ nào dù là nợ lương, nợ thuế, nợ bảo hiểm xã hội, khoản nợ phát sinh từ
hợp đồng, kể cả việc mất khả năng bảo đảm các thanh toán phải nộp ngân sách và
các quỹ ngoài ngân sách phát sinh từ nghĩa vụ của người mắc nợ.
- Về cơ bản, mất khả năng thanh toán được hiểu theo nghĩa hẹp nhất là việc
thương nhân không còn khả năng chi trả, thanh toán cho các khoản nợ đến hạn; tài
sản của thương nhân không đủ để thực hiện nghĩa vụ.Tuy nhiên, nội hàm của khái
niệm nêu trên (hiểu theo nghĩa rộng) không chỉ có nghĩa là thương nhân không còn
tài sản để trả nợ mà cần phải được nhìn nhận dưới một giác độ khác: mặc dù thương
nhân còn tài sản để trả nợ nhưng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn cho
chủ nợ; thương nhân còn tài sản nhưng ngừng thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho
các chủ nợ đối với các khoản nợ đến hạn.
- Khoản nợ được coi là mất khả năng thanh toán là khoản nợ mà thương
nhân tạo ra từ hoạt động kinh doanh hợp pháp của mình.
1.1.3. Khái niệm tài sản có của thƣơng nhân mất khả năng thanh toán
Về mă ̣t lý thuyế t , tài sản phá sản của thương nhân mất khả năng thanh toán
bao gồm cả tài sản có và tài sản nợ. Trong đó , vấ n đề xác đ ịnh phạm vi khối tài sản
có của thương nhân trong mất khả năng thanh toán có ý nghĩa rất l ớn khi đặt trong
mố i tương quan với giá tri ̣các nghia vu ̣ về tài sản mà ho ̣ phải thanh toán
̃
, bởi nó
không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các ch ủ nợ mà còn là mô ̣t trong những cơ
sở để tòa án quyết định phương hướng giải quyết một vụ việc cụ thể. Thông thường
khi thương nhân bi ̣mấ t khả năng thanh toán đố i với các khoản nơ ̣ đế n ha ̣n theo quy
đinh của pháp luâ ̣t phá sản thì tổ ng số số tài sản có sẽ ít hơn tổng số tài sản nợ.
̣
Liên quan tới khái niê ̣m tài sản có của thương nhân mất khả năng thanh toán,
phải thấy rằng, dưới phương diê ̣n lý luâ ̣n khoa ho ̣c, đây là mô ̣t vấ n đề còn tương đố i
mới mẻ , chưa có nhiề u nghiên cứu đề cập tr ực tiếp tới nó . Tài sản có của thương
nhân mất khả năng thanh toán thường chỉ đươ ̣c nêu ra khi các nhà luâ ̣t ho ̣c đề câ ̣p
tới vấ n đề sản nghiê ̣p hay tài sản phá sản của thương nhân . Cụ thể, với tư cách là
15
- Xem thêm -