Chuyên đề
VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NHIỆM VỤ DÂN TỘC VÀ DÂN
CHỦ TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG 1930 – 1945
Nguyễn Thị Hương MÃ
MÃ: SU15 (NEW)
I. PHẦN MỜ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn Lịch sử ở trường THPT là môn Khoa học Xã hội, mỗi con người Việt Nam
chỉ có thể phát triển mọi năng lực sẵn có trên nền tảng những tri thức về lịch sử và văn
hoá dân tộc. Môn Lịch sử là môn học có nhiều cơ hội nhất và khả năng lớn nhất trong
nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giáo dục và rèn luyện đạo đức
con người Việt Nam
Lịch sử Việt Nam là lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước, nhân dân Việt Nam
làm ra lịch sử bằng xương máu của mình, nên vô cùng yêu quý lịch sử dân tộc, qua lịch
sử nuôi dưỡng ý chí dân tộc và lưu truyền cả một kho tàng kinh nghiệm đấu tranh giành
và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, nhiệm vụ xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa luôn gắn chặt với nhiệm
vụ bảo vệ đất nước, giữ gìn chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, môn Lịch sử càng
phải đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ thông để thế hệ trẻ
lớn lên qua một nền giáo dục phổ thông với niềm yêu mến lịch sử dân tộc, có một vốn
hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hoá dân tộc và nhân loại, luôn có một niềm tự tin
vững chắc, biết kế thừa các truyền thống dân tộc, hình thành phẩm chất của người công
dân Việt Nam.
Dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng ở trường THPT là quá trình mà
trong đó vai trò của người giáo viên Lịch sử là người hướng dẫn và tổ chức điều khiển
học sinh phát triển tư duy lịch sử nhất là tư duy độc lập, sáng tạo, phải làm cho quá trình
học tập của học sinh trở thành quá trình chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự
nghiên cứu độc lập. Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho học sinh nhất là học sinh trường THPT
chuyên phần lớn là những vấn đề lịch sử tổng hợp, sâu rộng. Vì vậy, học sinh chuyên
cần có một khối lượng lớn tri thức đã được thông hiểu và nắm vững, biết vận dụng kiến
thức đã học để hiểu biết kiến thức mới và giải quyết được các dạng bài tập lịch sử.
Để thực hiện mục tiêu trên, chúng tôi lựa chọn và biên soạn chuyên đề: Việc giải
quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong giai đoạn cách mạng
1930 – 1945. Đây là một nội dung quan trọng trong phần Lịch sử Việt Nam lớp 12, một
nội dung thường gắn với các kỳ thi của học sinh 12 với mục đích nhằm chia sẻ với các
thầy, cô giáo dạy Lịch sử nói chung và các thầy, cô giáo đang dạy đội tuyển cũng như
học sinh giỏi đang ôn luyện đội tuyển Quốc gia môn lịch sử nói riêng về những kiến
thức cơ bản và cách tiếp cận vấn đề trên, góp phần vào việc tổ chức cho học sinh nghiên
cứu và ôn luyện về vấn đề lịch sử quan trọng này.
2. MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ
Nghiên cứu chuyên đề này nhằm hai mục đích:
1. Khẳng định sự cần thiết kết hợp các kĩ năng nghiên cứu kiến thức, xác định và
giải quyết mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử với
nhau; so sánh, phân tích, phản biện các nhận định, luận điểm lịch sử trong nhiều giai
đoạn lịch sử...; vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử trong chương trình học để giải quyết
những vấn đề thực tiễn đặt ra.
2. Làm sáng tỏ việc giải quyết hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945 là nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến nhằm hai mục tiêu là mục
tiêu dân tộc và dân chủ
II. PHẦN NỘI DUNG
Việt Nam là một nước thuôc địa, do đó việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề dân chủ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một trong
những nội dung cơ bản trong các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm
Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã phân biệt hai loại cách mạng: “giai cấp kách
mệnh” (cách mạng tư sản, cách mạng vô sản) và “dân tộc kách mệnh”, đồng thời xác
định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là “dân tộc kách mệnh”. Đó là cuộc
cách mạng của dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc.
Tháng 2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời, thông qua Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng, Cương lĩnh đã xác định mục tiêu chiến lược là “độc lập dân tộc” và
“ruộng đất cho dân cày”, tuy nhiên tùy vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà có cách giải
quyết thích hợp giữa hai vấn đề đó.
Trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã giải
quyết linh hoạt, sáng tạo mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến nhằm thực hiện hai mục tiêu là dân tộc và dân chủ, đưa đến sự thành công
của cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ nhằm đi đến mục tiêu
cuối cùng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Vấn đề dân tộc
và dân chủ có tác động chi phối toàn bộ vấn đề khác: lực lượng cách mạng, khẩu hiệu
đấu tranh, hình thức tổ chức tập hợp lực lượng đấu tranh, hình thức đấu tranh và quyết
định đến sự thành, bại của cách mạng
1. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1931
Những năm 1929 - 1933, thế giới tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm
trọng trên quy mô lớn, để lại hậu quả hết sức nặng nề. Cuộc khủng hoảng đó đã tác động
đến Việt Nam, làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao
động. Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến. Đầu năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh
đạo đã bị thất bại. Chính quyền thực dân tiến hành một chiến dịch khủng bố dã man
những người yêu nước. Điều đó càng làm tăng thêm những mâu thuẫn và tình trạng bất
ổn trong xã hội Việt Nam.
Tháng 2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là bước ngoặt vĩ đại vĩ đại trong
lịch sử Việt Nam. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam được
đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng có đường lối
cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ đã quy tụ lực lượng toàn dân tộc
Việt Nam, kịp thời lãnh đạo nhân dân ta bước vào một thời kì cách mạng mới. Sự ra đời
của Đảng đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục
năm đầu thế kỷ XX, đưa cách cách mạng Việt Nam bước lên một con đường mới - con
đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi Đảng ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo đã xác định nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam là đánh đổ ách thống
trị của đế quốc Pháp, bọn phong kiến và phản cách mạng làm cho nước Việt Nam được
độc lập tự do; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết
sản nghiệp của đế quốc; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn phản cách mạng chia
cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất v.v.
Như vậy, nhiệm vụ cách mạng được đề ra bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân
chủ, chống đế quốc và phong kiến nhưng nổi lên hàng đầu là chống đế quốc để giành
độc lập dân tộc, quyền lợi ruộng đất của nông dân chỉ đặt ra ở mức độ thích hợp. Điều
đó đáp ứng đúng đòi hỏi khách quan của lịch sử, vì ở nước Việt Nam thuộc địa, mâu
thuẫn trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành nên
những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức
và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn
vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và
hình thức. Ngược lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong
nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Đây là
sự sáng tạo của Người, không rập khuôn máy móc học thuyết về đấu tranh giai cấp vào
điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào quần chúng phát triển rộng khắp chưa từng
có trong giai đoạn trước đó, với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Tháng 10/1930, Ban
Chấp
hành
Trung
ương
lâm
thời
của
Đảng
họp
lần
thứ
nhất
ở
Hương
Cảng
(Trung
Quốc),
Hội
nghị
thông
qua
Luận
cương
chính
trị
do
Trần
Phú
khởi
thảo.
Luận
cương
chính
trị
của
Đảng
đã
xác
định
hai
nhiệm
vụ
chiến
lược
của
cách
mạng
là
đánh
đổ
phong
kiến
và
đánh
đổ
đế
quốc
có
quan
hệ
khăng
khít
với
nhau,
không
tách
rời
nhau
vì
“có
đánh
đổ
đế
quốc
chủ
nghĩa
mới
phá
tan
được
giai
cấp
địa
chủ
và
làm
cách
mạng
thổ
địa
thắng
lợi,
mà
có
phá
tan
được
chế
độ
phong
kiến
thì
mới
đánh
đổ
được
đế
quốc
chủ
nghĩa”.
Như
vậy,
Luận
cương
chưa
nêu
được
mâu
thuẫn
chủ
yếu
của
xã
hội
Đông
Dương,
không
đưa
ngọn
cờ
dân
tộc
lên
hàng
đầu
mà
nặng
về
đấu
tranh
giai
cấp
và
cách
mạng
ruông
đất.
Những
hạn
chế
này
được
dần
dần
khắc
phục
trong
thực
tiễn
đấu
tranh
cách
mạng.
Dưới
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
phong
trào
cách
mạng
1930
–
1931
nổ
ra
trong
thời gian dài, liên tục,
rộng
khắp
trong
cả
nước,
từ Bắc chí Nam, từ nông thôn đến
thành thị; từ các nhà máy đến các hầm mỏ và đồn điền, nhưng mang tính thống nhất
cao nhằm chống lại kẻ thù của dân tộc là đế quốc và bọn phong kiến tay sai. Từ
phong trào này,
một
hình
thức
chính
quyền
mới,
xuất
hiện
đầu
tiên
ở
hai
tỉnh
Nghệ
An
và
Hà
Tĩnh.
Đây
là
mẫu
hình
chính
quyền
cách
mạng
đầu
tiên
ở
Việt
Nam,
một
chính
quyền
nhà
nước
của
dân,
do
dân,
vì
dân.
Tuy
nhiên,
phong
trào
nổ
ra
khi
Đảng
mới
ra
đời,
chưa
có
kinh
nghiệm
trong
lãnh
đạo
nên
không
tránh
khỏi
sai
lầm
nhất
là
trong
việc
giải
quyết
mối
quan
hệ
giữa
hai
nhiệm
vụ
phản
đế
và
phản
phong,
do
đó
chưa
chú
trọng
tập
hợp
lực
lượng
phản
đế
vào
mặt
trận
dân
tộc
thống
nhất.
Phải
trải
qua
thực
tiễn
đấu
tranh,
những
hạn
chế
đó
mới
dần
dần
được
khắc
phục.
2.
Việc
giải
quyết
mối
quan
hệ
giữa
hai
nhiệm
vụ
chống
đế
quốc
và
chống
phong
kiến
trong
giai
đoạn
cách
mạng
1936
–
1939
Từ
đầu
những
năm
30
của
thế
kỉ
XX,
tình
hình
thế
giới
và
trong
nước
có
nhiểu
biến
chuyển.
Quán
triệt
chủ
trương
được
đề
ra
tại
Đại
hội
lần
thứ
7
của
Quốc
tế
Cộng
sản,
tháng
7/1936,
Hội
nghị
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
lần
thứ
nhất
của
Đảng
Cộng
sản
Đông
Dương
đã
họp
ở
Thượng
Hải
(Trung
Quốc),
Hội
nghị
căn
cứ
vào
tình
hình
cụ
thể
ở
Việt
Nam
để
đề
ra
đường
lối
và
phương
pháp
đấu
tranh
thích
hợp.
Hội
nghị
đã
khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ Việt
Nam là chống đế quốc chống
phong
kiến
không
hề
thay
đổi.
Nhưng
để
phù
hợp
với
tình
hình
mới,
Đảng
xác
định
kẻ
thù
của
nhân
dân
Việt
Nam
lúc
này
là
bọn
phản
động
thuộc
địa
và
tay
sai
của
chúng
không
thực
hiện
những
chính
sách
mà
Chính
phủ
Mặt
trận
nhân
dân
Pháp
đã
ban
hành,
đây
là
bộ
phận
nguy
hiểm
nhất
trong
toàn
bộ
thực
dân
Pháp
ở
Đông
Dương,
tức
là
bộ
phận
nguy
hiểm
nhất
trong
kẻ
thù
của
dân
tộc.
Chống
lại
bộ
phận
nguy
hiểm
nhất
trong
kẻ
thù
của
dân
tộc
nên
phong
trào
mang
tính
chất
dân
tộc.
Để
thực
hiện
mục
tiêu
đó,
Đảng
chủ
trương
tạm
gác
khẩu
hiệu
độc
lập
dân
tộc
và
cách
mạng
ruộng
đất,
chỉ
chủ
trương
đấu
tranh
đòi
mục tiêu trực tiếp, trước mắt là
chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ,
cơm áo, hòa bình. Đó
là
những
quyền
dân
chủ
nhưng
cũng
là
quyền
lợi
của
dân
tộc
và
phải
đấu
tranh
đòi
từ
tay
kẻ
thù
dân
tộc.
Như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất (7/1936) đã nhận thức
được tầm quan trọng của nhân tố dân tộc ở một nước thuộc địa, đã giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu chiến lược của cách mạng, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề, mối quan hệ giữa phong trào cách mạng ở Đông
Dương và phong trào cách mạng
thế
giới,
bước
đầu
giải
quyết
mối
quan
hệ
giữa
vấn
đề
giai
cấp
và
vấn
đề
dân
tộc.
Sự
chỉ
đạo
sáng
tạo
của
Đảng
đã
tập
hợp
được
đông
đảo
quần
chúng
đấu
tranh
trong
cuộc
vận
động
dân
chủ
những
năm
1936
-‐
1939.
Phong trào dân chủ 1936 – 1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương diễn ra trên quy mô rộng lớn từ Bắc, Trung, Nam, từ thành thị đến nông thôn,
qua phong trào đông đảo quần chúng nhân dân như công nhân, nông dân, tư sản,
trung tiểu địa chủ đã đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất. Mặc dù khẩu hiệu
đấu tranh chứa đựng nội dung cải cách dân chủ trong khuôn khổ chính quyển thực
dân cho phép, nhưng phong trào hoàn toàn không có tính cải lương, phong trào đã
buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách trước mắt. Đó thực sự là
cuộc đấu tranh thực hiện mục tiêu dân tộc và dân chủ của cuộc cách mạng.
3.
Việc
giải
quyết
mối
quan
hệ
giữa
hai
nhiệm
vụ
chống
đế
quốc
và
chống
phong
kiến
trong
giai
đoạn
cách
mạng
1939
–
1945
Tháng 9/1939 Chiến tranh Thế giới thứ II bùng nổ. Ở châu Âu, phát xít Đức kéo
vào thôn tính nước Pháp (6/1940), Chính phủ Pháp đầu hàng quân Đức, thực hiện
chính sách thù địch đối với các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách
mạng các nước thuộc địa. Ở Đông Dương, thực dân Pháp đã “phát xít hóa” bộ máy
thống trị tăng cường đàn áp cách mạng, bóc lột nhân dân Đông Dương.
Sự khủng bố và bóc lột của thực dân Pháp ở Đông Dương làm cho mâu thuẫn giữa
nhân dân Đông Dương và thực dân Pháp phát triển gay gắt. Tình hình đó đòi hỏi Đảng
Cộng sản Đông Dương cần thay đổi chiến lược đấu tranh. Tháng 11/1939, Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng họp đã xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt
của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông
Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Nghị quyết của Đảng đánh dấu sự thay
đổi quan trọng về chỉ đạo chiến lược, thể hiện sự nhạy bén về chính trị trước sự thay đổi
của tình hình thế giới và trong nước, đưa nhân dân vào thời kì trực tiếp vận động cứu
nước.
Tháng 9/1940, Nhật vào miền Bắc Việt Nam, Pháp đầu hàng nhanh chóng. Nhật
giữ nguyên bộ máy thống trị của Pháp để bóc lột về kinh tế và đàn áp cách mạng.
Phát xít Nhật và tay sai ra sức dọn đường hất cẳng Pháp nhằm độc chiếm Đông
Dương. Chính sách vơ vét, bóc lột của Pháp - Nhật đã đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng
cực phải “chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật”, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân
ta với Pháp - Nhật đã trở nên sâu sắc.
Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng. Trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và trong nước, phân tích thái
độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam, Hội nghị nêu rõ ở nước ta
mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta
với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật, bởi vì dưới hai tầng áp bức Nhật – Pháp, “quyền
lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào
bằng”. “Pháp – Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông” mà là kẻ thù
chung của cả dân tộc.
Hội nghị khẳng định: “Cần phải thay đổi chiến lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính
trị Đông Dương, lực lượng giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi chính sách
cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nghuyện vọng chung của toàn thể nhân dân
Đông Dương…”. Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật “không phải riêng của của giai cấp vô
sản và dân cày, mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương”, “cuộc cách
mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc
cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách
mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”.
Hội nghị chủ trương: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt
dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc… Nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” . Vì vậy, phải tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ
địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”. Quyền lợi của nông dân được giải quyết ở một
mức độ thích hợp bằng việc thực hiện các khẩu hiệu: tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc
và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô,
giảm tức.
Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông
Dương, nhằm thực hiện chính sách “dân tộc tự quyết”. “Các dân tộc sống trên cõi Đông
Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng
thành thành một dân tộc quốc gia tùy ý”. Cách giải quyết đó có tác dụng phát huy sức
mạnh mỗi dân tộc trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, đập tan những luận điệu
xuyên tạc của kẻ thù về vấn đề dân tộc, đồng thời tạo điều kiện đoàn kết ba dân tộc Việt
Nam, Lào, Campuchia trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5/1941) đã thể
hiện đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề “dân tộc” và “giai cấp”.
Hội nghị đề ra chủ trương đúng đắn trong việc giải quyết “nhiệm vụ giải phóng dân tộc”
và nhiệm vụ “cách mạng ruộng đất”. Hồ Chí Minh đã vận dụng “phương pháp làm việc
biện chứng” của C. Mác, phân tích thực tiễn xã hội Việt Nam thuộc địa, không máy móc,
coi vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề nông dân, nhưng cũng không xem quyền
lợi cơ bản của nông dân là vấn đề ruộng đất. Người nhấn mạnh yêu cầu khách quan của
lịch sử cách mạng ở thuộc địa là giành độc lập dân tộc. Chủ trương giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc và quan điểm khởi nghĩa dân tộc là sự chuẩn bị về đường lối và
phương pháp cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này.
Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5/1941),
phong trào cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến, lực lượng chính trị và lực lượng
vũ trang ngày càng phát triển, căn cứ địa cách mạng được mở rộng. Đến năm 1945,
công cuộc chuẩn bị được tiến hành chu đáo. Toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng đón chờ
thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 là thắng lợi của đường lối giải phóng
dân tộc đúng đắn của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. “Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
III. KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, hai vấn dân tộc và dân
chủ có tác động chi phối toàn bộ vấn đề khác: lực lượng cách mạng, khẩu hiệu đấu tranh,
hình thức tổ chức tập hợp lực lượng đấu tranh, hình thức đấu tranh và quyết định đến sự
thành, bại của cách mạng. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ trở thành trung tâm, nhằm đi đến mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Vấn đề dân tộc và dân chủ
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương đã nhận thức rõ nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, trong việc tổ
chức thực hiện, do tác động của những yếu tố khách quan và chủ quan, việc giải quyết
mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến chưa hoàn toàn phù hợp
với điều kiện của nước thuộc địa, có lúc quá chú trọng đến đấu tranh giai cấp và
cách
mạng
ruông
đất, không
đưa
ngọn
cờ
dân
tộc
lên
hàng
đầu.
Từ những thành công cũng
như sai lầm dù là tạm thời, Đảng đã rút bài học kinh nghiệm quan trọng. Nhờ đó, Đảng
ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công nhân, động viên được các
tầng lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận tuyến cách mạng chống đế
quốc và phong kiến.
Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá
bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kì, dựa trên sự phân tích những mối quan
hệ giai cấp cụ thể và khả nǎng phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và phong kiến, nhằm
tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong từng thời điểm. Song, dù ở
bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra, về cơ
bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm
vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Qua việc trình bày chuyên đề này, chúng tôi nhận thấy đây là vấn đề quan trọng
trong việc giảng dạy và ôn luyện đối với học sinh giỏi môn Lịch sử. Do đó, chúng tôi hy
vọng với những vấn đề đưa ra sẽ được đồng nghiệp góp ý để đạt đích chung là giúp học
sinh bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu về kiến thức, rèn kĩ năng cơ bản của bộ môn Lịch
sử, đặc biệt là kĩ năng phân tích, so sánh, vận dụng kiến thức trong học tập bộ môn Lịch
sử ở trường THPT chuyên. Và chỉ có như vậy, những kiến thức lịch sử mà các em thu
nhận được mới thực sự là của mình cũng như sẽ giúp ích cho việc học tập và công tác
của các em sau này.
- Xem thêm -