Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vị trí, vai trò của thủ đô hà nội trong mối liên kết vùng kinh tế đồng bằng sông...

Tài liệu Vị trí, vai trò của thủ đô hà nội trong mối liên kết vùng kinh tế đồng bằng sông hồng từ 1986 đến nay một số nhận xét và kiến nghị

.PDF
16
36
136

Mô tả:

442 CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI TRONG MỐI LIÊN KẾT VÙNG KINH TẾ ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TỪ 1986 ĐẾN NAY MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ TS. Trần Thị Tường Vân Viện Sử Học‑Viện KHXH Việt Nam 1. Khái quát vị thế và vai trò của thủ đô Hà Nội trong mối liên kết vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng 1.1.Vài nét về vị thế của thủ đô Hà Nội Nằm ở trung tâm vùng châu thổ Sông Hồng trù phú, Hà Nội là thủ đô đồng thời là thành phố đứng đầu Việt Nam về diện tích (3.324,92 km2) đứng thứ hai về dân số với 6,449 triệu người. Pháp lệnh thủ đô Hà Nội năm 2000 đã khẳng định: Thủ đô Hà Nội“ là trung tâm đầu não chính trị‑hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; là nơi đặt trụ sở của cơ quan trung ương Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị‑ xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng nhất của đất nước”1. Cùng với thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội là một trong hai trung tâm kinh tế của cả quốc gia. Năm 2007, GDP của Hà Nội tăng khoảng 12,1%, tổng giá trị xuất khẩu đạt trên 4 tỷ USD, tổng thu ngân sách khoảng 45.709 tỷ đồng. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, Hà Nội vẫn tăng trưởng khá, với mức tăng GDP 9 tháng đầu năm 2009 đạt 5,7%. Trên địa bàn Hà Nội được hưởng những tiềm năng to lớn không thể có ở bất cứ nơi nào trong cả nước. Ở đây tập trung bộ máy lãnh 1. Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội, được Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội thông qua ngày 28‑12‑ 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký lệnh công bố ngày 11‑11‑2001, Báo Nhân dân ngày 18‑2‑2001... Vị trí, vai trò của thủ đô Hà Nội trong mối liên kết vùng kinh tế... 443 đạo, quản lý và nghiên cứu của cả nước, nơi hội tụ đông đảo nhất đội ngũ trí thức, với lực lượng cán bộ khoa học, từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội và khoa học quản lý. Đây cũng là nơi tập trung đội ngũ công nhân, thợ thủ công lành nghề, giàu kinh nghiệm. Đó là nguồn vốn cực kỳ quý báu phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển và hội nhập. Hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị của Hà Nội được Nhà nước và chính quyền địa phương quan tâm đầu tư, bước đầu phát triển theo hướng đồng bộ, hiện đại. Với hệ thống thông tin Bưu chính viễn thông phát triển nhất nước, Hà Nội trở thành trung tâm thông tin và giao lưu kinh tế ‑ văn hoá ‑ xã hội trong nước và quốc tế. Vì vậy, Hà Nội có điều kiện tiếp xúc và nắm bắt kịp thời, hệ thống những thông tin và động thái vận động mới của đời sống thị trường trong nước và quốc tế; giúp địa phương tiếp cận nhanh các cơ hội, tạo điều kiện xử lý sớm và hiệu quả những vấn đề kinh tế ‑ xã hội phát sinh có liên quan trong quá trình chuyển đổi và phát triển theo xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá. Hà Nội còn là đầu mối giao thông trọng điểm về bốn loại hình: đường hàng không, đường sắt, đường bộ và đường sông1. Không chỉ là một thị trường tiêu thụ lớn, Hà Nội còn hội tụ khá đầy đủ những điều kiện quan trọng phục vụ hoạt động thương mại như: giao thông, hạ tầng thông tin liên lạc, nguồn thông tin thị trường, là đầu mối giao lưu và quan hệ trực tiếp với các đối tác cũng như có thế mạnh về kinh nghiệm nhiều năm làm thương mại. Hà Nội là trung tâm thương mại có tầm quan trọng đặc biệt đối với các địa phương trước mục tiêu mở rộng xuất khẩu, tạo cơ hội giao lưu, biết thêm thông tin và tìm đối tác kinh doanh. Hà Nội còn là địa điểm thu hút du khách trong và ngoài nước đến du lịch, tìm hiểu và khám phá các danh thắng lịch sử, văn hóa... trong vùng. Như vậy, với vị trí trung tâm tổng thể của mình, Hà Nội có rất nhiều lợi thế để thúc đẩy nhanh quá trình hợp tác trong nước và ngoài nước. Riêng với vùng kinh tế đồng bằng Sông Hồng, lợi thế đó được phát huy 1. Cầu Thanh Trì làm lễ thông xe ngày 2‑2‑2007. Cùng với đường vành đai 3 Hà Nội, cầu Thanh trì nối thông 5 Quốc lộ (QL1, QL2, QL3,QL5 và QL 1A mới), liên kết vùng tam giác kinh tế Hà Nội‑Hải Phòng‑Quảng Ninh, với trục giao thông Bắc‑Nam. 444 Trần Thị Tường Vân một cách đặc biệt1. Có thể nói, vị thế của Hà Nội cũng chính là lợi thế, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho Hà Nội, góp phần quan trọng tạo nên kỳ tích của Hà Nội thời kỳ đổi mới. Với vị thế, uy tín và sức hút ngày càng được nâng cao, thủ đô Hà Nội gặp rất nhiều thuận lợi khi triển khai thực hiện các mối quan hệ, liên kết, hợp tác với các địa phương, tỉnh thành phố trong cả nước. Vấn đề còn lại là ở chỗ chính quyền địa phương cần xác định được đúng phương hướng phát triển, có chiến lược liên kết, tập hợp sức mạnh lực lượng sản xuất của các đối tác, để hỗ trợ nhau, cùng phát triển, cùng có lợi. 1.2.Vai trò của Hà Nội trong mối liên kết vùng giai đoạn đầu quá trình đổi mới (1986 đến nay). Đại hội Đảng bộ lần thứ X (tháng 10‑1986), đã đánh dấu sự chuyển biến quan trọng về tư tưởng, chính trị của Đảng bộ Hà Nội theo quan điểm đổi mới của Trung ương Đảng, mở đầu bằng đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Đại hội đã thể hiện quyết tâm xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh XHCN. Đại hội đã khẳng định vị trí, và trò của Thủ đô với cả nước, đồng thời cũng thể hiện sự mong muốn của Đảng, Nhà nước, các tỉnh, thành phố trong việc xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành “trung tâm đầu não về chính trị, về văn hoá và khoa học kỹ thuật, đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế và trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước”2. Đại hội VIII (1996) của Đảng đã thông qua “Chương trình phát triển các vùng lãnh thổ” nhằm kết hợp sự phát triển có trọng điểm với sự phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt chênh lệch và nhịp độ phát triển giữa các vùng. Theo tinh thần nghị quyết Đại hội IX của Đảng, tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách để thúc đẩy các vùng trong nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng3. 1. Vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng, là một trong 8 vùng kinh tế của cả nước, bao gồm 12 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, có tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao, đạt 10,5%, gấp 1,4 lần mức bình quân chung cả nước. Năm 2005, vùng kinh tế này đã đóng góp 21,5% GDP, 15,4% giá trị xuất khẩu và 26% tổng thu ngân sách quốc gia. 2. Đảng cộng sản Việt Nam‑Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội. Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội (1930‑2000). Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2004. tr.611. 3. 2006, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, tr.92. Vị trí, vai trò của thủ đô Hà Nội trong mối liên kết vùng kinh tế... 445 Từ Đại hội X (1986) của Đảng bộ thành phố Hà Nội, đến Đại hội lần thứ XIV (2006) cùng một số Hội nghị giữa nhiệm kỳ, Đảng bộ và chính quyền thành phố đã nhiều lần đề cập đến chủ trương tăng cường mối quan hệ hợp tác, liên kết giữa thủ đô Hà Nội với các tỉnh, thành trong cả nước, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp cả nội lực và ngoại lực, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) thủ đô. Là Thủ đô và cũng là hạt nhân và động lực phát triển của vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Hồng và của Bắc Bộ, mục tiêu phấn đấu của Hà Nội từ 1986 đến nay, đã được xác định qua các kỳ Đại hội Đảng bộ, tập trung vào những nhiệm vụ chính là: Đẩy nhanh tốc độ và chất lượng phát triển của nền kinh tế để đuổi kịp với thủ đô các nước, góp phần tạo động lực mạnh cho phát triển kinh tế vùng và kinh tế cả nước; Yêu cầu phải phát triển bền vững, nhất là đảm bảo sự ổn định về chính trị, trật tự an toàn về xã hội, sự lành mạnh về môi trường văn hoá và sinh thái, cũng như phải phấn đấu để “giữ nhịp” ổn định hoá cho toàn bộ quá trình phát triển kinh tế ‑ xã hội trong cả nước. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố, Nghị quyết 15/NQ/TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị (khoá VIII); Hà Nội đã đạt được những thành tựu quan trọng; tiếp tục tạo ra những biến đổi tích cực trên nhiều lĩnh vực. Giai đoạn 2001‑2005: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân/năm là 11,1%, riêng năm 2005 là 11,6%. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo xu thế hiện đại hoá: giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, thương mại ‑ dịch vụ. Bình quân GDP/đầu người tính theo giá hiện hành của thành phố Hà Nội năm 2000 ước đạt khoảng 7,3 triệu đồng, cao gấp hơn 2 lần mức bình quân chung của cả nước (3,52 triệu đồng). Năm 2004, GDP bình quân đầu người tăng lên 18,2 triệu đồng (cả nước là 8,69 triệu đồng). Như vậy, so với năm 2000, GDP năm 2004 của Thủ đô tăng khoảng 1,7 lần (trung bình tăng 11,1%/năm); kim ngạch xuất khẩu tăng 1,9 lần; thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 1,5 lần. Năm 2005 GDP bình quân đầu người đạt gần gấp 2,4 lần cả nước. Năm 2005 dịch vụ chiếm 57,5% GDP, công nghiệp 40,5% và nông nghiệp chỉ còn 2,0%, trước thời hạn 5 năm so với mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế ‑ xã hội thủ đô thời kỳ 2001‑2010; giá trị sản xuất 446 Trần Thị Tường Vân tăng bình quân 19%/năm; trình độ các ngành kinh tế được nâng lên; quan hệ giữa các ngành kinh tế bước đầu có sự thay đổi về chất, hiệu quả và sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô được cải thiện1. Với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế, thị trường xuất khẩu được mở rộng, chủng loại sản phẩm xuất khẩu phong phú, đa dạng hơn. Hà Nội đã xuất khẩu đến 187 khu vực của các quốc gia và vùng, lãnh thổ với kim ngạch tăng bình quân 15,4%/năm (tăng từ 1.402 triệu USD năm 2000 lên 2.899 triệu USD năm 2005). Hà Nội cũng định hướng tập trung vào việc phát triển và nâng cao trình độ, chất lượng các ngành dịch vụ chủ chốt như thông tin viễn thông, du lịch, thương mại, tài chính‑ngân hàng, bảo hiểm, đào tạo nhân lực. Công nghiệp được xây dựng theo hướng có chọn lọc, đột phá vào những ngành, hàng, sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao. Sau khi mở rộng địa giới hành chính, với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2 triệu người đang trong độ tuổi lao động. Mặc dù vậy, thành phố vẫn thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao. Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng nguồn lao động chưa dịch chuyển theo yêu cầu cơ cấu ngành kinh tế. Hà Nội còn phải đối đầu với nhiều vấn đề khó khăn khác. Năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm dịch vụ cũng như sức hấp dẫn môi trường đầu tư của thành phố còn thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn. Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao và thành phố cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư… Tuy còn nhiều mặt hạn chế, nhưng Hà Nội đã và đang khẳng định vai trò của một trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội của vùng và cả nước. Vai trò đó trên thực tế ngày càng tạo ra sức hút và khả năng lan tỏa rộng lớn ra cả vùng; đồng thời vừa có khả năng liên kết kinh tế và khai thác thị trường rộng lớn của cả vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng, để sản xuất, tiêu thụ sản phẩm công, nông nghiệp và dịch vụ2. 1. 2006, Đảng cộng sản Việt Nam‑Thành ủy Hà Nội. Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ thành phố Hà Nội (Lưu hành nội bộ). Hà Nội, tr. 29. 2. UBND thành phố Hà Nội (2001), Dự thảo Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế‑xã hội của thủ đô thời kỳ 2001‑2010, Tài liệu lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội,. tr.5. Vị trí, vai trò của thủ đô Hà Nội trong mối liên kết vùng kinh tế... 447 2. Quá trình Hà Nội thực hiện vai trò liên kết với các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Hồng Một thời gian dài, trước khi bước vào hoạt động theo cơ chế thị trường, ngành kinh tế đối ngoại của Hà Nội chưa có cơ hội và khả năng phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn; các cơ sở sản xuất hàng hoá thiếu vốn hoạt động do bị chiếm dụng vốn quá nhiều; cơ sở vật chất phục vụ du lịch thấp kém, vì thế sự liên doanh, liên kết với một số địa phương trong vùng chưa tiến hành được nhiều. Hà Nội mới thực hiện liên doanh, liên kết, xây dựng mối quan hệ sản xuất, ký hợp đồng sản xuất, mua bán hai chiều một số mặt hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp (chủ yếu là lương thực, thực phẩm) với một vài địa phương lân cận như Bắc Ninh, Hà Tây, Vĩnh Phú, Hải Dương v.v... Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XII (tháng 5‑ 1996), nhiệm vụ của Hà Nội với các tỉnh thành trong cả nước lại được đề ra cụ thể, sát sao và nặng nề hơn hơn, đó là “Hà Nội có trách nhiệm giúp đỡ các tỉnh, thành phố, trước hết là các địa phương miền Bắc nước ta thực hiện đổi mới cơ cấu kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá nông thôn, thông qua cung cấp máy móc, thiết bị, thực hiện chuyển giao công nghệ, cử chuyên gia và hỗ trợ các tỉnh đào tạo chuyên gia, giúp các tỉnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm… Các tỉnh, thành phố trên cả nước, trước hết là các tỉnh trong vùng có trách nhiệm góp công, góp của cung ứng lương thực, thực phẩm cho đời sống và nguyên liệu ổn định cho công nghiệp Hà Nội, góp phần xây dựng và phát triển thủ đô, đồng thời hết sức tranh thủ, tận dụng sự hỗ trợ của thủ đô và của các vùng trọng điểm, để đẩy mạnh công nghiệp hoá nông thôn, nông nghiệp tại địa phương mình… Quan hệ hợp tác giữa các vùng trọng điểm và các tỉnh phải bình đẳng, cùng có lợi, thể hiện chặt chẽ liên minh trực tiếp giữa công nghiệp và nông nghiệp, công nhân và nông dân, thành thị và nông thôn”1. Triển khai thực hiện Nghị quyết XII của Đảng bộ Hà Nội, một số đơn vị kinh tế, thương mại đã tăng cường liên kết, liên doanh với các cơ sở kinh tế ở một số thành phố lân cận; bước đầu khai thác được nguồn vật tư với hình thức gia công, đổi hàng hoặc mua lại nguyên liệu bằng nội 1. Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (1996), Văn kiện đại hội đại biểu thành phố Hà Nội lần thứ 12. Hà Nội, Nxb Hà Nội, tr.18‑19. 448 Trần Thị Tường Vân tệ. Thị trường trong nước cũng được để ý khai thác. Sự liên doanh, liên kết bước đầu với một số địa phương trong vùng đã góp phần bảo đảm nguồn cung cấp lương thực và thực phẩm cho đời sống dân sinh và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu của thủ đô. Để phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình, Hà Nội đã nhanh chóng phát triển các hoạt động du lịch, bước đầu xây dựng các chương trình, các tuyến du lịch nối liền với một số tỉnh thành lân cận, thực hiện liên kết với các tỉnh trong vùng và trong cả nước để phát triển du lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch của thủ đô. Nhờ vị trí thuận lợi của mình, Hà Nội đưa ra một số chính sách khuyến khích các nhà kinh doanh trong cả nước đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh doanh ở thủ đô. Cùng với việc khuyến khích phát triển từng thành phần kinh tế, Hà Nội cũng chủ trương phát triển các hình thức hợp tác, liên doanh giữa các thành phần kinh tế Hà Nội với các tỉnh, thành. Để thực hiện chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng bộ và UBND thành phố Hà Nội sự hợp tác giữa Hà Nội với một số địa phương là yêu cầu đòi hỏi tất yếu trong tiến trình CNH‑HĐH. Tuy nhiên trong thực tiễn, giai đoạn 1986‑2000, sự hợp tác đó còn mang tính nhỏ lẻ, tự phát và chưa bài bản, hiệu quả kinh tế thấp, chưa tương xứng với tiềm năng Hà Nội có; trách nhiệm hội tụ và lan toả của thủ đô chưa được phát huy. Mà nguyên nhân chủ yếu, theo như đánh giá của Bộ Chính trị nêu trong Nghị quyết 15 NQ/TƯ, là do: “thành phố chưa chủ động hợp tác với các địa phương, trực tiếp là các tỉnh, thành lân cận.... Một số địa phương, trước hết là các tỉnh lân cận Hà Nội chưa chủ động phối hợp với Hà Nội, xây dựng và thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội... có hiệu quả”1. Những hạn chế này đã được thành phố quan tâm chỉ đạo khắc phục trong những năm tiếp theo. Trong Nghị quyết số 15 NQ/TƯ của Bộ Chính trị (ra ngày 15‑12‑2000) Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô trong thời kỳ 2001‑2010, Bộ 1. Báo Hà Nội mới (18‑12‑2000), Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô trong thời kỳ 2001‑2010 (Nghị quyết số 15 NQ/TƯ ngày 15‑12‑2000). Vị trí, vai trò của thủ đô Hà Nội trong mối liên kết vùng kinh tế... 449 Chính trị đưa ra một trong những quan điểm Hà Nội có nhiệm vụ cần quán triệt là: phát huy đồng bộ sức mạnh tổng hợp của Hà Nội của cả nước, của hợp tác quốc tế trong quá trình phát triển thủ đô; khai thác nguồn lực trong nước là quyết định, tranh thủ nguồn lực bên ngoài là quan trọng... Chiến lược phát triển kinh tế‑xã hội Thủ đô phải được xây dựng và thực hiện trong mối quan hệ hữu cơ với với xây dựng, triển khai chiến lược phát triển kinh tế‑xã hội vùng và cả nước; tạo ra sự phân công hợp tác có kế hoạch trong một cơ cấu thống nhất trên phạm vi cả nước1. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ 13 (2001), văn kiện đại hội đã nêu rõ: “Tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh và liên kết chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế trên địa bàn, giữa kinh tế Hà Nội với kinh tế cả nước”2. Để triển khai nhiệm vụ đề ra ở nghị Quyết 15 của Bộ Chính trị và Nghị quyết XIII của Đảng bộ Hà Nội, trong khuôn khổ thực hiện hợp tác hai bên cùng có lợi, từ năm 2001, chính quyền thành phố đã chủ động, lần lượt tổ chức được 11 cuộc làm việc với lãnh đạo 11tỉnh thành vùng đồng bằng sông Hồng (Hà Tây, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Nam Định, Hoà Bình, Thái Bình); đã có một số văn bản hợp tác giữa Hà Nội với các tỉnh được ký kết, trên một số lĩnh vực kinh tế ‑ văn hoá ‑ xã hội, theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Sau đây đơn cử một số sự kiện tiêu biểu: Tuy Hà Nội ‑ Quảng Ninh không liền kề, nhưng trong chiều sâu lịch sử hai địa phương đã có mối quan hệ lâu đời về nhiều lĩnh vực. Hiện tại, cả hai thuộc vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội ‑ Hải Phòng ‑ Quảng Ninh, nên sự phát triển của hai tỉnh, thành phố ảnh hưởng quan trọng đến phát triển toàn vùng. Ngày 3‑11‑2002, Hội nghị về hợp tác phát triển Quảng Ninh‑Hà Nội đã được tiến hành. Sau đó Thông báo chung về kế hoạch hợp tác phát triển giữa hai địa phương được ký kết trên cơ sở phát huy ưu thế của mỗi bên. Hà Nội sẽ giúp Quảng Ninh những lĩnh vực thuộc về khoa học, công nghệ; Quảng Ninh cam kết tạo điều kiện 1. Nghị quyết số 15 NQ/TƯ ngày 15‑12‑2000 Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô trong thời kỳ 2001‑2010. 2. Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng bộ thành phố Hà Nội. Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ 13 Đảng bộ thành phố Hà Nội 12‑2000. Nxb Hà Nội, 2001. 450 Trần Thị Tường Vân thuận lợi để Hà Nội đầu tư vào địa bàn cảng biển, cửa khẩu và kỳ quan thế giới Vịnh Hạ Long. Hoạt động du lịch của Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh thời gian qua đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Năm 2007, Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh đón khoảng 3,5 triệu lượt khách quốc tế. Trong đó, riêng Hà Nội phân phối gần 60% lượng khách (tổng số 1,3 triệu lượt) cho Quảng Ninh và Hải Phòng. Thỏa thuận về hợp tác phát triển du lịch, giai đoạn 2008 ‑ 2010 được ký kết giữa Hà Nội ‑ Hải Phòng ‑ Quảng Ninh, đã cam kết trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch. Có thể nói, sự hội tụ nhiềm tiềm năng, lợi thế cùng với những kết quả đã đạt được, nếu Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh có sự liên kết chặt chẽ sẽ giữ vai trò đầu tàu, là động lực kéo theo sự phát triển du lịch của các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Bộ. Hội nghị hợp tác phát triển Hà Nội ‑ Nam Định được tổ chức tại Nam Định ngày 28‑9‑2003. Lãnh đạo hai địa phương đã tiến hành ký kết hợp tác trên 10 lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, xây dựng, du lịch, y tế, văn hoá thông tin, lao động việc làm và an ninh, trật tự an toàn xã hội. Với mục đích khai thác thế mạnh của hai địa phương, hỗ trợ lẫn nhau, trên cơ sở hai bên cùng có lợi và cùng phát triển... Cùng với các hoạt động chính thức của chính quyền, các ngành kinh tế chủ chốt của Hà Nội như Nông nghiệp, Thương mại ‑ dịch vụ ‑ du lịch, Giao thông vận tải... cũng chủ động liên kết, hợp tác với các ngành kinh tế của nhiều tỉnh, thành trong khu vực, trên một số mặt, như Hà Nội đã hỗ trợ kinh phí xây dựng một số công trình phục vụ kinh tế ‑ xã hội; trao đổi đoàn và kinh nghiệm về xây dựng, phát triển và quy hoạch đô thị; phát triển quan hệ kinh tế thương mại, phát triển nông nghiệp, giáo dục, y tế, văn hoá, du lịch, thể dục thể thao... Như đã biết, thể chế kinh tế thị trường là tiền đề và là môi trường thuận lợi để kinh tế Hà Nội hội nhập kinh tế khu vực và thế giới và cũng là một trong những điều kiện quan trọng thúc đẩy sự liên doanh, liên kết giữa Hà Nội với các vùng, miền trong cả nước lên một tầm cao mới, chất lượng, hiệu quả và thiết thực hơn. Theo quy luật của kinh tế thị trường, nhờ sự tập trung phát triển mạnh mẽ công nghiệp và dịch vụ nên Hà Nội trở thành động lực thúc đẩy sự hình thành vùng kinh Vị trí, vai trò của thủ đô Hà Nội trong mối liên kết vùng kinh tế... 451 tế. Ở khía cạnh phát triển, đây là bước hình thành của cơ cấu kinh tế mới theo hướng CNH, HĐH, làm cho vai trò và phạm vi tác động của thành phố rộng lớn hơn. Vì thế, quan hệ hợp tác và thương mại giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và các địa phương khác, là xu thế tất yếu khách quan, nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh mỗi địa phương, thúc đẩy sự phát triển thương mại, dịch vụ trong thời kỳ mới, đóng góp vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Trong hai năm (4/2002 ‑ 3/2004), Sở thương mại Hà Nội đã chủ động làm việc và lần lượt ký kết hợp tác với ngành thương mại 9 tỉnh, thành phố: Bắc Ninh, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam và thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung hợp tác thực hiện khá toàn diện trên các lĩnh vực như: quản lý Nhà nước, xây dựng quy hoạch, chiến lược xuất nhập khẩu, đào tạo xúc tiến thương mại... Sau khi ký kết, Sở Thương mại các địa phương chủ động triển khai và chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện nội dung đã ký. Sở Thương mại Hà Nội phối hợp với Sở thương mại các tỉnh, thành phố xây dựng và thông qua các đề án hợp tác trong giai đoạn 2002‑2005 như: đầu tư xây dựng trung tâm thương mại, siêu thị giữa các tỉnh, hợp tác liên kết giữa các tỉnh phía Bắc trong hoạt động xuất‑nhập khẩu, liên kết trao đổi hàng hoá hai chiều giữa Hà Nội và các tỉnh, trao đổi kinh nghiệm và nâng cao quản lý Nhà nước về công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, quản lý chợ, liên kết hợp tác với các tỉnh trong lĩnh vực xúc tiến thương mại. Đối với các tỉnh lân cận, giáp ranh như Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tây, Vĩnh Phú, Hà Nam... Hà Nội đã chủ động hợp tác trên các lĩnh vực phát triển vùng rau “an toàn”, rau cao cấp và các loại thủy đặc sản để cung cấp cho Thủ đô; xây dựng, củng cố các tuyến đường giao thông thủy bộ, đường sắt liên tỉnh, liên huyện, quy hoạch, đầu tư, xây dựng các khu vui chơi, giải trí, các khu nhà ở, khu đô thị mới, chợ đầu mối, liên kết phát triển du lịch v.v Hoạt động thương mại Hà Nội ‑ Thái Bình từ năm 2000 phát triển mạnh mẽ, chiếm hơn 30% cơ cấu kinh tế của tỉnh. Riêng năm 2003, tổng mức lưu chuyển hàng hoá của Thái Bình đạt 2.065 tỷ đồng... Các mặt hàng máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, phục vụ dân sinh và hàng công nghiệp Hà Nội được tiêu thụ mạnh ở Thái Bình. Với sức mua dồi 452 Trần Thị Tường Vân dào, Hà Nội lại là thị trường tiêu thụ hàng nông, thuỷ sản lớn của Thái Bình. Đầu tháng 3‑2004, lãnh đạo hai sở Thương mại Hà Nội và Thái Bình đã ký văn bản ghi nhớ hợp tác gồm các lĩnh vực trao đổi thông tin, thương mại, kinh nghiệm quản lý Nhà nước về thương mại, phối hợp chương trình xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu và đào tạo cán bộ. Đầu tháng 8‑2004, Hội nghị giữa doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng nông sản, thực phẩm, thuỷ hải sản của các địa phương và các thành phố diễn ra tại Hà Nội. Đây là hội nghị chuyên đề đầu tiên được tổ chức nhằm xúc tiến thương mại, phát triển thị trường nội địa, và thị trường xuất khẩu, tăng cường cơ hội gặp gỡ, giao lưu giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh của các tỉnh với doanh nghiệp Hà Nội. Hội nghị đã tạo ra cơ hội đẩy mạnh sản xuất, lưu thông hàng hoá, tìm bạn hàng và tạo dựng thị trường ổn định, góp phần xây dựng và phát triển thương mại vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Những năm gần đây du lịch Hà Nội đã có những bước phát triển đáng kể, có quan hệ với hầu hết các địa phương trong toàn quốc, với mạng lưới các tuyến du lịch phong phú. Du lịch Hà Nội từ thế bị động đã chuyển sang chủ động bằng cách tăng cường các hoạt động lữ hành, tiếp thị thu hút khách, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các dịch vụ du lịch. Xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) đang là mục tiêu của nhiều tỉnh, thành phố, trong đó có Hà Nội. Bởi, mỗi KCN ra đời là đầu mối quan trọng thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước; tạo động lực cho quá trình tiếp thu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, ngoài 9 KCN tập trung vốn có từ trước, Hà Nội đầu tư xây dựng 5 KCN lớn tập trung và 16 khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Chính sự phát triển các KCN và cụm công nghiệp đã thu hút, sử dụng được nhiều doanh nghiệp kinh tế và nguồn nhân lực trong vùng, miền... Từ năm 2001, để phục vụ quá trình phát triển hệ thống kinh tế thị trường, Hà Nội đã đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, quan tâm đầu tư đối với các doanh nghiệp làm ăn lớn có hiệu quả. Thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê, sáp nhập, giải thể các Vị trí, vai trò của thủ đô Hà Nội trong mối liên kết vùng kinh tế... 453 doanh nghiệp làm ăn yếu kém, phát triển các doanh nghiệp tư nhân theo Luật Doanh nghiệp năm 2000. Đến tháng 3‑2004 trên địa bàn Hà Nội có khoảng 21.500 doanh nghiệp, trong đó có trên 700 doanh nghiệp Nhà nước, hơn 20 nghìn doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Hàng năm, các doanh nghiệp đã thu hút khoảng 600 nghìn lao động, đóng góp khoảng 75% tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố. Với lợi thế đó, cùng với cơ chế mở, Hà Nội đã có khoảng 740 doanh nghiệp đầu tư hơn 21.500 tỷ đồng sang các tỉnh, thành trong vùng. Ngoài ra với sự hình thành và phát triển nhiều khu công nghiệp, Hà Nội đã thật sự thu hút được khá đông nhân lực lao động ở các tỉnh thành trong vùng Bắc Bộ. 3. Một số nhận xét và kiến nghị Như trình bày ở trên, ở giai đoạn đầu của tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự hợp tác giữa Hà Nội và một số địa phương trong vùng đã đạt được những kết quả bước đầu khá tốt, với sự chủ động thuộc về chính quyền và lãnh đạo một số ban, ngành chủ yếu của thành phố, mà chủ yếu vẫn là cơ chế hợp tác theo thiện chí, hai bên cùng có lợi. Nhưng thực tế cũng cho thấy, so với tiềm năng và vị thế là thế mạnh vốn có, đặc biệt với vị thế là Thủ đô, Hà Nội chưa tận dụng, phát huy được nhiều, nhằm tạo sức cạnh tranh và hiệu quả cao, để làm nổi bật vai trò trung tâm kinh tế của cả vùng và cả nước. Hà Nội cũng chưa xây dựng được nhiều mô hình hay, cách làm mới, nhằm tạo sự lan toả cho vùng và cả nước. Việc liên kết của Hà Nội với các tỉnh trong vùng như trình bày ở phần trên, rõ ràng còn thiếu tính chuyên nghiệp, chưa tạo được đà đi lên mạnh mẽ; tính “cát cứ địa phương” của mỗi tỉnh vẫn còn nặng nề. Như đã biết, khi định hướng chính sách phát triển vùng, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Tập trung xây dựng và phát huy vai trò của thành phố Hà Nội là trung tâm kinh tế lớn đặc biệt của phía Bắc và cả nước”. Vì vậy, đòi hỏi các nhà lãnh đạo Hà Nội trong tư duy cần nghĩ tới quá trình phát triển Hà Nội những năm tới phải luôn luôn đặt vào bối cảnh của sự liên kết vùng, miền và cao hơn là của cả nước. Điều này buộc Hà Nội và các địa phương trong vùng phải tính toán quy 454 Trần Thị Tường Vân hoạch hợp lý các KCN, khu đô thị mới, các khu dịch vụ đầu mối, các khu dân cư; quy hoạch về phân bổ tài nguyên, nguồn lực, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế... Hà Nội cùng các tỉnh thành trong vùng có kế hoạch phối hợp phát triển một số ngành kinh tế cũng như phân bổ mạng lưới y tế, đào tạo nguồn nhân lực phải nhìn trên quan điểm vùng và liên vùng, không thể đóng khung trong một địa phương. Cần khắc phục tình trạng quy hoạch, đầu tư chồng chéo, lộn xộn của thời gian trước, gây nhiều lãng phí. Hà Nội sẽ tiếp tục thực hiện các chương trình xúc tiến đầu tư, bằng việc cải thiện môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng và thuận lợi. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển của đất nước, cùng với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới từ tháng 1‑2007, Nhà nước dần tháo gỡ những rào cản với các các vùng, các tỉnh thành trong việc ra các quyết định chiến lược. Đặc biệt, giờ đây, các tỉnh, thành lân cận đã và đang trở nên năng động hơn, gần Hà Nội hơn, do giao thông liên vùng phát triển, và cung cấp nhiều dịch vụ tốt hơn cho các nhà đầu tư, đã tạo nên cạnh tranh gay gắt trong thu hút vốn FDI giữa các địa phương của Việt Nam và giữa Hà Nội với các thành phố lớn khác trong và ngoài khu vực, thì việc Hà Nội có còn hấp dẫn với các nhà đầu tư nữa hay không, phục thuộc rất nhiều vào thiện tình của Hà Nội đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hiện các KCN, Cụm Công nghiệp ‑ Tiểu thủ Công nghiệp (CCN ‑ TTCN) đang ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển công nghiệp của các địa phương nói riêng. Tuy nhiên, Nhà nước chưa có quy định thống nhất chung trong việc việc xây dựng và quản lý các KCN, CCN ‑ TTCN. Vì thế, mỗi địa phương phải tự đề ra một quy chế quản lý tạm thời dẫn tới tình trạng mỗi nơi làm mỗi khác. Vai trò quản lý của các Sở Công Thương đối với các KCN, CCN – TTCN chưa rõ ràng. Chính điều này đã làm hạn chế việc liên kết phát triển giữa các địa phương vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng. Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ phát triển bền vững, Hà Nội cần hiểu biết sâu sắc về nhu cầu và ước muốn của các nhà đầu tư; đồng thời cần có khả năng kiểm soát sự thay đổi, với một cái nhìn tổng thể về sự phát triển kinh tế liên vùng, giữa các địa phương trong một Vị trí, vai trò của thủ đô Hà Nội trong mối liên kết vùng kinh tế... 455 miền, một quốc gia, cả khu vực và trên toàn thế giới. Muốn vậy, cần có sự liên hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, các nhà đầu tư với các cơ quan chính quyền các địa phương. Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu và các chủ doanh nghiệp, mối quan hệ giữa các cơ quan chức năng Hà Nội với cộng đồng doanh nghiệp chưa thực sự liên tục, tương tác và hợp tác mà thực tế, nhiều người đánh giá là rời rạc, lỏng lẻo, không có giao tiếp thường xuyên, truyền thông cơ học. Nguồn nhân lực ở Hà Nội tuy được đánh giá cao hơn về chất lượng, nhưng lâu dài sẽ có nguy cơ thiếu hụt, khi mà các tỉnh, thành lân cận cũng phát triển nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đã và đang có các chính sách thu hút chất xám và nhân công. Khi đó, nguồn nhân lực cao ở các tỉnh khác dồn về Hà Nội sẽ không còn nữa, bởi giá cả sinh hoạt và giá thuê nhà ở Hà Nội ngày càng đắt đỏ. Cùng với đó là chi phí cho lao động ở Hà Nội cao hơn so với các địa phương khác, đã làm cho chi phí của việc đầu tư kinh doanh tại Hà Nội đội lên cao, ít nhiều làm nản lòng các nhà đầu tư trong vùng. Để giải quyết các mâu thuẫn vừa nêu, chiến lược phát triển kinh tế ‑ xã hội Thủ đô cần được xây dựng và thực hiện trong mối quan hệ hữu cơ với với xây dựng, triển khai chiến lược phát triển kinh tế ‑ xã hội vùng và cả nước; tạo ra sự phân công hợp tác có kế hoạch trong một cơ cấu thống nhất trên phạm vi cả nước. Hà Nội “cần tạo lập sự liên kết hiệu quả giữa các thành phần kinh tế trên địa bàn, giữa kinh tế Hà Nội với kinh tế vùng trọng điểm phía Bắc và cả nước... Tiếp tục phát triển công nghiệp có chọn lọc... coi trọng sản xuất các ngành hàng có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế các tỉnh lân cận và cả nước... Phát triển và nâng cao trình độ, chất lượng các ngành dịch vụ... Dịch vụ phải gắn bó, phục vụ hiệu quả yêu cầu phát triển công nghiệp, nông nghiệp trên địa bàn và phát triển kinh tế vùng trọng điểm phía Bắc và kinh tế cả nước. Xây dựng Hà Nội thành trung tâm thị trường hàng hoá bán buôn, xuất nhập khẩu, trung tâm tài chính ‑ ngân hàng hàng đầu ở khu vực phía Bắc và có vai trò quan trọng của cả nước”1. 1. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ lần thứ 13, trình Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 14 (tháng 12‑2005), Ban chấp hành Đảng bộ Hà Nội (2006), Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 14. Nxb Hà Nội. 456 Trần Thị Tường Vân Hà Nội nên quan tâm thực hiện tốt các dự án hỗ trợ hợp tác theo thoả thuận đã ký kết với các địa phương; phát huy các nhân tố riêng để thúc đẩy phát triển hệ thống doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội; nhằm nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động trong quá trình hội nhập và phát triển. Hệ thống thương mại của vùng cần thành lập mạng lưới sản xuất ‑ kinh doanh gồm nhiều thành phần kinh tế tham gia để liên kết giữa thương mại và sản xuất ổn định. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nghiên cứu áp dụng mô hình liên kết sản xuất kinh doanh “sản xuất ‑ mua gom ‑ bảo quản ‑ chế biến ‑ tiêu thụ”… Để làm nổi bật vai trò của thành phố Hà Nội “là trung tâm kinh tế lớn đặc biệt của phía Bắc và cả nước”1, khi không gian kinh tế của Thủ đô không ngừng mở rộng; và để cho các mối quan hệ hợp tác giữa Hà Nội với các tỉnh thành trong cả nước ngày càng đa dạng và hiệu quả, đặc biệt để vùng Hà Nội phát huy lợi thế so sánh, phát triển nhanh và ổn định, có sức cạnh tranh, góp phần khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính đang còn tồn tại ở nhiều nơi, Hà Nội cần thiết tập trung: ‑ Tiếp tục chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH‑ HĐH, phát huy cao nhất lợi thế so sánh địa phương, gắn với hợp tác vùng. Cơ cấu đầu tư phát triển được chuyển dịch theo hướng tăng đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị, phát triển công nghiệp và dịch vụ trình độ cao phù hợp khả năng và lợi thế so sánh của thành phố, phát triển nông thôn ngoại thành Hà Nội và nối liền, lan tỏa sang các địa phương xung quanh. Từ thực tiễn những năm qua và yêu cầu của tình hình mới, Hà Nội đang và sẽ phải dành nhiều sự quan tâm hơn cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế tri thức gắn với dịch vụ cao cấp, khai thác các nhân tố phát triển bề sâu, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu, tập trung phát triển một số sản phẩm công nghiệp, dịch vụ chủ lực, mang tính liên ngành, đồng thời đa dạng hóa cơ cấu ngành, sản phẩm; gắn liền với nâng cao chất 1. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 227. Vị trí, vai trò của thủ đô Hà Nội trong mối liên kết vùng kinh tế... 457 lượng và khả năng cạnh tranh của kinh tế Hà Nội. Điều đó sẽ góp phần quan trọng lan tỏa ảnh hưởng của Hà Nội, thúc đẩy sự tăng cường liên kết vùng, liên vùng và cả nước phục vụ mục đích “Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Hà Nội”. ‑ Nghiên cứu làm rõ những nội dung cốt yếu để định hướng một chiến lược phát triển dài hạn của thủ đô trong mối quan hệ vùng thủ đô, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, liên vùng, với cả nước và quốc tế. Xây dựng một số mô hình tăng trưởng kinh tế, quy hoạch đô thị theo hướng hiện đại và hội nhập vùng, cả nước và quốc tế. Triệt để khai thác tính năng động và hiệu quả của thể chế kinh tế thị trường, định hướng XHCN đang hình thành; góp phần trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu chính trị, kinh tế ‑ xã hội văn hóa, của Thủ đô.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan