Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vẻ đẹp của hội họa và văn chương trong hòn đá xanh của jimmy liao (2017)...

Tài liệu Vẻ đẹp của hội họa và văn chương trong hòn đá xanh của jimmy liao (2017)

.PDF
68
200
100

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ HÒA TRANG VẺ ĐẸP CỦA HỘI HỌA VÀ VĂN CHƯƠNG TRONG HÒN ĐÁ XANH CỦA JIMMY LIAO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học HÀ NỘI - 2017 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý Thầy Cô, những người đã tận tình giảng dạy, động viên, giúp đỡ và đóng góp ý kiến, nhận xét cho tôi trong quá trình NGUYỄN THỊ HÒA TRANG học tập cũng như khi thực hiện khóa luận. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Mai Thị Hồng Tuyết, người đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên, khuyến khích VẺ ĐẸP CỦA HỘI HỌA và tạo điều kiện giúp tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. Khóa luận VÀ VĂNkhông tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự CHƯƠNG TRONG HÒN ĐÁ XANH giúp đỡ, đóng góp của Thầy Cô và các bạn. CỦA JIMMYHà Nội, tháng 4 năm 2017 LIAO Sinh viên KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học Nguyễn Thị Hòa Trang Người hướng dẫn khoa học TS. MAI THỊ HỒNG TUYẾT HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý Thầy Cô, những người đã tận tình giảng dạy, động viên, giúp đỡ và đóng góp ý kiến, nhận xét cho tôi trong quá trình học tập cũng như khi thực hiện khóa luận. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Mai Thị Hồng Tuyết, người đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên, khuyến khích và tạo điều kiện giúp tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. Khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp của Thầy Cô và các bạn. Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Hòa Trang LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của Tiến sỹ Mai Thị Hồng Tuyết. Các luận cứ nêu trong khóa luận là xác thực. Những kết luận khoa học của khóa luận chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Hòa Trang MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ...................................................................... 3 3.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 4 5. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................... 4 6. Đóng góp của khóa luận. .................................................................................... 5 7. Bố cục khóa luận ................................................................................................. 5 NỘI DUNG ............................................................................................................ 6 CHƯƠNG 1 MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ HỘI HỌA ........................ 6 1.1. Một số nét khái quát về hội họa ..................................................................... 6 1.1.1. Lịch sử hội họa .............................................................................................. 6 1.1.2. Các bình diện đặc trưng của tác phẩm hội họa ............................................ 11 1.2. Một số nét khái quát về văn học ................................................................... 15 1.2.1. Lịch sử văn học............................................................................................ 15 1.2.2. Đặc điểm cơ bản của văn học....................................................................... 21 1.3. Mối quan hệ giữa văn học và hội họa .......................................................... 25 1.3.1. Quan niệm ở phương Đông .......................................................................... 25 1.3.2. Quan niệm ở phương Tây ............................................................................ 26 CHƯƠNG 2 SỰ KẾT HỢP GIỮA HỘ HỌA VÀ VĂN HỌC TRONG “HÒN ĐÁ XANH” (J.LIAO) ............................................................... 28 2.1. “Hòn đá xanh” – một câu chuyện giàu chất thơ.......................................... 28 2.1.1. Quan niệm về chất thơ và chất thơ trong văn xuôi ........................................ 