LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của thạc sĩ Mai
Thế Cường để tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành bản đề án này. Với lòng
biết ơn của mình tôi xi gửi tới các thầy cô giáo đã giảng dạy tôi trong những năm
học vừa qua.
Bản đề án của tôi hoàn thành dựa trên sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ
của giáo viên hướng dẫn. Trong quá trình thực hiện không có bất kỳ sự sao chép
hay đánh cắp bản thảo nào. Những lời trên đây đều là sự thật, nếu có bất kỳ hành
vi gian lận không trung thực nào tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Sinh viên
Hoàng Minh Toán
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển đặc biệt là trong thập kỷ vừa qua,
nó đóng vai trò lớn đối với các nền kinh tế trên thế giới, mở ra nhiều cơ hội cho tất
cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng toàn cầu. Tuy nhiên bên cạnh những thuận
lợi, thương mại quốc tế cũng đem lại không ít khó khăn, thách thức đối với các
doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường quốc tế, mà các doanh nghiệp Việt Nam
không là ngoại lệ.
Thông qua vụ kiện bán phá giá tôm của các doanh nghiệp Việt Nam trên đất
Mỹ giúp chúng ta có cách nhìn nhận xác thực hơn về tình hình thương mại quốc tế
hiện nay. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đồng thời nhìn nhận nghiêm túc về
chính sách thương mại của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Vì lý do đó
mà tôi chọn đề tài: "Vụ kiện phá giá Việt Nam tại Mỹ"
Trang 2
PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO MỸ
I. Tình hình sản xuất kinh doanh thủy sản tại Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 2 trên thế giới sau Nhật Bản với
trị giá nhập khẩu trên 8 tỉ USD/năm. Năm 2000 Hoa Kỳ nhập khẩu thuỷ sản từ 130
quốc gia trên thế giới với khối lượng 1,6 triệu tấn, giá trị đạt khoảng 10 tỉ USD.
Người tiêu dùng Hoa Kỳ sử dụng xấp xỉ 8% tổng sản lượng thuỷ sản của thế giới
trong đó hơn một nửa là nhập khẩu. Hoa Kỳ có khoảng 1300 nhà máy chế biến
thuỷ sản với trang thiết bị hiện đại đóng góp khoảng 25 tỉ USD vào tổng thu nhập
quốc dân. Có thể nói Hoa Kỳ là thị trường tiềm năng đối với thủy sản Việt Nam.
II. Những mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ
Cơ cấu mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ rất đa dạng bao gồm
những mặt hàng chủ yếu sau:
1) Tôm:
Mặt hàng này được tiêu thụ với khối lượng lớn do dân chúng Hoa Kỳ ưa
thích nhất. Từ năm 1998 đến năm 2000, nước này nhập khẩu khoảng 3,1 tỷ USD
mỗi năm, 5% khối lượng được nhập từ châu Á, lượng tôm nhập qua các năm là:
Năm
Đơn vị tấn
1997
1998
1999
236.000
288.928
300.000
(Nguồn: uỷ ban thương mại quốc tế Mỹ)
Nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tăng mạnh vào 6 tháng cuối năm.
Trang 3
2. Cá nước ngọt, phi lê tươi và đông lạnh
Hoa Kỳ có nhu cầu lớn về cá da trơn nước ngọt trắng như cá Ba sa
(Pangenus hypoththalmus), cá tra (Pargasius bocunti) tương tự với loài cá nheo
Hoa Kỳ gọi là Catfooh. Cá ba sa và cá tra xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu từ các
quốc gia: Guyana, Braxin, Thái Lan, Canada và Việt Nam. Trong đó nhập khẩu từ
Việt Nam chiếm 80%.
3. Tôm hùm tươi sống và ướp lạnh
Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ tôm hùm lớn nhất thế giới. Người dân hiện ưa
chuộng tôm hùm sống hoặc ướp đá, nhu cầu về mặt hàng này luôn ở mức cao.
4. Cá ngừ nguyên con và ướp lạnh
Từ năm 1990 Hoa Kỳ phải nhập khẩu cá ngừ. Năm 1995 Hoa Kỳ nhập khẩu
130.000 tấn cá ngừ nguyên liệu trị giá 460 triệu USD để cứu hàng loạt nhà máy
đóng hộp cá ngừ khỏi nguy cơ phá sản.
