Mục Lục
1.
2.
3.
Một số quy định pháp lý về việc tham gia vốn nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam......1
1.1.
Nhà đầu tư nước ngoài..............................................................................................1
1.2.
Cổ đông chiến lược...................................................................................................1
1.3.
Nguyên tắc sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài......................................1
1.4.
Điều kiện tham gia....................................................................................................2
Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam............................................3
2.1.
Thống kề về việc đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.....................................................3
2.2.
Tại sao các Ngân hàng Việt Nam tìm đến nguồn tài trợ vốn nước ngoài.................6
2.3.
Một số liên minh chiến lược tiêu biểu.......................................................................8
2.4.
Thoái vốn..................................................................................................................9
Đề cử chính sách:...........................................................................................................11
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
1. Một số quy định pháp lý về việc tham gia vốn nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam.
1.1.
Nhà đầu tư nước ngoài.
Theo Luật Đầu tư 2005 : Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài
bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài được quy định tại rất nhiều văn bản pháp luật
từ Luật Đầu tư năm 2005, Nghị định của Chính phủ (Nghị định số 69/2007/NĐ-CP
ngày 20/04/2007) đến các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số
55/2009/QĐ-TTg ngày 15/04/2009, Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg ngày
18/06/2009), Quyết định của Bộ Tài chính (Quyết định số 121/2008/QĐ-BTC ngày
02/12/2008), Thông tư của Bộ Tài chính (Thông tư số 131/TT-BTC ngày
06/09/2010).
Ở Việt Nam, do khái niệm nhà đầu tư nước ngoài không được giải thích đồng bộ
tại các văn bản dưới luật. Tuy vậy có những ý kiến được đưa ra như sau: Nhà đầu tư
nước ngoài là cá nhân không mang quốc tịch Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài là tổ
chức được thành lập và hoạt động theo pháp luật nước ngoài trước khi đầu tư vào
Việt Nam cũng như các chi nhánh, văn phòng đại diện (không có tư cách pháp nhân)
của họ.
1.2.
Cổ đông chiến lược.
Theo nghị định 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 “Về việc nhà đầu tư nước ngoài
mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam” thì:
"Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài" là tổ chức tín dụng nước ngoài có uy tín, có
năng lực tài chính và khả năng hỗ trợ ngân hàng Việt Nam trong phát triển sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng công
nghệ hiện đại; có lợi ích chiến lược phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng
Việt Nam, đáp ứng các tiêu chí cụ thể do ngân hàng Việt Nam quy định.
Một tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được là nhà đầu tư chiến lược tại một ngân
hàng Việt Nam.
Một tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được tham gia Hội đồng quản trị tại không
quá hai ngân hàng Việt Nam.
Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan chỉ được phép chuyển
nhượng cổ phần thuộc sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác (kể cả trong nước
và ngoài nước) tối thiểu sau 5 năm kể từ khi trở thành là nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài tại một ngân hàng Việt Nam.
Tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan sở hữu 10% vốn điều lệ tại
một ngân hàng Việt Nam chỉ được phép chuyển nhượng cổ phần thuộc sở hữu của
mình cho tổ chức, cá nhân khác (kể cả trong nước và ngoài nước) tối thiểu sau 3
năm kể từ khi sở hữu 10% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 1 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
1.3.
Nguyên tắc sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả cổ đông
nước ngoài hiện hữu) và người có liên quan của các nhà đầu tư nước ngoài đó không
vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
Mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài không phải là tổ chức tín
dụng nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt
quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
Mức sở hữu cổ phần của một tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan
của tổ chức tín dụng nước ngoài đó không vượt quá 10% vốn điều lệ của một ngân
hàng Việt Nam.
Mức sở hữu cổ phần của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan
của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đó không vượt quá 15% vốn điều lệ của một
ngân hàng Việt Nam.
Trường hợp đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ căn cứ đề nghị của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, quyết định mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đó vượt quá 15%,
nhưng không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
1.4.
Điều kiện tham gia.
Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 Về việc nhà đầu tư nước ngoài
mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam. Trong đó Điều 11 và Điều 12
quy định:
* Ngân hàng Việt Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng đủ
các điều kiện sau:
a) Vốn điều lệ tối thiểu đạt 1.000 tỷ đồng;
b) Có tình hình tài chính lành mạnh, đáp ứng các điều kiện liên quan của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam;
c) Có bộ máy quản trị, điều hành, hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ
hoạt động có hiệu quả;
d) Không bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt do vi phạm các quy định về an toàn
trong hoạt động ngân hàng trong thời gian 24 tháng đến thời điểm Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam xem xét.
Đối với các ngân hàng Việt Nam không đủ điều kiện quy định trên, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam có thể xem xét từng trường hợp cụ thể trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định việc bán cổ phần của các ngân hàng này cho nhà đầu tư nước ngoài.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 2 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
* Tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam phải đáp
ứng đủ các điều kiện sau:
1) Có tổng tài sản Có tối thiểu tương đương 20 tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm
đăng ký mua cổ phần.
2) Có kinh nghiệm hoạt động quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
3) Được các tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở mức có khả năng
thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều
kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi.
4) Đối với nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, ngoài các điều kiện quy định tại
khoản 1, 2 và 3 Điều này, phải có văn bản cam kết về việc hỗ trợ ngân hàng Việt
Nam trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị,
điều hành và áp dụng công nghệ hiện đại.
Đối với ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước thì theo Thông tư số
10/2011/TT-NHNN ngày 22/4/2011 quy định tiêu chí lựa chọn cổ đông chiến lược
nước ngoài:
a) Là tổ chức tín dụng nước ngoài hoặc tổ chức tài chính nước ngoài, có tổng tài
sản tối thiểu tương đương 20 (hai mươi) tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm đăng ký
tham gia cổ đông chiến lược;
b) Có trên 05 (năm) năm kinh nghiệm hoạt động quốc tế;
c) Được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập quốc tế (Moody’s, Standard &
Poor, Fitch Rating …) xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính
và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo
chiều hướng không thuận lợi;
d) Không là cổ đông chiến lược, cổ đông lớn, cổ đông sáng lập tại bất kỳ tổ chức
tín dụng nào tại Việt Nam;
đ) Có cam kết bằng văn bản về việc hỗ trợ ngân hàng thương mại Nhà nước cổ
phần hóa trong các lĩnh vực quy định tại Khoản 1 Điều 2 Thông tư này và cam kết
gắn bó lâu dài với ngân hàng thương mại Nhà nước cổ phần hóa.
2. Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
2.1.
Thống kề về việc đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Ngân Hàng
Sacombank
Thời gian.
2001
04/08/2011
2002
06-2007
Hoạt động
Tập đoàn Tài chính Dragon Financial Holdings (Anh Quốc)
tham gia góp 10% vốn điều lệ của Sacombank.
Dragon Financial Holdings chính thức thoái vốn tại Sacombank.
Công ty Tài chính Quốc tế IFC góp vốn vào Sacombank.
IFC ký kết thỏa thuận tăng vốn với Sacombank, tăng số cổ phần
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 3 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
15/12/2012
Năm 2005,
ACB
9/1/2012
28/2/2012
1997
11/12/2002
17/6/2005
24/7/2008
Techcombank
2005
2007
nắm giữ lên 7.658% vốn điều lệ của Ngân hàng này.
IFC công bố kế hoạch bán 50% số cổ phần mà tổ chức này đang
nắm giữ tại Sacombank.
Ngân hàng ANZ trở thành cổ đông chiến lược lớn Sacombank,
với tỷ lệ sở hữu 9,61% vốn điều lệ.
Cổ đông lớn này đăng ký bán hết 103.256.415 triệu cổ phiếu
STB đang sở hữu.
Dragon Capital đầu tư vào ACB. Đến nay còn giữ 6,81% cổ
phần tại ACB.
Connaught Investors Ltd đầu tư vào ACB. Đến nay còn giữ
7.26% cổ phần tại ACB.
IFC đầu tư 5,5 triệu USD đầu tư mua vốn cổ phần ACB.
SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB.
Standar Chartered Bank (Hong Kong) Limited đã mua
16.204.879 cổ phiếu ACB từ Công ty Tài chính Quốc tế (IFC).
Techcombank bán 10% cổ phần cho HSBC.
HSBC tăng phần vốn góp lên 15%.
09/2008
Eximbank
07/2007
VPBank
1996
21/03/2006
04/08/2008
3/2010
VIB
2009
9/2010
SeAbank
2008
Phương Nam
2007
Phương
Đông(OCB)
ABBank (an
bình )
2011
2007
2010
9/2008
12/2009
18/4/2013
Tăng tỷ lệ sở hữu của đối tác chiến lược HSBC từ 15% lên 20%.
Sumitomo Mitsui Banking Corporation ký hợp tác chiến lược
với EXIMBANK
Dragon Financial Holding Limited (quỹ đầu tư do Dragon
Capital quản lý) đầu tư vào VPBank.
VPBank và Oversea Chinese Banking Corporation Ltd ký kết
thỏa thuận hợp tác chiến lược.
NHNN chấp thuận cho VPBank bán thêm 5% cổ phần cho
OCBC
Dragon Capital thoái vốn. Bán 8,31% cổ phần VPBank cho một
đối tác nội địa.
Ký thỏa thuận hợp tác toàn diện với ngân hàng Commonwealth
Bank of Australia (CBA).
Ngân hàng Commonwealth Bank of Australia (CBA) trở thành
cổ đông chiến lược của VIB với tỉ lệ sở hữu cổ phần ban đầu là
15%.
Tập đoàn Société Générale . Tham gia năm 2008. Tham gia vào
quy chuẩn sản phẩm, chất lượng dịch vụ
United Overseas Bank Limited (UOB) – Singapore tham gia
10%
United Overseas Bank Limited tăng lên 20%
Ngân hàng BNP Paribas. Tham gia 10%.
BNP Paribas tăng lên 20%
Maybank chính thức trở thành cổ đông chiến lược nước ngoài
của ABBANK với tỷ lệ sở hữu là 15%
Maybank tăng vốn lên 20%
Chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu phổ thông. IFC chiếm 10%
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 4 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Ocean bank
Năm 2012:
Vietcombank
09/2011
Vietinbank
25-1-2011
tỷ lệ sở hữu ABBank.
Đối tác nước ngoài Hermes Capital sẽ tham gia góp vốn tại
OceanBank
VCB ký kết hợp tác chiến lược với Mizuho Corporate Bank với
tỷ lệ góp vốn 15%, sở hữu
Công ty Tài chính quốc tế IFC và Quỹ cấp vốn ngân hàng IFC
ký các hợp đồng đầu tư trị giá 182 triệu đô la Mỹ góp vốn cổ
phần.
27-12-2012 The Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ ký hợp đồng mua bán cổ
phẩn với Viêt tin
2/2013
Phê duyệt The Bank of Tokyo-Mitsubishi trở thành cổ đông
chiến lược với vốn tỷ lệ góp vốn 20%.
Trước năm 2005 khi nhắc tới nhà đầu tư ngoại vào ngân hàng thương mại Việt
Nam thường chỉ nhắc đến sự đầu tư của các quỹ như Dragon Capital và IFC vào
ACB, Sacombank, VPBank... Ngoài ra sự xuất hiện nhà đầu tư nước ngoài chỉ bắt
đầu khi mà Luật Đầu Tư 2005 ra đời quy định về việc đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, trong đó có việc góp vốn cổ phần vào các doanh nghiệp trong đó có các Tố
chức tín dụng.
Đặc biệt năm 2007-2008 cùng với sự ra đời của nghị định 69/2007/NĐ-CP “Về
việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam”, các
ngân hàng cổ phần đua nhau lên kế hoạch tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài và coi đây như một yếu tố làm nên thành công trong hoạt động kinh doanh
cũng như quảng bá thương hiệu. Trong giai đoạn này một loạt các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam tìm được cổ đông chiến lược của mình (EximBank,
SeABank, OCB, Phương Nam, ....).
Cuối năm 2008 đầu 2009, khủng hoảng tài chính bùng nổ, Ngân hàng An Bình
(ABBank) hoàn tất thương vụ bán cổ phần cho Maybank (Malaysia). Tháng 9/2010,
Commonwealth Bank (Australia) hoàn tất kế hoạch đầu tư vào Ngân hàng Quốc tế
(VIB) và trở thành cổ đông chiến lược ngoại... Cũng trong giai đoạn này, hầu như tất
cả các nhà đầu tư chiến lược của các ngân hàng thương mại cổ phẩn điểu nâng tỷ lệ
nắm giữ của mình lên 20% đạt mức cao nhất theo quy định nhà nước.
Sau Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần; các ngân hàng
thương mại nhà nước mới bắt đầu chuyển đổi thành ngân hàng thương mại cổ phần
nên việc tìm kiếm nhà đầu tư nước ngoài vào các ngân hàng này diễn ra muộn hơn
so với các ngân hàng ở khu vực tư. Đến tháng 1/2011 Vietinbank mới có cổ đông
ngoại là IFC. Do các yêu cầu cấp thiết về quy định cổ đông chiến lược cho ngân
hàng thương mại cổ phần nhà nước đến ngày 22 tháng 04 năm 2011 ngân hàng nhà
nước ra Thông tư số 10/2011/TT-NHNN quy định tiêu chí lựa chọn cổ đông chiến
lược đối với ngân hàng thương mại nhà nước cổ phần hóa. Sau đó 2 ngân hàng
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 5 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
thương mại cổ phần nhà nước là Vietcombank và Viettinbank công bố 2 cổ đông
chiến lược của mình là Mizuho Corporate Bank (9/2011) và The Bank of TokyoMitsubishi (2/2013).
2.2.
Tại sao các Ngân hàng Việt Nam tìm đến nguồn tài trợ vốn nước ngoài.
Khả năng cạnh tranh của một ngân hàng được đánh giá qua ba yếu tố chính là
tiềm lực tài chính (khả năng có đủ nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh);
năng lực quản trị điều hành (quản trị công ty, văn hoá doanh nghiệp, đội ngũ nhân
sự) và trình độ công nghệ. Ba yếu tố này có quan hệ hữu cơ với nhau. Các ngân
hàng thương mại cổ phần Việt Nam đều gặp vấn đề với ba nhân tố này, sự yếu kém
của ba yếu tố này tạo nên những nguy cơ tiềm tàng trong các ngân hàng thương mại
cổ phần. Tuy nhiên việc nâng cao các yếu tố này không phải là một vấn đề dễ dàng.
- Việc huy động thêm một khoản vốn đầu tư lớn bền vững vào ngân hàng trong
điều kiện quy mô vốn hạn hẹp của nền kinh tế Việt Nam là một vấn đề nan giải.
- Việc thay đổi cách thức quản lý, văn hoá, tập quán kinh doanh của ngân hàng
khi gặp khó khăn là điều không thể xảy ra. Các mối quan hệ trong bản thân ngân hàng
rất phức tạp và khó gỡ, nhất là các quan hệ và xung đột lợi ích cục bộ.
- Việc đưa vào áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động kinh doanh của lĩnh vực
ngân hàng là một vấn đề rủi ro và tốn kém cần sự hỗ trợ chuyên giao kỹ thuật, kinh
nghiệm và hỗ trợ vốn.
Khi một ngân hàng đang gặp trục trặc về tiềm lực tài chính, cung cách quản lý
và trình độ công nghệ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng
phát triển dài hạn, thì cách tốt nhất là tìm các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài.
Việc có được các nhà đầu tư chiến lược nằm trong hội đồng quản trị sẽ là một đảm
bảo rất lớn đối với công chúng về uy tín và tính tin cậy của ngân hàng. Các nhà đầu
tư chiến lược sẽ là những nhà đầu tư:
- Có tiềm lực tài chính mạnh hoặc có khả năng huy động vốn nhằm đáp ứng nhu
cầu hiện tại, và đảm bảo đủ vốn thực hiện chiến lược phát triển dài hạn.
- Có khả năng quản lý hoặc đưa ra cách thức quản lý phù hợp với ngân hàng nhằm
khắc phục những yếu kém hiện tại, đảm bảo chiến lược phát triển dài hạn.
- Am hiểu về công nghệ, có khả năng tìm ra công nghệ phù hợp với tình trạng
hiện tại của ngân hàng và chiến lược phát triển dài hạn.
- Có khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường của ngân hàng trong tương lai.
Đối tác chiến lược góp phần thúc đẩy hoạt động liên kết kinh tế và thương mại
với quốc tế; mở rộng quy mô, thị phần, cải thiện sức cạnh tranh và hiệu quả kinh
doanh. Nó cho phép ngân hàng khai thác tối đa các cơ hội và tiềm năng kinh doanh
có lợi trên thị trường; đa dạng hóa hoạt động và phân tán rủi ro kinh doanh; đồng
thời, cho phép đạt hiệu quả khống chế, chi phối thị trường cao hơn với tiềm lực tai
chính mạnh hơn.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 6 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Các nhà đầu tư nước ngoài mà các ngân hàng thương mại Việt Nam lựa chọn có
hai loại nhà đầu tư chiến lược chính.
+ Loại thứ nhất là các quỹ đầu tư. là những nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp.
Các quỹ đầu tư có sự am hiểu và khả năng phân tích, đánh giá thị trường rất tốt. Một
ngân hàng sẽ có được lợi thế rất lớn khi có các quỹ đầu tư tham gia, vì với tiềm lực
tài chính và uy tín của họ có thể tạo ra độ tin cậy cần thiết cho những nhà đầu tư nhỏ
lẻ sẵn sàng bỏ vốn vào doanh nghiệp. Đối với các quỹ đầu tư, có thể kiến thức
chuyên môn trong lĩnh vực ngân hàng của họ không tốt bằng những ngân hàng hàng
đầu trong lĩnh vực đó. Nhưng kỹ năng quản lý, nhất là quản lý tài chính luôn là thế
mạnh tuyệt đối của họ và với những lợi thế của mình, họ hoàn toàn có thể tìm được
một nhà tư vấn, một nhà quản lý (tổng giám đốc) giỏi biết cách quản lý, lựa chọn
đúng công nghệ làm cho ngân hàng phát triển. Việc có được các nhà đầu tư chiến
lược là các quỹ đầu tư sẽ đảm bảo cho sự phát triển dài hạn của doanh nghiệp và rủi
ro bị thâu tóm cũng rất thấp.
Sự hiện diện khá sớm của các quỹ đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngân hàng
Việt Nam như Dragon Capital và IFC. Cả hai đều có góp vốn cổ phẩn và hỗ trợ kỹ
thuật cho rất nhiều ngân hàng thương mại ở Việt Nam. (ACB, Sacombank, Phương
Nam, Vietinbank…)
(“IFC là bộ phận phụ trách khu vực tư nhân thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới
(WB). Nhiệm vụ của IFC là thúc đẩy đầu tư vào khu vực tư nhân tại các nước đang
phát triển nhằm xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. IFC cung cấp
trợ giúp kỹ thuật và tư vấn cho chính phủ và doanh nghiệp, đồng thời cũng cấp vốn
cho các dự án đầu tư bằng tiền của mình và qua huy động vốn trên thị trường tài
chính quốc tế.”)
Năm 2002 IFC và ACB ký biên bản ghi nhớ về việc IFC tài trợ 75.000 USD cho
ACB để giúp cải thiện nghiệp vụ quản lý rủi ro và qui trình phê duyệt tín dụng.
Tuy nhiên do một số hạn chế về vấn đề hỗ trợ nghiệp vụ, nên giai đoạn sau thì
các quỹ này không còn đóng vai trò là cổ đông chiến lược tại các ngân hàng nữa mà
chỉ được coi như là một nhà đầu tư nước ngoài lớn.
+ Loại còn lại là các ngân hàng quốc tế hàng đầu đầu trong lĩnh vực ngân hàng
đang thực hiện kế hoạch mở rộng hoạt động, tăng cường sức mạnh trên thị trường.
Các ngân hàng này luôn tìm mọi cách mở rộng hoạt động, gia tăng thị phần. Nhìn
chung, các ngân hàng này thường có tiềm lực tài chính mạnh, khả năng quản lý tốt,
trình độ công nghệ tiên tiến và họ thường mở rộng thị trường bằng cách liên kết
hoặc tham gia đầu tư vào các ngân hàng trong nước sẵn có trên thị trường mà họ
muốn mở rộng hoạt động. Nếu một ngân hàng thương mại cổ phần trong nước muốn
có một sự đổi mới, cải cách trong hoạt động của mình thì được những nhà đầu tư
loại này tham gia thì sẽ là một điều kiện và lợi thế rất lớn. Tuy nhiên, đối với trường
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 7 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
hợp này, ngân hàng cần phải có đủ độ sáng suốt và tạo ra sự độc lập cần thiết, nếu
không, khả năng bị thâu tóm, chi phối hay bị mua bán thù địch rất có thể xảy ra.
Chúng ta có thể vấn đề này qua các ví dụ sau.
ACB áp dụng mô hình “Chuyên viên tư vấn tài chính cá nhân” (Personal
Financial Consultant - PFC) của Standard Chartered tại hệ thống của mình và xem
đó là một kinh nghiệm quý báu. Thậm chí ACB còn cho đặt một biển quảng cáo lớn
về mô hình này trước trụ sở của mình, xem nó như là một lợi thế bán hàng chính.
Theo mô hình PFC, công tác khai thác và chăm sóc khách hàng ngày càng được
chuyên môn hoá theo hướng phân quyền quản lý tài khoản khách hàng, trang bị cho
nhân viên kỹ năng tư vấn tài chính đa dạng và chuyên nghiệp hơn.
SeABank áp dụng các mô hình quản trị rủi ro của Societe Generale cũng là một
chiến lược hay. SeABank đã bổ nhiệm chuyên gia đến từ Pháp của Societe Generale
vào vị trí Giám đốc Khối quản trị rủi ro cũng như trao quyền phủ quyết cho các
chuyên gia Pháp trong Hội đồng Tín dụng tại ngân hàng này cho thấy các ngân hàng
nội đang rất “thức thời”. Được biết, cũng chính nhờ hỗ trợ của Societe Generale mà
SeABank gia nhập hai tổ chức thẻ thanh toán quốc tế Visa và Master nhanh hơn dự
kiến.
Vietinbank tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành cổ phần phổ thông mới cho
BTMU với số cổ phần là 644.389.811 giá phát hành vào 24.000 đồng/cổ phần….
2.3.
Một số liên minh chiến lược tiêu biểu.
2.3.1. Vietcombank.
Ngày 30/9/2011, Vietcombank đã ký kết thỏa thuận cổ đông chiến lược với
Mizuho Corporate Bank, một thành viên của Tập đoàn Tài chính Mizuho (Tập đoàn
tài chính lớn thứ ba tại Nhật bản và thứ 20 trên toàn thế giới) thông qua việc bán
15% vốn cổ phần cho ngân hàng này. Sau thương vụ hợp tác giữa Vietcombank và
Mizuho, tính đến 31-10-2012, vốn điều lệ của VCB là tăng thêm 11.8 ngàn tỷ so với
cuối năm 2011.
Hợp tác chiến lược toàn diện với Mizuho được kỳ vọng sẽ thúc đẩy
Vietcombank hướng đến mô hình một ngân hàng đa doanh có quy mô hoạt động
toàn cầu, có tầm ảnh hưởng trong khu vực. Bên cạnh đó, Mizuho còn hỗ trợ
Vietcombank trong các lĩnh vực tài trợ thương mại, tài trợ dự án… nhằm tăng tiềm
lực tài chính cho Vietcombank, thể hiện vai trò đầu tàu trong nền kinh tế và hỗ trợ
đắc lực cho khách hàng…
Sự hợp tác này còn tạo Vietcombank cơ hội để học hỏi trao đổi kinh nghiệm.
Mizuho là một trong những ngân hàng hàng đầu trên thế giới về quy mô và mức độ
tín nhiệm. Mizuho có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp,
quản trị rủi ro, giám sát tuân thủ, đồng thời có thế mạnh trong việc phát triển các sản
phẩm ngân hàng và công nghệ hiện đại. Chính vì vậy, trong mối quan hệ hợp tác với
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 8 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Mizuho, Vietcombank sẽ được đối tác Mizuho chia sẻ kinh nghiệm trong quản trị
doanh nghiệp, tiến tới xây dựng bộ máy tổ chức hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Hiện nay, Mizuho đã biệt phái cán bộ sang làm việc tại một số phòng ban TW tại
Hội sở chính. Mizuho đã tổ chức một số hội thảo bàn luận về các vấn đề kinh tế vĩ
mô, chính sách tiền tệ... để cùng chia sẻ kinh nghiệm điều hành linh hoạt theo chính
sách kinh tế vĩ mô với Vietcombank.
2.3.2.
Eximbank.
Ngày 27-11-2007, Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam Eximbank và
Sumitomo Mitsui Banking Corporation SMBC đã ký kết Thỏa thuận Liên minh
chiến lược. Theo đó, SMBC đầu tư 15% vốn cổ phần của Eximbank.
Qua 5 năm, việc hợp tác liên minh chiến lược giữa Eximbank và SMBC đã đạt
được những thành quả to lớn, mở ra mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai tổ chức
nhằm bổ sung cho nhau những công nghệ và kinh nghiệm hữu ích, tiên tiến. SMBC
đã cam kết hỗ trợ cho Eximbank đối với các hoạt động then chốt như: Ngân hàng
bán sỉ, Ngân hàng bán lẻ, quản trị doanh nghiệp và các hoạt động kinh doanh khác.
Cụ thể, phía ngân hàng SMBC đã cử các chuyên gia biệt phái đến làm việc trực tiếp
tại Eximbank. Đối với hoạt động quản trị doanh nghiệp, SMBC đã tư vấn và đề xuất
Eximbank nâng cao hoạt động lập kế hoạch và hệ thống quản lý rủi ro theo tiêu
chuẩn quốc tế. Nhờ đó, Eximbank đã hoàn thiện chính sách tín dụng và mô hình
quản lý tín dụng tập trung. Ngoài ra, Eximbank cũng đã tăng cường quản lý rủi ro
đối với hoạt động cấp tín dụng, kinh doanh vốn, kinh doanh vàng và kinh doanh tiền
tệ.
Đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng bán lẻ, đây được xác định là nội dung
then chốt trong hợp tác chiến lược giữa hai bên. SMBC đã hỗ trợ Eximbank lập kế
hoạch phát triển ngân hàng bán lẻ trung và dài hạn, cũng như biệt phái các chuyên
gia sang Việt Nam để cùng Eximbank triển khai các dự án cụ thể như: phát triển các
gói sản phẩm mới, tăng cường hoạt động kinh doanh thẻ, cho vay mua xe ô tô, tăng
cường quản lý chất lượng sản phẩm... nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng
của khách hàng. SMBC cũng hỗ trợ Eximbank thu hút khách hàng Nhật tại Việt
Nam đến giao dịch với Eximbank nhằm mở rộng nền tảng khách hàng cho
Eximbank. Riêng đối với hoạt động đào tạo nhân sự, SMBC đã tích cực hỗ trợ
Eximbank thiết kế Trung tâm Đào tạo theo mô hình của SMBC và cung cấp các
khóa đào tạo để chia sẻ kinh nghiệm quản lý và nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán
bộ và nhân viên Eximbank. Các chuyên gia, các nhà quản lý của Eximbank cũng
được cử sang Nhật Bản thông qua các chương trình đào tạo, tham quan... để trực tiếp
chứng kiến và học hỏi những kinh nghiệm tiến bộ từ thị trường này.
Một trong những kết quả đáng kể trong hợp tác giữa Eximbank và SMBC là
SMBC đã bắc cầu hỗ trợ Eximbank tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí hợp
lý và tăng cường thanh khoản cho Eximbank bằng hạn mức cho vay liên ngân hàng,
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 9 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
tài trợ thương mại và bảo lãnh. Ngoài ra, SMBC còn hỗ trợ Eximbank lựa chọn và
áp dụng công nghệ thông tin hiện đại. Nhờ sự hợp tác liên minh hết sức chặt chẽ
trong 5 năm qua mà Eximbank đã nâng cao danh tiếng trên thị trường tài chính trong
và ngoài nước. Có thể thấy, với sự đồng hành và hỗ trợ hiệu quả của SMBC,
Eximbank đã có sự tăng trưởng vượt bậc cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Từ
một ngân hàng có vốn điều lệ 2.800 tỷ đồng và tổng tài sản 33.000 tỷ đồng vào năm
2007, đến cuối năm 2012, Eximbank đã trở thành ngân hàng có vốn điều lệ đạt
12.355 tỷ đồng và tổng tài sản hơn 170.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Eximbank đã
nhận được các giải thưởng cao quý trong và ngoài nước như: “Tốp 1.000 ngân hàng
hàng đầu trên thế giới” do tạp chí The Banker trao tặng, “Ngân hàng nội địa tốt nhất
Việt Nam 2012” do tạp chí AsiaMoney trao tặng, “Sao Vàng Đất Việt 2011” do Hội
Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và Hội Doanh nhân Trẻ Việt Nam trao tặng và
nhiều giải thưởng khác…
2.4.
Thoái vốn.
Thoái vốn là một hình thức rất phổ biến trong đầu tư, khi mà các nhà đầu tư cá
nhân hay tổ chức muốn rút vốn đầu tư của mình. Vậy chúng ta có thể hiểu một cách
đơn giản "thoái vốn" chính là cách cá nhân hay tổ chức tham gia hùn vốn với doanh
nghiêp hay với một công ty để kinh doanh một cái gì đó mà bây giờ mình quyết định
không tham gia nữa, và sẽ rút lại phần vốn của mình thì được gọi là thoái vốn. Việc
thoái vốn, dù muốn hay không, vẫn ít nhiều gây nên những xáo trộn trong nội bộ
doanh nghiệp.
Ví dụ: Dragon Capital thoái vốn ra khỏi 3 ngân hàng Phương Nam, VPBank và
Sacombank…
Một số nguyên nhân dẫn đến thoái vốn là :
-
-
-
-
Tình hình bất ổn khó khăn của kinh tế, sự đi xuống của nền kinh tế trong những năm
gần đây chưa có dấu hiệu phục hồi. Để bảo toàn nguồn vốn và tập trung vốn đầu cho
ngành nghề chính và thị trường chính các nhà đầu tư thoái vốn đầu tư ở các lĩnh vực
khác để tái cơ cấu danh mục đầu tư.
Sự yếu kém trong tính hình kinh doanh, công tác quản lý yếu kém đã dẫn đến sự mất
tin tưởng và thất vọng của các nhà đầu tư lớn, để tránh rủi ro và bảo đảm, nên việc
thoái vốn dịch chuyển dòng vốn sang nơi khác là điều tất nhiên.
Trong quá trình kinh doanh thì nội bộ phát sinh ra các vấn đề như tranh giành quyền
lực, quyền kiểm soát giữa các thành viên chủ chốt với nhau, thương lượng mua bán
hay chuyển đổi quyền kiểm soát sở hữu giữa nội bộ hay bên ngoài cũng là một nguyên
nhân dẫn đến thoái vốn
Tình hình kinh tế của một quốc gia diễn ra các cuộc tranh giành thâu tóm lẫn nhau
trong trường hợp này thì thoái vốn của một nhà đầu tư này là một bước đệm cho các
mục đích kinh tế lớn của một nhà đầu tư khác đằng sau.
Ví dụ tiêu biểu về thoái vốn diễn ra trong ngành ngân hàng
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 10 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Thoái vốn ở sacombank:
Sacombank là ngân hàng cổ phần lớn tại Việt Nam với mức vốn điều lệ hơn
10.000 tỷ đồng. Tính đến ĐHCĐ Sacombank năm 2011, những cổ đông lớn của
STB gồm: REE 3,66%, Dragon Capital 6,66%, ANZ 9,78% và ban điều hành của
ngân hàng này nắm 9%.
Tháng 8/2011, Dragon Capital chính thức bán toàn bộ 6,66% vốn tại
Sacombank, với 61 triệu cổ phiếu sau 10 năm nắm giữ. Kể từ thời điểm này, thông
tin về việc nhà đầu tư nội thu gom cổ phiếu Sacombank để giành quyền kiểm soát
lan khắp thị trường Khi đó, giá cổ phiếu STB đã rơi xuống mức đáy là 11.600 đồng.
vào tháng 8/2011, không có ai nắm giữ tới 30% cổ phần của Sacombank. Sau
Dragon Capital, 2 cổ đông chiến lược của Sacombank là Ngân hàng ANZ và REE
cùng đăng ký bán toàn bộ lượng cổ phiếu STB đang sở hữu, chiếm tới 13,53% vốn
điều lệ của Sacombank.
Ngân hàng ANZ là cổ đông chiến lược lớn Sacombank, với tỷ lệ sở hữu 9,61%
vốn điều lệ. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 9/1 đến 28/2, cổ đông lớn này đăng
ký bán hết 103.256.415 triệu cổ phiếu STB đang sở hữu, theo phương thức thỏa
thuận, nhằm mục đích tái cơ cấu. Cùng thời điểm này, một cổ đông lớn khác là
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) công bố thanh lý toàn bộ 42.139.266 cổ phiếu
STB. Từ mức sở hữu 3,924%, REE sẽ không còn sở hữu bất kỳ cổ phiếu STB nào,
cũng trong đầu tháng 1 năm 2012 , Công ty cổ phần đường Biên Hòa đăng ký bán
hết 1,44 triệu cổ phiếu STB (chiếm 0,134% vốn điều lệ), với lý do thu hồi vốn đầu
tư, bổ sung vốn sản xuất kinh doanh. Ngày 15/12, Công ty Tài chính Quốc tế (IFC)
công bố kế hoạch bán 50% số cổ phần mà tổ chức này đang nắm giữ tại Sacombank.
Đến nay Sacombank không còn một nhà đầu tư nước ngoài lớn nào.
Nguyên nhân Thoái vốn của các tập đoàn đầu tư nước ngoài ở sacombank :
Nguyên nhân Dragon capital thoái vốn vì tỷ trọng nắm giữ cổ phiếu ngành ngân
hàng trong các quỹ đầu tư của Dragon capital rất cao, đồng thời vượt quá các tiêu
chí về quản lý danh mục đầu tư và quản trị rủi ro được quy định bởi cổ đông nên
Dragon capital thoái vốn ở sacombank là cần thiết để xem xét và cơ cấu lại danh
mục đầu tư. Nguyên nhân tiếp theo của việc thoái vốn của Dragon capital được đưa
ra là do thời hạn đầu tư cam kết với các bên được đầu tư hay thời hạn đầu tư vốn do
chính các nhà đầu tư đặt ra, khi hết thời hạn các nhà đầu tư xem xét lại để có quyết
định tiếp tục đầu tư nữa hay không hoặc kết thúc việc đầu tư bằng thoái vốn, chuyển
nhượng cổ phiếu. Cũng trong giai đoạn này Dragon Capital cũng thoái vốn ở Ngân
hàng Phương Nam và VPBank.
Cùng với đó do sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng và tình hình kinh tế lúc bấy
giờ đã dẫn đến các vụ thâu tóm mua bán sát nhập lẫn nhau, dẫn đến các việc thoái
vốn, chuyển nhượng để thực hiện các phi vụ mua bán thâu tóm đang diễn ra. Người
mua số cổ phần STB từ ANZ sau đó được xác nhận là Ngân hàng Thương mại Cổ
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 11 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank). Với 9,61% nhận từ ANZ, Eximbank
nâng tỷ lệ nắm giữ của mình tại Sacombank lên 9,73% và là cổ đông lớn nhất của
ngân hàng này. Không những thế, do 100 triệu cổ phiếu quỹ không có quyền biểu
quyết nên Eximbank sẽ chiếm tới 10,27% quyền biểu quyết tại Sacombank.
Eximbank cũng chính là ngân hàng hồi cuối tháng 2/2012 tuyên bố đại diện cho một
nhóm cổ đông nắm hơn 51% quyền biểu quyết tại Sacombank và đề nghị bầu lại
toàn bộ HĐQT, Ban kiểm soát với lý do đã có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu cổ đông
của Sacombank: như sự thoái vốn của Dragon Capital, Ngân hàng ANZ, REE…,
đồng thời có sự tham gia của các cổ đông mới (trong đó có Eximbank). Và đằng sau
sự mua lại cổ phần Sacombank của Eximbank có thể có là một đề án xác nhập giữa
Sacombank và Eximbank, một đề án tốn nhiều bút mực của báo chí thời gian qua.
Sau khi hội đồng quản trị mới được bẩu, Sacombank đã ký thỏa thuận với ông
Đặng Văn Thành - nguyên Chủ tịch HĐQT và con trai là ông Đặng Hồng Anh vào
ngày 5/12/2012. Sacombank đồng ý sử dụng trên 7,4% vốn (tương đương khoảng 80
triệu cổ phiếu STB) do 2 cha con ông này đang nằm giữ để cần trừ khoản nợ các
khoản cho vay, đầu tư trái phiếu và khoản phải thu khác với tổng giá trị thỏa thuận
gần 1.600 tỷ đồng. Đến ngày 31/5/2013 tổng cộng 47,8 triệu cổ phiếu STB của cha
con ông Đặng Văn Thành đã được bán. Ông Đặng Thành Tâm rút vốn hoàn toàn ra
khỏi STB. Vậy đằng sau sự thoái vốn của các nhà đầu tư lớn có thể có một phần
nguyên nhân từ sự đầu tranh trong nội bộ của Sacombank.
3.
Đề cử chính sách:
Hiện nay, muốn đem vốn vào đầu tư tại các tổ chức tín dụng nói chung, các ngân
hàng Việt Nam nói riêng, các nhà đầu tư quốc tế cần phải tuân thủ các quy định
trong nghị định số 69 được Chính Phủ ta ban hành vào 20/04/2007. Theo đó, quy
định này thể hiện rõ các yêu cầu về tỷ lệ sở hữu tối đa và tổng tỷ lệ sở hữu của các
nhà đầu tư tại các tổ chức tín dụng.
Gia nhập WTO đã được một thời gian, Chính phú ta nhận thấy rõ ràng rằng việc
thu hút vốn tham gia đầu tư nước ngoài vào thị trường tín dụng trong nước quan
trọng và cấp thiết. Quá trình tái cơ cấu, phát triển hệ thống mạng lưới sẽ càng thuận
lợi thực hiện hơn nếu nguồn lực vốn của cải và con người ở tại các tổ chức tín dụng
được hậu thuẫn từ phía các tổ chức đầu tư hùng mạnh thế giới. Tuy nhiên, theo các
quy tắc trong Nghị định số 69 thì có một số hữu hạn cho khả năng tiến sâu rộng vào
thị trường tín dụng ở Việt Nam đang gây cản trở, khó khăn cho các tổ chức nước
ngoài cũng như lãnh đạo tổ chức tín dụng trong nước.
Chính phủ đã ban hành đề án 254 với nhiều điểm nội dung quan trọng nhằm mở
cửa hơn. Mới đây, Vụ cấp pháp tín dụng đã trình lên Chính phủ mong muốn chỉnh
sửa lại Nghị định 69 một số điểm nhằm giành cho các tổ chức tín dụng cơ hội tiến
sâu hơn vào thị trường ta, đó là:
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 12 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
- Theo nghị định 69, một nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép sở hữu cổ phần
chiếm 15% vốn điều lệ TCTD, và có thể trình Chính Phủ xem xét ở mức tối đa 20%.
Tuy nhiên xét ở tốc độ tăng trưởng và nhu cầu thực tế ngày càng cao của các tổ
chức, cá nhân nước ngoài, Vụ Cấp phép tín dụng trình Chính Phủ xem xét sửa đổi ở
điểm với việc nới rộng room lên 20% và không cần trình Chính Phủ.
- Để phục vụ quá trình tái cơ cấu, cũng như học hỏi kinh nghiệm lãnh đạo, các
NH, TCTD có thể trình Chính Phủ xem xét nới room trên 30% vốn điều lệ tỷ lệ sở
hữu tổ chức đầu tư nước ngoài tại các TCTD Việt Nam so với mức tối đa 30% của
Nghị định 69 trước đây.
Các ý kiến sửa đổi như trong đề án 254 kiến nghị đang được bàn bạc và chưa có
kết quả chính thức. Quyết định nới rộng room cho các tổ chức đầu tư nước ngoài
vào các tổ chức tín dụng Việt Nam là một quyết định quan trọng mang tính cấp bách
nhưng vẫn rất cần sự chính xác và khôn khéo trong quản lý.
Trong giai đoạn hiện nay với tình hình nợ xấu cao cùng nhu cầu cấp thiết tái cơ
cấu lại hệ thống ngân hàng thì sự tham gia hỗ trợ của nhà đầu tư nước ngoài là cần
thiết. Với nguồn vốn lớn cùng kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng thì sự tham gia
của các nhà đầu tư nước ngoài chiến lược là một yêu cầu có tính tình thế để đẩy
nhanh tiến trình xử lý nợ xấu và tài cơ cấu hệ thông nhân hàng. Tuy nhiên việc thiếu
minh bạch thông tin về nợ xấu đang là một trong những rào cản lớn nhất, bên cạnh
các rào cản về chi phí thời gian, thủ tục hành chính rườm rà (như công tác bàn giao
hồ sơ, thủ tục thưa kiện ra tòa, thi hành án, bán tài sản…), và sự hợp tác của các đối
tác Việt Nam. Việc cải cách thủ tục hành chính là một yêu cầu cấp thiết để có thế
nâng cao khối lượng cũng như chất lượng của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
hệ thống ngân hàng Việt Nam, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài đóng có vai trò
lớn hơn trong tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, xử lý nợ xấu.
Từ phía Chính Phủ:
Chính phủ, Ngân hàng Nhà Nước cần chọn lọc các nhà đầu tư nước ngoài thật
sự có tiềm năng, có đủ lực tài chính để tái cơ cấu, phát triển các Ngân hàng yếu kém.
Sau khi thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào hệ thống Ngân hàng, Nhà
nước cần thực hiện nghiêm túc phân loại các tổ chức đầu tư để có cách giám sát,
quản lý hiệu quả, tránh tình trạng đầu cơ, thâu tóm, thao túng thị trường vì lĩnh vực
Ngân hàng là khá nhạy cảm đối với một nền kinh tế còn nhiều yếu kém như ở Việt
Nam.
Cải cách các thủ tục hành chính nhiêu khê trong việc tiếp cận thị trường cho các
tổ chức quốc tế. Họ luôn thường xuyên làm trong một môi trường tư bản chủ nghĩa
năng động, thủ tục nhanh, có thể chỉ cần thuê luật sư là hoàn tất thủ tục hành chính,
vì thế nếu đối diện với quá nhiều thủ tục, nhiều cửa, các tổ chức đầu tư sẽ e dè hơn.
Nhà đầu tư nước ngoài:
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 13 / 16
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Thị trường tài chính Việt Nam là cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài cạnh
tranh. Với dân số gần 90 triệu dân, Việt Nam thật sự là một thị trường bán lẻ tín
dụng tiềm năng, do người dân chưa thật sự thỏa mãn hết tất cả nhu cầu.
Cơ chế pháp lý thật sự khó khăn trong việc quản lý các Ngân hàng mà vốn đầu
tư 100% nước ngoài. Thủ tục hành chính phức tạp khiến các nhà đầu tư e ngại. Hiện
tại hệ thống Ngân hàng ở nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, chất lượng sản phẩm
dịch vụ, nợ xấu, đầu tư kém, khi tiếp nhận vốn đầu tư ngoại, các ngân hàng Việt
Nam sẽ có cơ hội cải cách có hữu hiệu thật sự từ cách quản lý chuyên nghiệp của
những tổ chức đầu tư. Tuy nhiên hạn chế tỷ lệ 20% sở hữu sẽ khiến cơ hội ra các
quyết định kinh doanh của các nhà quản lý nước ngoài gặp nhiều cản trở từ phía cổ
đông hiện hữu nội địa. Tại các quốc gia phát triển, như Mỹ chẳng hạn, cơ chế gọn
gàng mở cửa cho nhà đầu tư ngoại, kể cả các lĩnh vực nhạy cảm như Ngân hàng,
miễn sao thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, tôn trọng pháp luật và tạo công ăn việc
làm. Nhà nước Việt Nam cần mạnh dạn hơn nữa trong các điều kiện nới room vốn
đầu tư nước ngoài.
Ngân hàng trong nước:
Hiện tại, quy định vốn điều lệ tối thiểu 3000 tỷ đối với các NH tại Việt Nam
đang được thực hiện nghiêm túc, các NH vốn điều lệ kém, ít vốn, quy mô nhỏ sẽ
phải hợp nhất, sáp nhập để tăng tính cạnh tranh. Vì vậy, việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, tăng vốn điều lệ là một trong những phương pháp quan trọng. Chắc
chắn các cá nhân, tổ chức nước ngoài sẽ không chọn các tổ chức tín dụng, Ngân
hàng đang tồn động tình trạng yếu kém, nguồn lực không đủ. Thách thức cho nền
kinh tế là nâng cao đồng bộ lực các Ngân hàng nhằm tạo một nền tảng tối thiểu đủ
hấp dẫn các nhà đầu tư vốn ngoại.
Đón nhận nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, các ngân hàng trong nước có cơ hội
tăng sức mạnh và thực lực tài chính, có khả năng thực hiện các dự án đầu tư lớn
nhằm mang lại lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Hơn thế nữa, cùng với việc nới
room, tỷ lệ đóng gốp vốn lớn của các tổ chức cũng giúp ban lãnh đạo các ngân hàng
có sự hợp tác quản trị từ các tổ chức, cá nhân nhiều kinh nghiệm trên thị trường
quốc tê. Tuy nhiên cũng dễ có nguy cơ xảy ra tình trạng bất đồng và mẫu thuẫn lợi
ích, thâu tóm sáp nhập. Các ngân hàng trong nước cần có cái nhìn xa, đánh giá lực
lượng đối tác đầu tư và tự hạn chế một tỷ lệ vốn góp ngoại an toàn cho chính doanh
nghiệp mình.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 14 / 16
- Xem thêm -