28 2.1.2. Chất thơ được thể hiện trong “Hòn đá xanh”. ............................................... 31 2.2. “ Hòn đá xanh” – một bức tranh đẹp .......................................................... 45 2.2.1. Về bố cục..................................................................................................... 45 2.2.2. Về màu sắc. ................................................................................................. 48 2.2.3. Về đường nét ............................................................................................... 50 2.3. “Hòn đá xanh” như là sự hội tụ vẻ đẹp của văn học và hội họa ................. 52 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Mối quan hệ giữa hội họa và văn học là mối quan hệ bền chặt. Nó được biểu hiện trong suốt quá trình phát triển của lịch sử. Mối quan hệ này được biểu hiện ở chỗ: Nhiều tác phẩm hội họa lấy đề tài từ các tác phẩm văn học. Ngược lại, nhiều tác phẩm văn học lại vận dụng một số kĩ thuật của hội họa để miêu tả. Và khi truyện tranh ra đời, mối quan hệ này được nâng lên một cấp độ mới. 1.1. Jimmy Liao tên thật là Kỷ Mễ, ông sinh năm 1958 tại một thành phố nhỏ phía đông bắc Đài Loan. Sau khi tốt nghiệp Đại học Văn hóa, tác giả đã khởi nghiệp với nghề quảng cáo và thiết kế Mỹ thuật cho sách. Mãi tới năm 40 tuổi ông mới cho ra mắt cuốn truyện tranh đầu tiên. Ngay sau đó, các tác phẩm của ông đã vượt ra khỏi biên giới Đài Loan và trở thành “ hiện tượng xuất bản” ở nhiều quốc gia trên thế giới như: Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật Bản… Jimmy Liao được xem như người dẫn đầu cho dòng truyện tranh dành cho người lớn. Trong những tác phẩm của mình, ông đã sáng tạo nên một thế giới đặc biệt bằng màu sắc, ngôn ngữ và cả sự lãng mạn, bay bổng đến tận cùng. Đó là thế giới, là cuộc sống của con người mà đặc biệt là giới trẻ hiện nay. Các nhân vật trong sáng tác của Jimmy Liao đều là những người bình thường thậm chí có phần yếu thế trong xã hội. Đó là nghệ sỹ nghèo trong Nàng rẽ trái, chàng rẽ phải, là cô gái mù trong Âm thanh của sắc màu, là hòn đá trong Hòn đá xanh… Tác phẩm của ông là những nét vẽ, những ngôn từ, những cảm xúc… đề cập đến cuộc sống , đến lẽ sống và tình người. Nó khơi gợi lên lòng trắc ẩn và đem đến những giá trị nhân văn sâu sắc, nó chạm tới nơi sâu thẳm nhất trong trái tim mỗi con người. Cũng chính vì điều đó đã khiến các tác phẩm của ông trở nên nổi tiếng và phổ biến trên thế giới. Đặc biệt là tác phẩm Hòn đá xanh, tác phẩm kể lại cuộc hành trình trở về với rừng xanh của một hòn đá kỳ diệu hay cũng chính là câu chuyện cảm động về tình yêu quê hương và nỗi nhớ nhà của những người con xa xứ. Một tảng đá khổng lồ được sinh ra trong rừng sâu bỗng một ngày phải rời xa rừng và đến một nơi xa lạ. Thời gian trôi qua, bề mặt hòn đá đã được tạc thành biết bao những tác phẩm nghệ 1 thuật hoàn mỹ nhưng hòn đá ấy vẫn không nguôi ngoai nỗi nhớ khu rừng. Mỗi lần nhớ là mỗi lần hòn đá tội nghiệp ấy vỡ ra thành trăm mảnh và dù có phải vỡ ra thêm nữa thì điều nó muốn vẫn là trở về khu rừng. Để rồi khi chỉ còn là một viên đá bé xíu bị chìm vào trong cát bụi, nó vẫn hạnh phúc khi được trở về với rừng. Kết hợp nét vẽ comic quen thuộc của truyện tranh những năm 1980 cùng cách phối màu đầy thẩm mỹ, Jimmy Liao đã kể lại những câu chuyện tuyệt vời bằng tranh. Hòn đá xanh của Jimmy Liao là đỉnh cao trong sự kết hợp giữa hội họa và văn học, hai yếu tố này như hòa quyện làm một. Sự kết hợp tuyệt vời này đã tạo nên một câu chuyện lãng mạn, rung động người đọc. Trên tinh thần nghiên cứu đó, chúng tôi lựa chọn đề tài: Vẻ đẹp của hội họa và văn chương trong Hòn đá xanh của Jimmy Liao với mục đích làm rõ mối quan hệ giữa hội họa và văn học trong tác phẩm. Việc lựa chọn đề tài này, người viết cũng mong muốn áp dụng những kiến thức lý luận văn học để tiếp cận một cách hệ thống và khoa học nhằm lý giải phần nào mối quan hệ đa chiều và phức tạp đó. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Jimmy Liao đã trở thành cái tên quen thuộc đối với bạn đọc yêu thích dòng tranh truyện với những câu chuyện cuộc sống vô cùng lãng mạn. Năm 2003, tạp chí Studio Voice bình chọn ông là 1 trong 55 người Châu Á sáng tạo nhất. Các tác phẩm của ông được giới văn chương, hội họa và cả điện ảnh quan tâm rất nhiều. Có một số nghiên cứu, nhận xét về tác giả Jimmy Liao và tác phẩm của ông. Nó xoay quanh một số vấn đề sau: Xét ở chủ đề tác phẩm, tác giả Phạm Hải Anh trên baomoi.com cho rằng: “Hòn đá xanh là câu chuyện về nỗi cô đơn đã ám màu sắc tuyệt vọng. Từ một hòn đá xanh nguyên vẹn đẹp đẽ giữa rừng, bỗng dưng một ngày kia hòn đá bị chia cắt,rồi tan vỡ, rồi lại chia cắt… Hòn đá chưa bao giờ thôi nhung nhớ về phần thân thể bị tách rời và nỗi đau ấy đã hủy hoại nó, biến nó từ một khối đá giữa rừng thành những hạt bụi vô tri, trên hành trình ấy, hòn đá đã chứng kiến biết bao nỗi đau, biết bao nỗi cô đơn của những người đã từng đi qua nó - tuy không thể sẻ chia, những đều được nó ghi nhận, đều thổi bùng lên nỗi nhớ nhung từ sâu thẳm trong 2 tim, và cuối cùng , quay lại hủy hoại nó”. Trên trang Vnexpress.net, Quỳnh Anh có viết: “ Hòn đá xanh là câu chuyện cảm động về tình yêu quê hương và nỗi nhớ nhà của những người con xa xứ thông qua hình tượng tảng đá. Một tảng đá xanh khổng lồ được sinh ra từ rừng sâu bỗng một ngày phải rời xa rừng để đến nơi xa lạ. Thời gian trôi qua, bề mặt tảng đá thô kệch đã trở thành tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ, nhưng thẳm sâu trong nó là nỗi nhớ rừng da diết, khôn nguôi. Để rồi khi chỉ còn là một viên đá bé xíu bị chìm lẫn trong cát bụi, nó vẫn hạnh phúc khi được trở về khu rừng”. Có một số tác giả đã nhấn mạnh màu sắc hội họa và văn chương trong tác phẩm: Tác giả Quỳnh Anh trên trang Vnexpress.net cho rằng: “ Đến với những tác phẩm của Jimmy Liao, độc giả sẽ cảm nhận những câu chuyện bằng ngôn ngữ đầy màu sắc của hội họa. Với nét vẽ sinh động, bố cục hài hòa cùng cách phối màu ấn tượng, các bức tranh thể hiện hoàn chỉnh nội dung câu chuyện. Khi đó, ngôn từ chỉ đóng vai trò là lời dẫn. Hội họa và văn chương hòa làm một, người đọc được tự do cảm nhận trong một thế giới đầy màu sắc”. Thụy Oanh trên zing.vn có viết: “ Với những nét vẽ tinh tế mà đầy cá tính cùng cách phối màu đầy sáng tạo, những cuốn truyện tranh của Jimmy Liao đã chạm tới trái tim của hàng triệu độc giả trên khắp thế giới” hay như “ Kết hợp nét vẽ comic quen thuộc của truyện tranh những năm 1980 cùng cách phối màu đầy thẩm mỹ, Jimmy Liao đã kể những câu chuyện tuyệt vời bằng tranh. Trong những tác phẩm của họa sỹ nổi tiếng người Đài Loan này, hội họa và văn chương như hòa quyện làm một. Hai yếu tố này đã có một sự kết hợp rất tuyệt vời để tạo nên những câu chuyện lãng mạn rung động lòng người. Đặc biệt nếu là người yêu hội họa, bạn sẽ ấn tượng với những nét vẽ bay bổng và cách sử dụng màu sắc ấn tượng của Jimmy Liao”. Song tất cả những nhận định này mới chỉ là những nhận xét mà chưa có những nghiên cứu chuyên sâu. Chưa có bất kỳ một công trình nghiên cứu nào về mối quan hệ giữa hội họa và văn học trong các tác phẩm của Jimmy Liao và đặc biệt là tác phẩm Hòn đá xanh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 3 3.1. Mục đích nghiên cứu Triển khai đề tài này, chúng tôi cố gắng phát hiện và chỉ rõ mối quan hệ giữa văn học và hội họa trong truyện Hòn đá xanh của Jimmy Liao. Từ đó làm nổi bật mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ của hai loại hình nghệ thuật này cũng như cảm nhận được bức tranh cuộc sống, những triết lý nhân sinh của cuộc đời mà Jimmy Liao đã thể hiện trong tác phẩm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu, khóa luận cần thực hiện các nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu một số điểm khái quát về lịch sử hội họa, đặc điểm cơ bản của hội họa và lịch sử văn học, đặc điểm cơ bản của văn học. - Chỉ ra được mối quan hệ chung giữa văn học và hội họa. - Phát hiện ra vẻ đẹp văn học và hội họa trong cùng tác phẩm Hòn đá xanh. Từ đó giúp người đọc thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. - So sánh với một số tác giả sáng tác thuộc thể loại tranh truyện tiêu biểu có tác phẩm tương đồng để chỉ ra nét đặc sắc của hai loại hình nghệ thuật nói chung và nét đặc sắc trong truyện Hòn đá xanh của Jimmy Liao nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: Vẻ đẹp của hội họa và văn chương trong Hòn đá xanh của Jimmy Liao. (Dưới sự tranh luận về sự khác biệt giữa hai thuật ngữ là văn chương và văn học nhưng trong khóa luận này, chúng tôi sử dụng hai thuật ngữ này với hàm nghĩa tương đương.) Phạm vi nghiên cứu: - Về tác phẩm: Hòn đá xanh của Jimmy Liao - Về nội dung nghiên cứu: Tập trung vào những vấn đề chính thể hiện sự hòa quyện giữa văn học và hội họa trong tác phẩm. 5. Phư1ơng pháp nghiên cứu. Để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi sử dụng kết hợp 4 các phương pháp sau đây: - Phương pháp khảo sát - thống kê - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp so sánh. 6. Đóng góp của khóa luận. Về mặt lí luận, khóa luận đi làm rõ mối quan hệ giữa văn học và hội họa trong tác phẩm văn học. Về mặt thực tiễn, khóa luận giúp cho người đọc thấy được giữa văn học và hội họa có mối quan hệ chặt chẽ và kết hợp hài hòa với nhau. Mối quan hệ này được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm Hòn đá xanh. Từ đó, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của câu chuyện. 7. Bố cục khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm hai chương: Chương 1: Mối quan hệ của văn học và hội họa. Chương 2: Sự kết hợp giữa hội họa và văn học trong Hòn đá xanh của J. Liao. 5 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ HỘI HỌA 1.1. Một số nét khái quát về hội họa Hội hoạ là một loại hình nghệ thuật cơ bản. Nó đã có một lịch sử phát triển dài lâu với những ưu thế riêng có. Nói như Sister Wendy Beckett trong cuốn Câu chuyện nghệ thuật hội họa từ tiền sử tới hiện đại:“Hội họa là ngôn ngữ phổ quát như âm nhạc, vượt ngoài mọi biên giới quốc gia chứ không bị giới hạn như thổ ngữ, dân ngữ hay như ngôn ngữ văn chương. Họa phẩm Mona Lisa không cần thông dịch như Truyện Kiều. Bằng hình sắc, ánh mắt và nụ cười, Mona Lisa tự nói lên tâm trạng của mình hay của chính tác giả Leonardo da Vinci” [3, 8]. 1.1.1. Lịch sử hội họa Bất cứ một ngành nghệ thuật nào ra đời đều gắn liền với nguồn gốc, lịch sử nhất định. Đó là lý do mà các nhà nghiên cứu luôn cố gắng tìm tòi và phát hiện. Trong cuốn Lịch sử hội họa, Wendy Beckett có viết: “Đối với tôi, nghệ thuật luôn luôn là một say mê và tôi thường ngạc nhiên là người ta lại truy vấn về lý do và nguồn gốc của sự say mê này” [3, 5]. Vậy nghệ thuật ra đời trong hoàn cảnh nào? Họa sỹ Thái Tuấn trong cuốn Câu chuyện hôi họa cho rằng: “Giữa dòng đêm tối của thời gian, sự vật vô tri ôm giấc ngủ dài chờ đợi. Bỗng từ cõi hư vô, hơi thở nào đã bùng lên ngọn lửa đam mê và cài hoa rắc bướm vào tóc rừng ngực núi. Khi gót chân chàng nhẹ nhàng hôn lên vầng cát trắng, đuổi bắt mặt trời để chia cho bình minh hoang dại và hoàng hôn cô độc, là lúc phán hương xao xuyến mừng đón gió về phổ vào đàn suối lời ca cho bầy Ngọc Nữ. Nhưng khi đàn bướm bay theo tiếng ca vừa tắt thì cũng là lúc gót chân lưu đày xót xa hơn bao giờ hết. Trước mặt hữu thế lõa lồ nhạo báng, chàng lặng lẽ cúi đầu cất cao bản kinh chiều để tiễn đưa phi lý vào cõi hư vô. Trong cơn xuất thần mầu nhiệm thì thầm: câu chuyện lưu đày chỉ là cuộc 6 hành hương vô tận. Chàng ngửa mặt nhìn đêm để đếm xem có bao nhiêu vì sao rụng. Và nghệ thuật bắt đầu…” [16,3]. Phải chăng, nghệ thuật ra đời và bắt đầu nảy nở từ đó. Và dĩ nhiên, là đứa con trong gia đình nghệ thuật, hội họa cũng bắt đầu nhen nhóm ra đời. Lịch sử hội họa được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử và trải dài theo tất cả các nền văn hóa. Vì thế, lịch sử hội họa giống như một dòng sông cuộn chảy của sự sáng tạo được tiếp nối tới thế kỷ 21. 1.1.1.1. Thời Tiền sử Ở thời kỳ này, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra được sự ra đời của hội họa. Tuy nhiên, hội họa ra đời cụ thể vào thời gian nào vẫn là một câu hỏi. “Có cần phải nói rằng chúng ta không có một tài liệu nào, dầu là thầm lặng, để tìm hiểu về những bức tranh trên đá thuộc đại Cổ thạch khí không,những bức tranh như ta có thể chiễm ngưỡng ở Lascaux, ở Eyxies, ở Altamira và ở những nơi khác nữa? Những bức bính họa đó, mà việc khám phá ra được đã làm cho cả các nhà bác học và công chúng xôn xao, chứng tỏ một nghệ thuật hội họa cực kỳ phát triển có những phẩm chất tạo hình rất cao” [5, 21]. Có rất nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề về nguồn gốc hội họa “Vấn đề nguồn gốc cuả hội họa là một vấn đề mơ hồ… Người Ai Cập khẳng định rằng nghệ thuật này đã được phát minh ở xứ sở họ sáu ngàn năm trước rồi mới truyền sang Hy Lạp; đây là sự biểu lộ lòng tự phụng vô vọng; con người Hy Lạp thì kẻ nói hội họa được phát minh ở Sycione, người nói ở Corinthe, nhưng tất cả đều nói rằng người ta bắt đầu bằng cách vẽ một đường bao quanh bóng con người” [5, 31].Theo nghiên cứu, những bức tranh lâu đời nhất khoảng 40.000 năm tuổi. José Luis Sanchidrián tại trường Đại học Cordoba, Tây Ban Nha, tin rằng những bức tranh này dường như được vẽ bởi người Neanderthals hơn là con người hiện đại thời kỳ đầu. Các hình ảnh tại hang động Chauvet nước Pháp được cho rằng có khoảng 32.000 năm tuổi. Chúng được khắc và vẽ bằng cách sử dụng màu đất son đỏ và chất bột màu đen thể hiện các hình ảnh về ngựa, tê giác, sư tử, trâu, voi ma mút và thói quen săn bắn của con người. Hang động là nơi xuất hiện nhiều bức 7 tranh nhất và nghệ thuật hang động được gọi là “bước khởi hành” đầu tiên của hội họa và cũng là đối tượng của hội họa. “Chỉ trong hang Lascaux đã có hàng trăm và còn rất nhiều ở nhiều hang động trên khắp nước Pháp và Tây Ban Nha. Hang Lascaux chỉ hiến cho ta bộ sưu tập đẹp nhất, nguyên vẹn nhất của những bức tranh cổ xưa nhất” [5, 24 ].Có thể nói, hội họa ra đời bắt nguồn từ sự sống của con người. Theo nghiên cứu, người ta phát hiện được khoảng 500000 bức bính họa tại 70000 di chỉ nằm rải rác ở 160 nước trên thế giới. Tuy nhiên, đó chỉ là nói riêng về các hình khắc, vẽ trên xương thú, vỏ cây hoặc trên các hòn cuội, hòn sỏi... 1.1.1.2. Thời kỳ Phục Hưng: Nghệ thuật hội họa thời kỳ Phục Hưng tiêu biểu là hội họa Italia, được chia làm 3 giai đoạn cơ bản: Giai đoạn 1: Bắt đầu từ khoảng thế kỷ XIII ở Italia với những tên tuổi như: Sipawe, Giotto di Bontone (1267 - 1337), Donatello (1386 - 1486)…Tranh của Giotto bắt đầu khám phá không gian vào trong tranh, có sự xa gần mặc dù chưa cụ thể, mới chỉ là sơ khai, chưa tách bạch,… Kế tục Giotto là Sipawe, ở ông bắt đầu có sự xuất hiện của ánh sáng trong tranh tuy vẫn còn chưa tập trung, chưa đúng vị trí, chưa cụ thể… Tuy nhiên, so với tranh thời Trung cổ thì tranh thời kỳ này đã có những điểm rất khác biệt và mới mẻ. Giai đoạn 2: Kéo dài khoảng 200 năm,bắt đầu từ thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XV với các tên tuổi nổi tiếng như: Masaccio, Angelico hay nổi bật là Sandro Botticelli. Đối với Masaccio, ông là người mở đầu cho nghệ thuật thế kỷ XV. Ông được thừa hưởng thành tựu về phép phối cảnh, hình họa, điêu khắc, ánh sáng trong tranh rõ ràng, các mạng sáng tối tren nhân vật sắc nét, tương phản, được gợi khối tròn và có sự mềm mại. Chiều thứ ba của không gian cũng được diễn tả khá tốt. Ngoài cái đẹp hình thể, ông còn chú ý thể hiện được rõ tình cảm, dụng ý của chính mình. Giai đoạn 3: Từ khoảng năm 1490 - 1500 cho đến năm 1520, đây được coi là thời kỳ đỉnh cao của nghệ thuật Phục Hưng. Hầu hết các tác phẩm đều đạt tới độ hoàn mỹ trở thành những tác phẩm kinh điển thế giới. Các danh họa thời kỳ này có 8 thể kể tới tam trụ của thời kỳ Phục Hưng: Raphael, Michelangelo và Leonardo da Vinci. Nhắc tới Michelangelo là nhắc tới bức họa Ngày phán xét cuối cùng được vẽ trên tường nhà nguyện Sistine trong 4 năm liên tục và hoàn thành trong khoảng 1536 đến 1541. Nói về Leonardo da Vinci thì người ta sẽ không quên nhắc tới bức tranh Nàng Mona Lisa vốn chưa bao giờ làm vơi giấy mực để bình phẩm. Đối với ông “Hội họa là khoa học, là đứa con chân chính của thiên nhiên, vì nó chính là con đẻ của thiên nhiên” [5, 94]. Thời kỳ Phục Hưng được đánh giá là thời kỳ vàng son của hội họa. Hơn nữa thời kỳ Phục Hưng này còn mang tới sự trỗi dậy của một phong cách hội họa gọi là trường phái Kiểu cách và sự xuất hiện của Baroque. Hội họa Baroque đặc trưng bởi tính tuyệt vời, màu sắc sâu, phong phú với cường độ bóng, sáng và tối với một số tên tuổi tiêu biểu như: Caravaggio, Rembrandt, Frans Hals, Rubens… 1.1.1.3. Thời kỳ cận đại: Hội họa thời kỳ này đánh dấu sự xuất hiện của các loại hình nghệ thuật và các trường phái như: nghệ thuật baroque, nghệ thuật rococo, chủ nghĩa lãng mạn, trường phái Ấn tượng (Impressionism), trường phái hậu Ấn tượng, trường phái Biểu hiện (Expressionism). Trước tiên là hội họa Baroque, tồn tại cùng với nghệ thuật cổ điển trong suốt thế kỷ XVII. Nghệ thuật Baroque phát triển và ghi dấu cho sự chấm dứt chiến tranh Tôn giáo. Phong cách Baroque bắt nguồn ở Italy, nơi các tác phẩm dùng để trang trí cho nhà thờ. Các họa sỹ thuộc phong cách này chú trọng về chuyển động và ảo tưởng và các tác phẩm gợi lên những cảm xúc mãnh liệt. Thứ hai là nghệ thuật Rococo, xuất hiện vào thế kỷ Ánh Sáng ở Pháp và trở thành một loại nghệ thuật đáng yêu, tinh tế nhất. Phong cách này ra đời đã quyến rũ những người yêu thích phong tục hay các cảnh tình tứ, đại diện cho thứ nghệ thuật nên thơ và phóng khoáng. Thứ ba là chủ nghĩa Lãng Mạn. Đây là chủ nghĩa thể hiện khao khát tự do, bình đẳng, bác ái… Hơn hết, với chủ nghĩa này con người tuân theo tình cảm hơn lý trí, gợi nên những cảm xúc mãnh liệt. Tiêu biểu cho phong cách này là Gericault 9 (1791 - 1824), họa sỹ lãng mạn đầu tiên của Pháp với bức tranh Chiếc bè Mesdse. Tiếp đến là sự xuất hiện của trường phái Ấn Tượng (Impressionism). Đây là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ XIX). Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước tiến quan trọng của hội họa. Một số họa sỹ tiêu biểu thuộc trường phái này như: Mary Cassatt, Paul Cezanne, Edgar Degas, Max Liebermann, Claude Monet, Berth Morisot,… Thứ năm là trường phái Hậu Ấn Tượng, là trào lưu tiếp theo của làn sóng Ấn tượng. Năm 1884, nhiều họa sỹ từ bỏ trường phái Ấn tượng để bắt đầu bảo vệ nền hội họa có tính xây dựng hơn. Tiêu biểu cho trường phái này là họa sỹ Gauguin (1848 - 1903) nổi tiếng. Tiêu biểu cho thời kỳ này phải kể đến trường phái Biểu hiện (Expressionism). Đây là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện và phát triển ở Châu Âu vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bao gồm một số họa sỹ nổi tiếng như: Vincent, Van Gogh Monet, Renoir, Sisley, Bazille, Camille Pissaro… 1.1.1.4. Thời kỳ hiện đại: Một số trường phái, chủ nghĩa tiếp tục dẫn đường và phát triển ở thế kỷ XXI như: chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa tối giản, Trừu tượng trữ tình, pop art, op art, chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng, phong cách mảng màu, hội họa đơn sắc, tân chủ nghĩa biểu hiện… Và các nghệ thuật cắt dán, hội họa liên truyền thông, vẽ tranh tập hợp, tranh kỹ thuật, hội họa hậu hiện đại, tân Dada, tranh trên vải, tranh tường về môi trường,hội họa tạo hình truyền thống, tranh phong cảnh, tranh chân dung vẫn tiếp nối con đường hội họa ở thế kỷ 21. Một trong những thể loại làm nên lịch sử cho hội họa phải kể đến thể loại “tranh truyện”, đặc biệt là sự hình thành các nét vẽ comic. Nhiều người lầm tưởng rằng, tranh truyện là thể loại mới ra đời trong những thế kỷ hiện đại này. Tác giả Thạch Linh trên trang hcmufa.edu.vn có viết: “nếu hiểu truyện tranh là những truyện kể bằng hình vẽ thì những hình vẽ trên các hang động như Lacaux thuộc thể loại “truyện tranh” cách đây 35.000 năm. Còn cho rằng truyện tranh là truyện được kể lại bằng hình ảnh kết hợp với chữ viết thì những bức bích họa trong lăng mộ Ai Cập cổ đại mới được gọi là truyện tranh cổ nhất” [13]. 10 Đặc trưng cơ bản của thể loại truyện tranh là tính biếm họa và hài hước, họa sỹ Annibale được coi là người mở đầu cho tranh châm biếm thế kỷ XVI. Cũng vẽ tranh theo hình thức biếm họa đó có một số tên tuổi như: Guercino, Domenechio (học trò của Annibale), Bernini, Pier Leone Ghezzi, Gillray, Rowlandson, Monet, Dore, Daumier… Tuy nhiên, nếu chỉ là sự hài hước, biếm họa thì chưa được gọi là truyện tranh mà nó cần có cốt truyện được thể hiện qua sự tiếp nối của hình vẽ. Năm 1771, William Hogarth – họa sỹ người Anh xuất bản một loạt tranh “trường đoạn” gồm nhiều bức tranh kể lần lượt một câu chuyện, được trình bày như một vở kịch có tựa đề Sự tiến bộ của kẻ phóng đãng. Đến đầu thế kỷ XIX, họa sỹ người Nhật Hokusai được coi là tổ sư loại truyện tranh “manga” khi ông cho in những bức tranh độc đáo về phong tục, con người và phong cảnh nước Nhật… Nhưng trong lúc này thì truyện tranh vẫn ghi lời riêng, hình vẽ riêng, cho đến năm 1884, một họa sỹ người Anh là Thomas đã đưa ô ghi lời vào trong hình vẽ. Đó là một bước đến gần hơn với hình thức comic. Sau đó, các truyện tranh được tập hợp thành sách và gọi là comic book. Các cuốn truyện tranh tiêu biểu như: truyện Tarzan (Rex Mason); thám tử Tracy (Cherter Gould), những chú rùa Ninja đột biến (Kevin Eastman)… Truyện tranh phát triển từ thập niên 80 và hiện tại nó đã trở thành một hiện tượng văn hóa của thế kỷ XX. Đối tượng của nó không chỉ dừng lại ở thiếu nhi mà đã đang phát triển tới mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi thành phần cuả xã hội. Nó hoàn toàn phù hợp với một xã hội hiện đại, nơi văn hóa nghe nhìn phát triển,, đọc nhanh, xem nhanh. Truyện Hòn đá xanh của Jimmy Liao là truyện tranh tiêu biểu cho thể loại này. 1.1.2. Các bình diện đặc trưng của tác phẩm hội họa Theo Từ điển Mĩ thuật phổ thông có viết: “Hội họa là nghệ thuật dùng màu sắc, hình mảng, đường nét để diễn đạt cảm xúc của người vẽ trước vẻ đẹp của con người, thiên nhiên, xã hội. Hội hoa là một ngành của nghệ thuật tạo hình…” [15]. Để làm nên một bức tranh không thể thiếu sự góp mặt của các yếu tố như: bố cục, đường nét và màu sắc. 1.1.2.1. Bố cục trong tác phẩm hội họa 11 Có thể hiểu một cách đơn giản bố cục là bố trí các hình thể và yếu tố khác nhau sao cho cân đối, là quy định thứ bậc quan trọng để tạo nên một ấn tượng nhất định cho người xem. Trong cuốn Những nền tảng của mỹ thuật của Ocvirk cho rằng: Bố cục “là sự cơ cấu hoặc sắp xếp có sáng tạo mọi yêu tố thuộc thị giác phù hợp với những nguyên tắc đưa đến sự phát triển sự thống nhất trong tác phẩm” [18, 42] hay là “toàn bộ cơ cấu hoặc vẻ bề ngoài” [18, 42]. Đối với một bức tranh không thể thiếu đi yếu tố bố cục mà ngược lại bố cục có vai trò vô cùng quan trọng. “Bố cục là phẩm chất đầy đủ của tác phẩm” [18, 94]. Bố cục không đơn thuần chỉ là những sự xê dịch các yếu tố trong bức tranh mà nó ẩn chứa cả những dụng ý nghệ thuật và thông điệp của tác giả nghệ thuật, bố cục thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật ở mức độ cao nhất, một hành vi sáng tạo tuyệt vời. Nói như tác giả Lưu Lê Oanh: “Bố cục là cách tổ chức và những quan hệ qua lại giữa tất cả các yếu tố trong tác phẩm, giúp thể hiện ý đồ sáng tác và có khả năng biểu hiện” [16, 159]. Trên thực tế, đó là lúc mà người nghệ sĩ lượm nhặt những yếu tố ở ngoài thực tế, sáng tạo lại, tổ chức lại theo ý mình và sắp xếp lại theo một trật tự nhất định. Bố cục có một số loại chủ yếu như: các bố cục đối xứng, các bố cục hay khuôn hình lệch tâm, các bố cục dựa trên đường ngang của hình ảnh, các bố cục dựa trên đường dọc của hình ảnh, các bố cục dựa trên đường chéo của hình ảnh,các bố cục tam giác… Mỗi loại bố cục đều chứa đựng một ý nghĩa và dụng ý nhất định. Chẳng hạn như loại bố cục dựa trên đường ngang của hình ảnh là loại bố cục rước ánh mắt ta chạy dài theo hình ảnh một cách rất bình thản, tự tại. Đây là những bố cục tạo ra cảm giác bình lặng, thánh thiện… Hay như bố cục dựa trên đường chéo của hình ảnh gợi lên cảm giác năng động, lên xuống, trùng điệp cho người xem. Bố cục tam giác thí dụ như trong bức tranh Đức Mẹ ở nhà thờ Xicxtin của Raphael: đỉnh của khuôn mặt Đức Mẹ, cạnh đáy là cha Xicxtin và nữ thánh Vacvara gợi lên sự hài hòa cao độ. Tất cả các bố cục được tạo nên đều phụ thuộc vào dụng ý của người họa sỹ. Để hình thành nên một bố cục thống nhất cần phải sử dụng các công cụ và các phương tiện nghệ thuật như: Đường nét, hình dạng, sắc độ, cách sắp xếp, màu sắc và sử dụng những nguyên tắc cơ cấu là sự hài hòa, tính nhiều vẻ, sự cân xứng, tính 12 trội…. Xuất phát từ đó để hình thành không gian, nhằm tạo ra sự thống nhất cho một bố cục hoàn hảo. Bố cục còn được xây dựng qua cách phối cảnh đậm nhạt theo chiều của ánh sáng. Từ đó giúp thể hiện không gian trên mặt phẳng. 