5. Cá ngừ đóng hộp
Mặc dù là nước có công nghệ đóng hộp cá ngừ mạnh nhất thế giới, nhưng
năm 1996 Hoa Kỳ phải nhập khẩu 110.000 tấn cá ngừ đóng hộp trị giá hơn 230
triệu USD.
6. Cá hồi nguyên con tươi và ướp lạnh
Hoa Kỳ đứng thứ 2 thế giới về khai thác cá hồi với sản lượng 550 tấn năm
1995, nhưng người tiêu dùng trong nước rất ưa chuộng cá hồi Đại Tây Dương nuôi
nhân tạo ở Nauy, Canada và Chi Lê nên mỗi năm họ phải nhập khẩu 60.000 tấn cá
hồi trị giá 280 triệu USD.
7. Điệp tươi và ướp lạnh
Hoa Kỳ là nước tiêu thụ điệp tươi lớn thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và
Nhật Bản. năm 1995 sản lượng nhập khẩu 26.000 tấn trị giá 216 triệu USD.
Nhìn chung, do thói quen nên cơ cấu mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Hoa
Kỳ rất đa dạng, phong phú bao gồm nhiều loại thuỷ sản nước mặn, nước ngọt,
nguyên liệu hoặc đã qua chế biến. Do sức mua lớn nên khối lượng nhập khẩu thuỷ
Trang 4
sản vào thị trường này rất lớn và mức tăng trưởng vẫn duy trì ở mức cao. Các
doanh nghiệp đánh bắt sản xuất thuỷ sản Việt Nam có thể tăng cường đầu tư để
nâng cao sản lượng phục vụ cho xuất khẩu.
III. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
Năm 1994, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ mới đạt 5,8 triệu
USD. Sau 5 năm 1999 con số này đã tăng gần 20 lần với doanh số 108 triệu USD
chiếm 1,3% thị phần nhập khẩu thuỷ sản của Hoa Kỳ và chiếm 10% trị giá xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam. Năm 2000 có 120 doanh nghiệp có hàng thuỷ sản
xuất khẩu sang Hoa Kỳ với doanh số 300 triệu USD. Hoa Kỳ trở thành thị trường
tiêu thụ thuỷ sản lớn thứ 2 của Việt Nam sau Nhật Bản. Mức tăng trưởng xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ rất cao vào năm 2000, tăng 2,3 lần so
với 1999. Năm 2001 mặc dầu nền kinh tế Hoa Kỳ rất khó khăn, đặc biệt sau sự
kiện 11/9, song xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ vẫn có sự tăng
trưởng lớn với khối lượng 71 nghìn tấn sản phẩm, đạt doanh số 489 triệu USD,
tăng so với năm 2000 tương ứng là 86,6% và 62,4% chiếm 27,52% tổng giá trị
xuất khẩu thuỷ sản và trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt
Nam trong năm này.
Những mặt hàng thuỷ sản chủ yếu của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ
gồm:
1. Nhóm hàng tôm
Tôm hiện là nhóm mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ (chiếm 2/3 trị giá xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trên thị trường
này). Năm 2000, Việt Nam xuất khẩu tôm sang thị trường Hoa Kỳ tăng hơn hai lần
so với năm 1999, đạt giá trị hơn 200 triệu USD. Năm 2001 Việt Nam đứng thứ 8
trong tổng số 50 nước cung cấp tôm cho thị trường này, và thường xuất khẩu dưới
dạng tôm vỏ (khoảng 8 triệu pound) và tôm thịt (trên 10 triệu pound), riêng mặt
tôm luộc Việt Nam đứng thứ 3 trong các nước cung cấp tôm cho Hoa Kỳ, đạt
1.360 tấn năm 2000.
2. Nhóm hàng cá
Trang 5
Việt Nam xuất khẩu cá tra, cá ba sa đạt trị giá xuất khẩu năm 2000 gần 60
triệu USD, đứng đầu trong tất cả các nước cung cấp loại cá này cho thị trường Hoa
Kỳ. Ngoài ra Việt Nam còn xuất khẩu điệp, sò thịt, mực…
Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam năm 2002
Thị trường
Khối lượng (tấn)
Giá trị (triệu USD)
Tỉ trọng (%)
Nhật Bản
96.251
537,968
26,6
Trung Quốc
77.175
302,261
14,9
EU
31.368
84,404
4,2
ESEAN
29.183
79,529
3,9
Mỹ
98.665
656,655
32,4
Các nước khác
111.400
363,005
17,9
(Nguồn: Bộ Thuỷ sản năm 2002)
Qua bảng trên ta thấy thị trường Mỹ có rất nhiều triển vọng. Đây là cơ hội
lớn cho các nhà sản xuất thuỷ sản Việt Nam trong những năm tới.
Trang 6
PHẦN II
XUNG QUANH VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TÔM
TRÊN ĐẤT MỸ
Ngày nay toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Trong tiến trình đó vn
đã chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc ký kết các hoạt động song
phương, đa phương về tham gia vào các tổ chức quốc tế nhằm tranh thủ những lợi
ích mà toàn cầu hoá mang lại. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng
giúp cho vn đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ
nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình tự do hoá thương mại, việc hàng rào thuế
quan ngày càng cắt giảm thì các biện pháp phi thuế quan ngày càng tăng điển hình
là thuế chống bán phá giá. Vì vậy, tình trạng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bị
các nước nhập khẩu vận dụng thuế chống bán phá giá chủ yếu là: mì chính, tỏi,
giầy dép, tôm cá. Tính đến năm 2001 Việt Nam đã gặp phải các vụ kiện chống bán
phá giá như sau:
Năm
1994
Đối tác thương mại
Gạo
Mặt hàng
Phán quyết cuối cùng
Không
Columb
đánh thuế
ia
mặc
dù
bán
phá
giá
mức
9,07%
vì
không gây
tổn hại cho
nước này
1998
Liên minh châu Âu
Mì chính Đánh thuế chống bán phá giá mức 16,8%
Giầy dép Không đánh thuế vì thị phần nhỏ hơn so
với Trung Quốc, Inđônêxia và Thái Lan
Trang 7
200
Bật lửa
Đánh thuế
chống phá
Ba Lan
giá
mức
0,09%
EURO/chi
ếc
2001
Canada
Tỏi
Đánh thuế chống phá giá 1,48 CAD/kg
(Nguồn: Bộ Thương mại)
Tuy nhiên do các mặt hàng trên có kim ngạch xuất khẩu không cao nên
không ảnh hưởng lớn đến đời sống lao động và sản xuất trong nước nên chưa gây
được sự chú ý của dư luận. Mãi đến 2002 khi Hiệp hội nuôi cá da trơn của Mỹ
chính thức kiện chống bán phá giá cá tra và cá ba sa và ngày 31/10/2003 liên minh
tôm miền nam nước Mỹ (SSA) đệ đơn kiện chống bán phá giá tôm lên uỷ ban
thương mại quốc tế Mỹ (ITC) và Bộ Thương mại Mỹ (DOC) tình hình đã trở nên
nghiêm trọng.
Năm 2002 xuất khẩu cá tra và ba sa sang thị trường Mỹđạt mức kỷ lục. Thời
điểm này nghề nuôi cá phát triển thịnh vượng nhất. Cũng trong năm 2002 CFA
khởi kiện các doanh nghiệp nuôi cá tra và ba sa Việt Nam có khả năng gây thiệt
hại cho ngành công nghiệp chế biến cá da trơn Hoa kỳ. Mặc dầu trong thời gian
diễn ra vụ kiện các địa phương vẫn gia tăng sản lượng đánh bắt. Vấn đề này buộc
các doanh nghiệp phải có giải pháp để khắc phục khó khăn trước mắt khi mà xuất
khẩu sang thị trường Mỹ có nguy cơ đóng băng, bằng việc mở rộng thị trường và
khai thác thị trường nội địa.
Ngày 27/7 ITC xác nhận cá tra và cá ba sa Việt Nam gây thiệt hại cho
ngành chế biến cá nước này. Sau khi ITC đưa ra phán quyết, DOC đã áp dụng thuế
bán phá giá đối với các doanh nghiệp Việt Nam với những mức thuế như sau:
- Công ty tham gia vụ kiện là Vĩnh Hoàn, Agifish, Việt Nam Cataco và 7
công ty nhỏ khác với mức thuế từ 36,84% đến 53,68%.
- Các công ty không tham gia vụ kiện bị áp mức thuế là 63,88%.
Trang 8
Ngày 19/5/2003, chính phủ Việt Nam đã cử một phái đoàn gồm các quan
chức của các bộ hữu quan tiến hành đàm phán với bộ thương mại Hoa kỳ tại
Washington D.C nhằm tìm ra giải pháp có lợi cho hai bên trong vụ tranh chấp này.
Nhưng mọi nỗ lực từ phía Việt Nam đều vô vọng do sự thiếu thiện chí và hợp tác
từ phía Hoa kỳ. Điều này có nghĩa bên Việt Nam đã thất bại trong vụ tranh chấp
này. Vụ kiện cá tra và ba sa chưa được bao lâu thì các doanh nghiệp Việt Nam lại
có nguy cơ đối mặt với vụ kiện tôm.
Ngày 9/9/2004 các nhà sản xuất tôm và quan chức chính quyền 8 bang của
Mỹ (Akbama, Florida, Texas, South, Carolia, Georgia, Mississippi và Luoisiana)
đã có cuộc gặp với các chuyên gia thương mại quốc tế và nhất trí xây dựng lên kế
hoạch về khả năng đưa đơn kiện 16 nước gồm: Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan,
và các nước Trung, Nam Mỹ với cáo buộc bán tôm thấp hơn giá thị trường làm tổn
hại đến ngành hoạt động của ngành sản xuất tôm nước Mỹ.
Ban đầu do những khó khăn về tài chính, các hiệp hội đánh bát tôm của Mỹ
chưa chính thức khởi kiện, song quá trình chuẩn bị, họ đã sử dụng các biện pháp
sau:
- Trong nước, họ phát động chiến dịch tuyên truyền "người Mỹ ăn tôm Mỹ"
kêu gọi dân chúng mua hàng nội.
- Vận động các nhà lập pháp Mỹ vào cuộc nhất là những người đại diện cho
các tiểu bang có nghề nuôi tôm. Gây áp lực đối với chính quyền hành pháp để
thông qua văn kiện có tính pháp lý chống lại việc nhập khẩu tôm.
Hiệp hội đánh bắt tôm của Mỹ tìm cách vận động hạ nghị sĩ và thượng nghị
sĩ đại diện cho 8 tiểu bang ven biển vùng Đông Nam Hoa Kỳ tìm cách áp đặt các
biện pháp để hạn chế tôm nhập khẩu của một số nước vào thị trường Mỹ.
Ngày 9/10/2002 một số hạ nghị sĩ thuộc Đảng Cộng hoà đại diện cho ngư
dân 8 tiểu bang vùng bờ biển Đông Nam nước Mỹ đã trình trước Hạ viện Hoa Kỳ
mọt dự thảo luật yêu cầu Mỹ đình chỉ mọi khoản tài trợ của chính phủ cho 7 quốc
gia bị họ vu cáo đã bán phá giá. Tuy nhiên dự luật này không được thông qua
trong lần đệ đơn đầu tiên. Ngày 7/1/2003 dự luật này lại được các nghị sĩ đảng
Trang 9
cộng hoà là Ron Paul, Jack Kingston và một số hạ nghị sĩ khác trình ra hạ nghị
viện Hoa Kỳ, yêu cầu Mỹ đình chỉ hoàn toàn mọi khoản tài trợ của chính phủ Hoa
Kỳ thông qua ngân hàng xuất nhập khẩu Hoa Kỳ, tập đoàn đầu tư tư nhân hải
ngoại và quỹ tiền tệ quốc tế đối với một số nước gồm: Việt Nam, Thái Lan, Trung
Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Braxin, Ecuador và Mêxicoo cho đến lúc các nước này
bắt buộc phải giảm lượng tôm xuất khẩu vào Mỹ với mức 3 triệu found mỗi thùng
trong vòng 3 tháng.
Tháng 10/2002, hiệp hội đánh bắt tôm ở 8 bang miền Đông Nam Hoa Kỳ đã
nhóm họp và lập ra một tổ chức "Liên minh tôm miền nam Hoa Kỳ" (SSA). Mục
đích của nó là quyên góp tiền bạc, phối hợp các hoạt động chung giữa các bang
nhằm đối phó với sản lượng gia tăng tôm nhập khẩu. Giữa tháng 12/2002 SSA đã
thuê công ty luật lớn và có uy tín là Dewey Ballantine tiến hành phân tích và đánh
giá tình hình nhập khẩu tôm vào Hoa Kỳ. Đồng thời SSA cũng thuê 2 hãng vận
động hành lang để tranh thủ ảnh hưởng của các giới chức chính trị ở cấp liên bang
và bang. Tháng 2/2003 hãng luật Bewey Ballantine đã gửi bản điều tra đến các nhà
sản xuất, chế biến và kinh doanh tôm thuộc vùng bờ vịnh và Đại tây dương để thu
thập các thông tin nhằm chứng minh ngành tôm của họ đã bị thiệt hại do giá tôm
thấp. Nhưng SSA không nhận được sự ủng hộ của các nhà chế biến tôm ở Mỹ. Vì
nếu mua tôm nội địa chế biến sẽ bị thua lỗ.
Ngày 8/3/2003 liên minh tôm miền Nam nhóm họp quyết định bỏ ra 4 triệu
USD nhằm tiến hành vụ kiện chống bán phá giá tôm từ 12 nước. Cùng lúc đó Hiệp
hội tôm SSA chi ra 2,5 triệu USD cho vụ kiện nay. Tuy cùng theo đuổi mục tiêu
nhưng SSA và LSA lại có nhiều mâu thuẫn. SSA và LSA hoàn toàn độc lập với
nhau nhưng cùng cố gắp quyên góp chi phí cho vụ kiện ngang nhau.
Đầu tháng 10/2003, các nhà chế biến và phân phối tôm Mỹ đã cam kết ủng
hộ SSA. LSA đồng ý hợp tác với SSA. SSA cũng bắt tay với uỷ ban quốc gia về
khai thác và nuôi trồng thủy sản của Mêhicô để tăng thêm sức mạnh.
Đến 31/12/2003 SSA chính thức nộp đơn lên uỷ ban thương mại quốc tế Mỹ
(USITC) và Bộ thương mại Mỹ (DOC) kiện Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ, Trung
Quốc, Braxin, Ecuado.
Trang 10
Trong vụ kiện này SSA đã đưa ra yêu cầu áp đặt hạn ngạch và thuế chống
bán phá giá đối với các mặt hàng đông lạnh, đóng hộp nhập khẩu từ các nước trên.
Đơn kiện yêu cầu đưa ra mức thuế áp đặt với từng nước lần lượt là: Thái Lan:
57%; Trung Quốc: 119-267%; Việt Nam 30-99%; Ấn Độ: 102-130%; Braxin: 40230%; Ecuador: 104-107%.
Theo luật chống bán phá giá của Mỹ, DOC sẽ có quyết định vào ngày
20/1/2004 về việc điều tra và USITC bắt đầu xác định liệu tôm nhập khẩu có gây
thiệt hại cho ngành sản xuất tôm trong nước hay không. Nếu kết luận là có, vụ kiện
sẽ được tiếp tục bằng các cuộc điều tra, xác minh của DOC đối với từng nước bị
kiện.
Trong vòng 160 ngày kể từ ngày nộp đơn kiện, USTIC và DOC sẽ đưa ra
phán quyết sơ bộ về mức thuế có thể áp đặt với hàng nhập khẩu. Khi đưa ra phán
quyết thuế chống bán phá giá có thể được hồi tố 90 ngày trước đó, nếu cơ quan
chức năng của Hoa Kỳ xác định có hiện tượng nhập khẩu ồ ạt trước hoặc sau thời
điểm nộp đơn kiện.
Tháng 12/2002 ASDA được thành lập nhằm đối phó với SSA và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, mục tiêu giữ giá tôm ở mức người tiêu dùng Hoa Kỳ có
thể mua được, và tìm cách tránh sự can thiệp của luật pháp ảnh hưởng đến tôm
xuất khẩu.
II. Hậu quả
Vụ kiện cá tra và cá ba sa Việt Nam đã bị xử ép thua. Trong vụ kiện tôm
này chúng ta cũng gặp rất nhiều khó khăn bởi vì Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế,
có kinh nghiệm trong thương mại quốc tế. Không chỉ các nhà sản xuất và xuất
khẩu Việt Nam gặp khó khăn mà các nhà chế biến và người tiêu dùng Mỹ cũng bị
thiệt hại trong vụ kiện này.
1. Phía Mỹ
Theo nghiên cứu về phía công ty Trade Partnership có trụ sở tại Oasinhtơn
tiến hành giá tôm Mỹ có thể tăng 44% nếu tôm nhập khẩu từ 6 nước nói trên bị áp
thuế chống bán phá giá, dẫn đến lượng tiêu thụ tại Mỹ sẽ giảm 30% so với hiện
Trang 11
nay. Nghiên cứu này dự báo giá tôm do ngư dân Mỹ đánh bắt sẽ tăng khoảng 28%,
giá tôm nhập khẩu từ các nước bị đơn trong vụ kiện tăng khoảng 84% và giá tôm
nhập khẩu từ các nước khác tăng khoảng 19%.
Hai nghiên cứu khác nhấn mạnh đến lợi ích mà tôm nhập khẩu mang lại cho
người tiêu dùng Mỹ. Công ty Food Beat INC có trụ sở tại bang Minois tiến hành
một cuocọ nghiên cứu tại hơn 200 dây chuyền nhà hàng lớn nhất của Mỹ cho thấy
thực đơn các món chế biến từ tôm tăng gần 50% trong vòng 5 năm trở lại đây và
người tiêu dùng ở các mức thu nhập đều tăng lượng tiêu thụ tôm.
Chủ tịch "nhóm đặc cách tôm" của CI TAC/ASDA, đồng thời là chủ tịch
ASDA, ông Wally Stevens nói rằng ba nghiên cứu trên cho thấy vụ kiện chống bán
phá giá mà SSA khởi xướng đã gây tổn hại to lớn cho ngành công nghiệp chế biến
và tiêu dùng Mỹ. Nhờ tôm nhập khẩu dồi dào với giá cả hợp lý, các ngành công
nghiệp chế biến, bán buôn, bán lẻ tại Mỹ tạo được 150.000 việc làm so với 13.000
việc trong ngành đánh bắt nội địa.
Nghiên cứu của công ty Food Beat INC còn cho thấy biến động về giá tôm
trong 5 năm qua mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Phần lớn các món ăn chế
biến từ tôm đều giảm. Nghiên cứu này khẳng định nhờ tôm nhập khẩu mà rất
nhiều món ăn có thêm hương vị của loại thực phẩm giàu chất đạm này. Điều này
có nghĩa là do giá trị nhập khẩu hợp lý phù hợp với người tiêu dùng nên lượng tôm
tiêu thụ tăng lên, cũng không phải ngẫu nhiên mà các món ăn chế biến từ tôm được
ưa chuộng số một tại Mỹ hiện nay. Công ty Trade partnership cho biết số lượng
người tiêu dùng mua tôm tại các cửa hàng bán lẻ đã tăng gấp đôi trong giai đoạn
1995-2002. Chủ tịch công ty Trade partnership khẳng định nguồn cung cấp dồi dào
từ tôm nhập khẩu đã giúp các cửa hàng, các nhà chế biến và phân phối trên khắp
nước Mỹ đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Giá tôm hợp
lý là nguyên nhân chính thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ của các gia đình Mỹ ở tất cả các
mức thu nhập.
Ông Stevens nói rằng: "Nhóm đặc tính tôm" của CITAC/ASDA uỷ quyền
cho các công ty Trade partmeship và Food Beat Inc tiến hành các nghiên cứu nói
trên đều là nhằm chứng minh các tác hại của thuế chống bán phá giá đối với người
Trang 12
tiêu dùng, cũng như đối với các nhà hàng, cửa hàng và các ngành công nghiệp tiêu
dùng khác. Ông Stevens khẳng định nếu SSA thắng kiện trong vụ này, người thua
là các ngành công nghiệp tiêu dùng và người tiêu dùng Mỹ chứ không ai khác.
2. Phía Việt Nam
Thị trường Mỹ là thị trường lớn và là thị trường tiềm năng đối với xuất khẩu
tôm của Việt Nam. Hiện nay hàng năm Việt Nam xuất khẩu gần 500 triệu USD
tôm vào thị trường Mỹ, tỉ trọng thị trường Mỹ chiếm tới 40% doanh số, theo các
chuyên gia, một khi bị áp thuế phá giá ngành công nghiệp này sẽ chịu thiệt không
nhỏ, khi mà tỉ suất lợi nhuận tôm còn rất thấp. Vụ kiện bước đầu đã gây tác động
xấu đến người nông dân nuôi tôm, năm ngoái (2002) giá bình quân 100.000đ/kg,
tôm loại 1 là 130.000đ/kg đến nay giá tôm cao nhất chỉ còn 90.000đ/kg, thấp nhất
là 60.000đ/kg. Trong khi chi phí để làm ra 1 kg tôm chất lượng trung bình
70.000đ/kg - 80.000đ/kg. Trong khi chi phí để làm ra 1kg tôm nếu nuôi theo mô
hình quảng canh mất khoảng 35.000đ/kg - 40.000đ/kg, nếu nuôi theo mô hình
công nghiệp mất khoảng 45.000đ - 50.000đ/kg, tính ra người nông dân chẳng lãi
bao nhiêu. Tôm Việt Nam ngày càng phát triển và thị trường Mỹ là một thị trường
rộng lớn. Tuy nhiên khi diễn ra vụ kiện này các địa phương sẽ có kế hoạch tăng
sản lượng nuôi tôm điều này làm cho khó khăn càng trở nên khó khăn thêm.
Trang 13
PHẦN III
MỘT SỐ GỢI Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Năm 2002 cá tra và cá basa của Việt Nam bị kiện bán phá giá. Trong vụ
kiện đó các doanh nghiệp Việt Nam bị xử ép thua. Năm 2003 đến lượt tôm Việt
Nam cũng bị kiện bán phá giá. Từ đó cho thấy thực trạng xác thực về thương mại
quốc tế hiện nay. Đây có thể được coi là biện pháp bảo hộ mới của Mỹ. Đến nay
Hoa Kỳ đã áp đặt luật chống bán phágiá với trên 60 nước xấp xỉ 600 vụ kiện. Dựa
vào tiềm lực kinh tế của mình chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của Mỹ đã phát triển đến
một mức tinh vi, đôi khi lại trắng trợn theo đuổi đơn phương áp đặt. Vì vậy đối
sách của chúng ta là: tốt nhất không để xảy ra kiện cáo bán phá giá bằng cách tìm
hiểu xem đối tác của ta ở nước sở tại chi phí sản xuất thế nào? giá bán bao nhiêu?
Nếu ta nghiên cứu kỹ sẽ đưa ra được một mức giá phù hợp, không gây mâu thuẫn
lợi ích với doanh nghiệp Hoa Kỳ chắc chắn sẽ không gây ra vụ kiện.
Nếu xảy ra kiện cáo cần phải đối mặt, cần đấu tranh mạnh mẽ trên chính
trường để bảo vệ lẽ phải. Đồng thời phải sử dụng các biện pháp mềm dẻo hơn như
vận động hành lang (Lopby). Ở Mỹ Lopby được coi là hoạt động hợp pháp. Chúng
ta có thể vận động các cá nhân, tổ chức có chung quyền lợi góp tiền để thuê các tổ
chức Lopby chuyên nghiệp, hoạt động hợp pháp tại Hoa Kỳ. Trong vụ kiện tôm
này không chỉ có Việt Nam mà còn có 5 nước liên quan khác do đó chúng ta
không đơn độc, chúng ta phải nghĩ ngay đến việc liên minh với các nước này để
bảo vệ quyền lợi của chúng ta. Các doanh nghiệp nên có văn phòng đại diện tại
nước Mỹ để tìm hiểu thị trường cũng như luật pháp Mỹ, có cơ hội giao thương với
các nhà phân phối Mỹ nhiều hơn. Về lâu dài, các doanh nghiệp Việt Nam cần
chuẩn bị cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn trong thu mua nguyên liệu chế biến
cũng như xuất khẩu. Tích cực nghiên cứu mở rộng thị trường, không nên quá lệ
thuộc vào các thị trường truyền thống. Hoa Kỳ đã đánh giá kinh tế Việt Nam
không còn là nền kinh tế phi thị trường trong khi EU đánh giá doanh nghiệp Việt
Nam hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Như vậy đây chỉ là căn cứ còn nguyên
nhân nằm sâu xa bên trong. Để khắc phục nhược điểm này chúng ta cần đẩy nhanh
Trang 14
tiến trình cải cách toàn diện kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Cần sớm ban hành pháp lệnh về thuế chống bán phá giá, đẩy mạnh tuyên
truyền về hiệp định chống bán phágiá của WTO và các luật chống bán phá giá của
các đối tác thương mại khác.
Trên đây là một số gợi ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi phải đối
mặt với các vụ kiện chống bán phá giá đối với mặt hàng tôm nói riêng và thuỷ sản
nói chung. Xuất phát từ thực trạng đó, các doanh nghiệp cần phải cân nhắc đến các
biện pháp cụ thể để đưa ra các quyết định hợp lý bảo vệ quyền lợi cho doanh
nghiệp của mình khi hướng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Trang 15
KẾT LUẬN
Thương mại quốc tế là hoạt động chủ yếu, lâu đời nhất của hoạt động kinh
doanh quốc tế. Sự hiện diện của nó đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền
kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng
mạnh mẽ. Ngày nay cạnh tranh quốc gia diễn ra khốc liệt, nhiều nước sử dụng
chính sách thương mại như một công cụ bảo hộ, có khi còn trắng trợn đơn phương
áp đặt.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế thế giới, thương mại quốc tế phát
triển với mức độ tinh vi hơn. Nếu quốc gia không chịu đổi mới chính sách thương
mại sẽ bị lạc hậu và chịu nhiều thiệt thòi.
Qua hai vụ kiện bán phá giá cá và tôm của các doanh nghiệp Việt Nam là
bằng chứng cho sự yếu kém của chính sách thương mại Việt Nam và thiếu hiểu
biết của các doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường nước ngoài.
Trang 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Châu Mỹ ngày nay:
- Số 1/2004 viện nghiên cứu của Châu Mỹ tổng hợp.
- Số 2/2004 nguồn HTT: //www- hoover. Stanfosrd.edu/.
2. Những vấn đề kinh tế thế giới:
- Số 8/2004 tác giả Ngô Văn Giang.
- Số 3/2004 tác giả Ths Mai Thế Cường.
- Số 2/2004 tác giả TS Hoàng Thị Bích Loan.
3. Tạp chí thuỷ sản:
- Số 5/2001 tác giả Lâm Minh Châu.
- Số 5/2002
4. Báo cáo phát triển kinh tế thuỷ sản và các giải pháp thực hiện thời kỳ
1998 - 2010.
5. Tìm hiểu Hoa Kỳ cho mục đích kinh doanh (sách tham khảo) Nhà xuất
bản chính trị quốc gia Hà Nội năm 2002.
Trang 17
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN....................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM
VÀO MỸ..................................................................................................................3
I. Tình hình sản xuất kinh doanh thủy sản tại Hoa Kỳ....................................3
II. Những mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ......................................3
1) Tôm:.............................................................................................................3
2. Cá nước ngọt, phi lê tươi và đông lạnh.......................................................4
3. Tôm hùm tươi sống và ướp lạnh.................................................................4
4. Cá ngừ nguyên con và ướp lạnh..................................................................4
5. Cá ngừ đóng hộp..........................................................................................4
6. Cá hồi nguyên con tươi và ướp lạnh...........................................................4
7. Điệp tươi và ướp lạnh..................................................................................4
III. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. .5
1. Nhóm hàng tôm............................................................................................5
2. Nhóm hàng cá..............................................................................................6
PHẦN II: XUNG QUANH VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TÔM...............7
TRÊN ĐẤT MỸ.......................................................................................................7
II. Hậu quả.........................................................................................................11
1. Phía Mỹ......................................................................................................11
2. Phía Việt Nam............................................................................................12
PHẦN III : MỘT SỐ GỢI Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM...........................................14
KẾT LUẬN............................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................17
Trang 18
- Xem thêm -