1.1.2.2. Màu sắc trong tác phẩm hội họa Màu sắc là cảm giác mang đến cho hệ thần kinh của người từ sự kết hợp tín hiệu của ba loại tế bào cảm thụ màu ở mắt người. Cảm giác này cũng bị ảnh hưởng "dài hạn" từ trí nhớ lưu lại quá trình học hỏi từ khi lớn lên trong xã hội, và "ngắn hạn" bởi các hiệu ứng ánh sáng của phông nền. Màu sắc là một trong nhưng yếu tố được xem trọng một cách phổ quát nhất; nó là yếu tố hấp dẫn tức thời mọi người lớn và cả trẻ con. Cơ sở của mọi màu sắc, đó là ở quy luật của cái sáng và cái tối. Để tạo nên một bức tranh đẹp phải có sự kêt hợp giữa màu sắc và ánh sáng , bóng tối, bởi “Nó cho phép ta phân biệt được khoảng cách, những sự khác nhau về các cảnh , sự giới hạn của các đối tượng; nói tóm lại, nó cho phép ta nêu bật hình dáng cảm quan với tính cách cảm quan. Nó tạo ra cái mà người ta vẫn gọi là sự đắp nặn” [11, 306]. Hơn nữa, màu sắc còn bao hàm sự đối lập giữa cái sáng và cái tối, hai yếu tố này tác động vào nhau hoặc nêu bật nhau hoặc làm cho cả hai yếu dần đi. Chẳng hạn như trong màu lam thì cái tối thống trị và nó chỉ xuất hiện thành màu lam sau khi đã trải qua môi trường sáng hơn, nhưng không phải hoàn toàn trong suốt. Hay như bầu trời, nếu càng nhìn lên cao thì càng tối nhưng khi nhìn qua một môi trường trong suốt, dù hơi đục thì nó là màu lam thậm chí càng lam khi không khí càng ít trong suốt. Theo cảm giác thì màu sắc được chia làm 2 loại: màu nóng và màu lạnh. Còn màu đen và màu trắng thì lĩnh vực hội họa không coi đó thuộc màu sắc. Mỗi màu đều ẩn chứa những ý nghĩa khác nhau “Màu nóng thiên về tươi vui, màu lạnh thường bông và lạnh lẽo” [16, 158]. Ví như “màu lam tiêu biểu cho một cái gì bình lặng, chan chứa ý nghĩ, tràn đầy cảm xúc…”; “màu lục biểu hiện sự bàng quang, trung hòa…” [11, 309]. Sự kết hợp màu thành hệ thống được gọi là hòa sắc. Kỹ thuật hội họa thường hay chú ý tới độ sáng, tối, hài hòa, đậm nhạt. Đối với mỗi tác 13 phẩm hội họa, màu sắc là yếu tố cốt yếu và đặc biệt quan trọng. Theo Đơroacơloa (nhà hội họa Pháp thế kỷ XVIII): “Màu sắc ẩn chứa một sức mạnh lớn lao hơn người ta tưởng”. Muốn thể hiện sự tươi vui hay u buồn cho một bức tranh đều phải dựa trên sự kết hợp màu sắc. Màu sắc trở thành chất liệu không thể thiếu và là ngôn ngữ của hội họa. Có thể thấy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của người họa sỹ đó là vẽ màu, bởi “nhờ việc dùng màu sắc mà làm cho các sự vật dường như có tâm hồn và có sức sống” [11, 304]. Hơn nữa, hội họa còn giúp vào việc thể hiện không gian trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa sáng – tối; gần – xa; lồi – lõm; thanh – thô; đậm – nhạt, dày – mỏng,… 1.1.2.3. Đường nét trong tác phẩm hội họa Đối với một bức tranh thì yếu tố đường nét là một yếu tố không thể thiếu. Đường nét là một yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong một bức tranh. Đường nét không phải là một sự thật cụ thể nhìn thấy ở sự vật, một dấu hiệu tượng trưng giới hạn, tách rời một sự vật với những sự vật xung quanh nó ( đường nét chỉ là giả định). Đường nét là hai yếu tố khác nhau: Đường + nét. Đường vẽ lên lí trí - Nét thuộc về tình cảm. Đường vẽ cố định - Nét vẽ tùy hứng. Đường vẽ diễn tả sự vật – Nét vẽ diễn tả sự vật và cả tâm tư, tình cảm, thái độ, quan điểm của người họa sỹ. Đường vẽ cứng cỏi – Nét vẽ linh động. Đường được xem như một vạch vẽ dài, có thể liên tục hay đứt quãng, cong, ngay hoặc đơn điệ hay thay đổi. Trên một bức vẽ sử dụng nhiều đường thẳng song song, đều đặn dễ tạo cảm giác đơn điệu, khô cứng. Việc sử dụng các đường thẳng vào bức vẽ đều thể hiện một ý nghĩa nhất định: Đường thẳng đứng tượng trưng cho sự sống động; Đường thẳng nằm ngang tượng trưng cho sự chết, sự tĩnh nhưng nó đồng thời cũng biểu lộ cho nghị lực, sự bền bỉ và cương quyết; Đường chéo góc, góc xiên thể hiện những biến cố bất ngờ sức mạnh hay hành động; Đường cong thể hiện sự duyên dáng, bay bổng, sự chuyển động…; Đường gẫy tạo cảm giác về sự tan vỡ, thay đổi, mất mát…Ngoài ra còn đường ngang, đường dọc. Đường ngang gợi cảm giác bình thản, buồn bã biểu lộ sự lâu dài. Trái lại đường dọc gợi cho ta cảm giác sôi nổi và phát sinh ra cảm tưởng trang nghiêm, cao quý. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan