Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong tập thơ “nhật kí trong tù” của hồ chí minh...

Tài liệu Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong tập thơ “nhật kí trong tù” của hồ chí minh

.PDF
43
1768
139

Mô tả:

VẺ ĐẸP CỔ ĐIỂN VÀ TINH THẦN HIỆN ĐẠI TRONG “NHẬT KÍ TRONG TÙ”- HỒ CHÍ MINH A. Phần mở đầu I. Lí do chọn đề tài Trong văn học cổ kim Đông Tây, có lẽ không có nhiều những tác phẩm mà vẻ đẹp độc đáo của nó lại được tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa của những mặt đối lập.Vậy mà người đọc lại bắt gặp vẻ đẹp độc đáo ấy ở tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh- tập thơ của một người tù “đại trí- đại nhân- đại dũng” (Viên Ưng). Đến với “Nhật kí trong tù”- “viên ngọc mà Bác vô tình đánh rơi vào kho tàng văn học Việt Nam”, người đọc bị cuốn hút bởi đây là “một tập thơ phong phú, đa dạng, độc đáo từ nội dung đến hình thức”. Độc đáo và phong phú ở chỗ có nhiều điều tưởng như trái ngược nhau được thống nhất lại và trở nên hài hòa. Chẳng hạn, một tinh thần thép kiên cường lại đi với một chất thơ trữ tình đằm thắm, một thái độ ung dung thi sĩ lại kết hợp với một nhiệt tình sôi nổi, một khí thế “tháo cũi sổ lồng”, một màu sắc cổ điển đậm đà lại chứa đựng tinh thần thời đại. Bút pháp thì hết sức đa dạng và linh hoạt: lãng mạn và hiện thực,tự sự và trữ tình…Nghệ thuật trào lộng thì có đủ sắc thái: đùa vui nhẹ nhàng,tự trào hóm hỉnh, mỉa mai chua chát, châm biếm sắc sảo, đả kích quyết liệt…” (Sgk Ngữ Văn 11 nâng cao, tập 2, tr.72). Quả thực, “Nhật kí trong tù” là một hiện tượng văn học hết sức đặc biệt. Đặc biệt không chỉ ở hoàn cảnh sáng tác (Hồ Chí Minh viết tập thơ khi ở trong tù), ở mục đích sáng tác (chỉ nhằm “ngâm ngợi cho khuây” chứ không định làm nghệ thuật đích thực; chỉ định viết “nhật kí” ghi lại những tâm tư tình cảm của mình trong khi “đợi đến ngày tự do” chứ không định phổ biến cho người khác). Song có lẽ điều đặc biệt nhất nằm ở tính chất của tập thơ. Đọc “Nhật kí trong tù”, ta có cảm giác như nghe được “tiếng nghìn xưa, tiếng của mai sau” (Tố Hữu), tưởng như đang đọc thơ Đường, thơ Tống xa xưa thuở nào, nhưng lại thấy ngay: “Thơ Bác rất Đường mà lại không Đường một tí nào” (Hoàng Trung Thông). Nói cách khác, sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại chính là một đặc điểm quan trọng, góp phần làm nên bản sắc, vẻ đẹp độc đáo và sức cuốn hút của tập thơ, đưa tập thơ trở thành “viên ngọc quý” trong văn học dân tộc. Trong chương trình Ngữ văn THCS và THPT, thơ Bác nói chung và “Nhật kí trong tù” nói riêng, “chiếm một địa vị danh dự”. Ở cấp THCS, HS được học khá nhiều thơ trữ tình của Bác, như các bài: “Cảnh khuya”, “Rằm tháng giêng” (lớp 7); “Tức cảnh Pác Bó”, “Ngắm trăng”, “Đi đường” (lớp 8). Đặc biệt, ở bậc THPT chương trình nâng cao lớp 11, “Nhật kí trong tù” được phân phối thời lượng đáng kể, gồm: một bài khái quát về tập thơ, hai bài đọc 1 hiểu: “Chiều tối”, “Lai Tân” và một bài đọc thêm: “Giải đi sớm”. Trong đó, đặc điểm “màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại” được người soạn sách giáo khoa nhấn mạnh ở cả bài khái quát và ở hệ thống câu hỏi sau bài “Chiều tối”. Lên lớp 12, HS được học bài khái quát về phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh, đặc điểm này cũng được nhấn mạnh trong phần bàn về thơ nghệ thuật của Người. Rõ ràng, nhìn vào số lượng thơ Hồ Chí Minh được học trong chương trình THCS và THPT, cùng với đó là hai bài khái quát về phong cách tác giả và phong cách tập thơ, ta thấy rõ tính chất quan trọng của việc tìm hiểu về thơ Người. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại trong “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh”, hi vọng sẽ giúp giáo viên và học sinh có thêm một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình dạy và học Ngữ văn ở bậc THPT. Đặc biệt, chuyên đề góp phần giúp học sinh hiểu sâu hơn về đặc điểm tập thơ và phong cách nghệ thuật của Người qua những bài tập cụ thể, gắn với những tác phẩm được học ở chương trình THCS và THPT. II. Mục đích của đề tài Giúp người đọc có được cái nhìn khái quát, toàn diện về vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại của tập thơ “Nhật kí trong tù”. Gắn vấn đề nghiên cứu trên với các dạng bài tập ôn luyện cụ thể của học sinh. B. Nội dung I. Vẻ đẹp cổ điển trong “Nhật kí trong tù” 1. Vẻ đẹp cổ điển Trước hết, ta cần hiểu ý nghĩa của từ “cổ điển”. Có hai cách hiểu. Thứ nhất, từ “cổ điển” chỉ những tác phẩm văn học đã được thử thách qua thời gian, mang giá trị, vẻ đẹp mẫu mực, được cả thế giới công nhận, tôn vinh là kiệt tác, tác phẩm kinh điển. Ví dụ: “Thần thoại Hi Lạp” được đánh giá là bộ sách đạt tới giá trị cổ điển trong kho tàng thần thoại thế giới. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là tác phẩm văn học cổ điển thuộc giai đoạn văn học cổ điển ở nước ta. (Giai đoạn văn học cổ điển ở Việt Nam được hiểu theo ý nghĩa: Đó là giai đoạn văn học vừa phát triển bề rộng, vừa phát triển bề sâu và xuất hiện nhiều đỉnh cao nghệ thuật). Hiểu theo cách thứ nhất, từ “cổ điển” thiên về đánh giá giá trị, ý nghĩa, vẻ đẹp của những tác phẩm xuất sắc, những nhà văn, nhà thơ xuất sắc, giai đoạn văn học xuất sắc. VD: “Tràng giang” hầu như đã thành cổ điển của một nhà thơ mới” (Xuân Diệu). Thứ hai, từ “cổ điển” chỉ một lối viết, một cách thể hiện nào đó đã quen thuộc, ổn định, trở thành truyền thống văn học.Ví dụ: Lối thơ gợi chứ ít tả, cốt 2 nắm lấy thần thái của đối tượng hầu như đã trở thành cổ điển trong nghệ thuật sáng tác thơ ca trung đại ở Trung Quốc và Việt Nam. Hiểu theo cách thứ hai, từ “cổ điển” nghiêng về khía cạnh thuyết minh cho tính ổn định, bền vững, quen thuộc của một tác phẩm văn học - xét trong môi trường văn hóa, văn học nào đó gần gũi với tác phẩm. Nói “Nhật kí trong tù” mang màu sắc cổ điển chính là ở phương diện thứ hai này. Một tác phẩm văn học mang màu sắc cổ điển là một tác phẩm thuộc thời hiện đại nhưng lại mang những đặc điểm, yếu tố (nội dung và hình thức) gợi nhớ tới văn học cổ, văn học quá khứ. Nói đến vẻ đẹp cổ điển trong “Nhật kí trong tù” tức là nói đến những đặc điểm nội dung, cách thể hiện, lối viết của tác phẩm mang dấu ấn quen thuộc của thơ ca cổ điển (như thơ Đường, thơ Tống ở Trung Quốc, thơ trung đại ở Việt Nam). Nhưng quan trọng hơn, sự gần gũi quen thuộc ấy không phải là sự bắt chước, mô phỏng mà là sự sáng tạo xuất sắc đem lại cho tác phẩm vẻ đẹp riêng, thỏa mãn mỹ cảm của người đọc. Với cách hiểu như vậy, khi nghiên cứu “Nhật kí trong tù”, chúng ta có thể thấy vẻ đẹp cổ điển xuất hiện trong những khía cạnh sau: 2. Biểu hiện của vẻ đẹp cổ điển trong “Nhật kí trong tù” 2.1. Thi đề (đề tài) Trong bài “Nay ở trong thơ nên có thép” - cảm tưởng sau khi đọc tập thơ “ Nhật ký trong tù”, nhà thơ Trung Quốc Quách Mạt Nhược đã viết : “Một trăm bài thơ hầu hết bài nào cũng đều toát ra hết sức sinh động hình ảnh một nhà cách mạng lão thành, thanh thoát, tài trí, ung dung, giản dị, kiên cường- ấy là đồng chí Hồ Chí Minh. Thật là “thi như kỳ nhân”- thơ như người vậy... Có một số bài rất hay, nếu đặt lẫn vào một tập của các thi nhân Đường, Tống thì cũng khó phân biệt”. Quả thực, dấu ấn Đường thi, Tống thi xuất hiện khá rõ trong “ Nhật ký trong tù”. Điều này có thể thấy ngay ở đề tài thơ (thi đề). Đề tài khá phổ biến trong “Nhật ký trong tù” là thiên nhiên. Người đọc dễ dàng bắt gặp những vần thơ tả cảnh buổi sớm (Tảo,Tảo giải), buổi trưa (Ngọ), xế chiều (Vãn, Mộ, Hoàng hôn,Vãn cảnh…), đêm tối (Dạ lãnh, Thu dạ ), cảnh trăng (Vọng nguyệt, Trung thu), mây (Mộ; Tân xuất ngục, học đăng sơn), cảnh trên đường chuyển lao (Tẩu lộ, Lộ thượng, Bán lộ tháp thuyền phó Ung…), cảnh ngoài đồng (Dã cảnh)… Không chỉ tả cảnh thiên nhiên theo mùa, theo tiết (Tiết thanh minh…), những hình tượng thiên nhiên quen thuộc của thơ xưa (như trăng, hoa, núi sông…) cũng thường xuyên xuất hiện. Đúng như Hồ Chí Minh đã nhận xét : “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp Mây, gió, trăng, hoa , tuyết, núi, sông” (“Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”) Thơ Bác cũng dành cho thiên nhiên, mây, núi… “một địa vị danh dự” (Đặng Thai Mai). Càng bị tù đày, giam cầm khắc nghiệt, Người càng khao khát tự do, càng thêm trân trọng, yêu mến mỗi hình ảnh thiên nhiên mà Người tình 3 cờ bắt gặp trên đường chuyển lao hay trong nhà tù tăm tối. Thiên nhiên với Người là bầu bạn, là tri kỷ tri âm : “Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.” ( “Ngắm trăng” ) Thiên nhiên cũng là nguồn cảm hứng vô tận, tiếp thêm sức mạnh và niềm vui sống cho người tù Hồ Chí Minh trong những tháng ngày cơ cực : “Mặc dù bị trói chân tay Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng Vui say, ai cấm ta đừng Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu.” (“Trên đường đi”) Tình yêu của Người dành cho thiên nhiên gợi ta nhớ đến tình yêu của các thi nhân xưa với “ người bạn muôn đời, muôn thuở” này. Chẳng phải thơ của các thi sĩ đời Đường, đời Tống nào cũng đầy ắp thiên nhiên đó sao ? Chẳng phải đã từng tồn tại nhóm thơ “điền viên sơn thủy” đó sao ? Chẳng phải thi nhân xưa ai cũng say mê thiên nhiên như Nguyễn Trãi thuở nào tự nhận: “Non nước cùng ta đã có duyên” …đó sao? Bên cạnh đề tài thiên nhiên, “Nhật ký trong tù” còn xuất hiện một số bài thơ viết về đề tài tình bạn (Nhớ bạn, Viết hộ báo cáo cho các bạn trong tù …) Đây cũng là đề tài truyền thống trong thơ cổ điển. Tóm lại, cũng như truyền thống của thơ ca cổ điển phương Đông thường lấy cảm hứng từ thiên nhiên, tình bạn, đề tài quen thuộc của thơ Hồ Chí Minh là thiên nhiên, bạn bè, từ “giai thi, mĩ cảnh, thắng sự, lương bằng”. Màu sắc cổ điển của “ Nhật ký trong tù” bàng bạc trong những vần thơ thiên thiên và bạn hữu như thế. 2.2.Thi tứ ( Tứ thơ ) Bên cạnh thi đề, thi tứ cũng là một trong những yếu tố góp phần tạo nên màu sắc cổ điển cho “Nhật ký trong tù”. Trong thơ cổ điển, thường xuất hiện những tứ thơ như : đăng cao viễn vọng, đăng sơn ức hữu (lên cao nhìn xa, lên núi nhớ bạn), chiều hôm nhớ nhà, nỗi buồn lữ thứ tha hương, tức cảnh sinh tình… Đọc “Nhật ký trong tù”, người đọc có thể thấy nỗi buồn lữ thứ tha hương, nỗi nhớ bạn, nhớ quê thấm vào rất nhiều những vần thơ tha thiết: “Trăng thu vành vạnh mảnh gương thu Sáng khắp nhân gian bạc một màu Sum họp nhà ai ăn tết đó Chẳng quên trong ngục kẻ ăn sầu.” (“Trung thu I” ) “Ngày đi, bạn tiễn đến bên sông 4 Hẹn bàn về khi lúa đỏ đồng Nay gặt đã xong, cày đã khắp Quê người, tôi vẫn chốn lao lung !” (“Nhớ bạn” ) Cái tứ nhìn sự vật cũ, nhớ bạn xưa, nhớ quê xưa chẳng phải đã từng xuất hiện trong thơ của những thi sĩ đời Đường như Đỗ Phủ đó sao : “ Đầu tường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương” (“Tĩnh dạ tứ” ) hay: “ Khóm cúc tuôn thêm dòng lê cũ Con thuyền buộc chuột mối tình nhà” (“Thu hứng”) Nỗi buồn vời vợi của những “chiều hôm nhớ nhà” trong thơ Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan dường như cũng bảng lảng đâu đây trong những vần thơ “ Chiều tối”- dù cả bài thơ không một chữ “sầu”. “ Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.” hay : “Gió rét tựa gươm mài đá núi Rét như dùi nhọn chích cành cây Chùa xa, chuông giục người nhanh bước Trẻ dắt trâu về, tiếng sáo bay” (“Hoàng hôn” ) Đặc biệt, “đăng cao/ đăng sơn” đã trở thành tứ thơ truyền thống trong thơ cổ điển. Thi nhân xưa “ đăng cao” để nhìn xa trông rộng, để suy tư chiêm nghiệm về lẽ sống, về sự trôi chảy của thời gian, đời người, được – mất, hữu hạn – vô hạn, bất biến – khả biến,…Như Đỗ Phủ với “ Đăng cao”, hay Trần Tử Ngang với bài thơ nổi tiếng : “ Ai người trước đã qua Ai người sau chưa tới? Ngẫm trời đất vô cùng Ngậm ngùi rơi giọt lệ.” Trong “ Nhật ký trong tù”, cái tứ “ đăng cao viễn vọng”, “đăng sơn ức hữu” quen thuộc của thơ cổ điển đã xuất hiện trong một số bài thơ. Đó là bài “ Đi đường”: “ Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” Núi cao lên đến tận cùng 5 Thu vào tầm mắt muôn trùng núi non.” “Đi đường” mà thực chất là “đăng cao” để thấm thía nỗi “gian lao” của đường đời, của kiếp người; “đăng cao” để được “viễn vọng”: “Thu vào tầm mắt muôn trùng núi non”, để cảm nhận cảm giác vui sướng của con người khi chinh phục được những khó khăn thử thách…Tứ thơ “đăng sơn ức hữu” còn xuất hiện trong bài thơ cuối cùng của tập: “ Núi ấp ôm mây, mây ấp núi Lòng sông gương sáng, bụi không mờ Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.” (“Mới ra tù, tập leo núi”) Hình tượng nhân vật trữ tình đứng một mình trên đỉnh Tây Phong Lĩnh, mắt đăm đăm dõi về trời Nam “nhớ bạn xưa” (“ức cố nhân” ) khiến ta không khỏi không liên tưởng đến bài thơ của “thi tiên” Lý Bạch : “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”. Dẫu một bên là “đăng sơn”, một bên là “đăng lâu”, song cả hai bài thơ đều gặp nhau ở tâm trạng “ức hữu”, đều chung một tâm trạng tha thiết khi gọi bạn bằng hai tiếng: “cố nhân”! Vẫn biết: “ý là của chung mọi người, tứ là của riêng thi sĩ” (Xuân Diệu), song quả thực, “Nhật ký trong tù” vẫn có một số tứ thơ gợi ta liên tưởng đến thơ cổ điển. Dẫu sự liên hệ này không hiển hiện trên bề mặt mà ở bề sâu, không phải dễ thấy mà vô cùng thầm kín sâu xa, song ta vẫn phải công nhận rằng chính sợi dây liên hệ ấy đã góp phần tạo nên màu sắc cổ điển bàng bạc thấm vào từng thi phẩm. 2.3. Thi liệu (Chất liệu thơ) Thơ cổ điển nói riêng, văn học cổ điển nói chung, thường mang tính ước lệ, tính sùng cổ. Người xưa coi những chất liệu thơ văn cổ là “khuôn vàng thước ngọc” để bắt chước, học tập, sáng tác. Chính vì vậy, bước vào thế giới thơ cổ điển, ta thường gặp những hình tượng thiên nhiên quen thuộc như trăng hoa, mây gió, chim chóc, cỏ cây….; những cách nói quen thuộc như : tả mùa thu báo hiệu bằng “ngô đồng nhất diệp lạc”; tả người đẹp thì phải là “mặt phượng mày ngài”, “hoa nhường nguyệt thẹn”, tả tráng sĩ thì hiếm khi không nói tới “thanh gươm yên ngựa”, “dưới nguyệt mài gươm”; nói về khí tiết người quân tử thì không thể không liên hệ tới “tùng, cúc, trúc, mai”… Nói cách khác, đọc thơ cổ điển là bước vào một thế giới đã được “mã hóa” bằng những biểu tượng, những ký hiệu quen thuộc…, đòi hỏi người đọc phải có vốn văn hóa, trình độ nhất định mới có thể “giải mã” được. Là một người thông thạo Hán học và am hiểu khá sâu sắc về nghệ thuật thơ Đường, Hồ Chí Minh không thể không chịu ảnh hưởng ít nhiều từ các sáng tác trước đó của thơ ca cổ điển. Điều này in dấu vết trong một số bài thơ tả cảnh, vịnh vật…trong “Nhật ký trong tù”. Màu sắc cổ điển trong “Chiều tối” gợi lên ngay từ nhan đề trong những hình ảnh thơ quen thuộc : 6 “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” (“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không”) Thơ viết về chiều tối từng đã đi về biết bao hình ảnh “cánh chim” và “chòm mây” như thế. Nào là : “ Chim bầy vút bay hết Mây lẻ đi một mình.” (“ Chúng điểu cao phi tận Cô vân độc khứ nhàn”) ( Lý Bạch ) Nào là : “ Chim hôm thoi thót về rừng” ( Nguyễn Du ) Nào là : “ Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” ( Bà Huyện Thanh Quan ) v.v… Quả thực, đi giữa miền thơ, ta đã quen lắm với cảnh chiều tối ở một khung trời miền viễn nào đó, chợt xuất hiện cánh chim lẻ loi, mỏi mệt, xui khiến lữ khách tha hương nhớ tới cảnh ngộ cô độc của mình, từ đó càng thêm thấm thía sự xa xăm phiêu bạt của kiếp người. Thi nhân xưa thường đặt hình ảnh cánh chim trong tương quan với “bầu trời, đám mây, ngọn gió”. Đặt trong tương quan bầu trời để cảm nhận sự đối lập giữa cái hữu hạn (cánh chim) với cái vô hạn (bầu trời ), đặt trong tương quan với đám mây để gợi cảm giác chia ly, đặt trong tương quan với ngọn gió để cảm nhận cái vất vả, khó khăn của cánh chim chiều vội vã… Cũng như thơ xưa, hình tượng quen thuộc nhất trong thơ Bác là trăng. Có lẽ tâm hồn Á Đông phù hợp với vẻ đẹp trong sáng hiền hòa, với cái duyên mặn nhưng kín đáo của chị Hằng chăng? Dường như không có nhà thơ nào thời trước không từng có thơ về vầng trăng. Trăng trong thơ Lý Bạch, Trương Kế, Bạch Cư Dị, trăng trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà,… “Thơ Bác Hồ cũng đầy trăng” (Nguyễn Đăng Mạnh). Có vầng trăng thân mật “nhòm khe cửa” trong “Vọng nguyệt”, có vầng trăng buốt giá trong “Đêm lạnh” khiến người tù “gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an”, lại có vầng trăng “trung thu” “vành vạnh” “sáng khắp nhân gian bạc một màu” càng “gợi vẻ sầu” cho người tù nơi đất khách quê người… Tình yêu của Người với trăng phảng phất tình yêu của thi nhân xưa. Nếu Nguyễn Trãi coi trăng là anh em bạn hữu: “Mây khách khứa, nguyệt anh tam” thì Hồ Chí Minh coi trăng là tri kỷ “khó hững hờ”. Nếu Nguyễn Trãi: “Có thuở viếng thăm bạn cũ / Lòng theo vời vợi nguyệt năm canh” thì Hồ Chí Minh: “Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt” nhưng vẫn “Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu”…Dường như giữa hai nhà thơ 7 ấy đều có chung một tình yêu dành cho thiên nhiên, cho vầng trăng – dù họ không ở cùng thời đại! Không chỉ sử dụng chất liệu của thơ cổ điển trong những hình ảnh quen thuộc (như trăng, hoa, mây, núi, chim), Hồ Chí Minh còn vận dụng những điển cố, điển tích của văn học cổ điển (như Quan Vũ, Trương Phi)… để bày tỏ ý chí, tấm lòng của mình với đất nước: “Cành lá khéo in hình Dực Đức Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công” (“Tức cảnh”) Tính chất cổ điển của thi liệu trong “Nhật ký trong tù” thường thoáng qua, không dễ thấy, song cũng có lúc, thi liệu ấy được Bác sử dụng nguyên vẹn, đậm nét. Ví như ở bài “Tiết thanh minh”, Bác sáng tác dựa hẳn theo một bài thơ nổi tiếng thời Đường: “Thanh minh lất phất mưa phùn Tù nhân nghe thấm nỗi buồn xót xa Tự do, thử hỏi đâu là? Lính canh trỏ lối thẳng ra công đường” (“Thanh minh thời tiết vũ phân phân Lung lý tù nhân dục đoạn hồn Tá vấn tự do hà xứ hữu? Vệ binh dao chỉ biện công môn”) Bài thơ “Thanh minh” của Hồ Chí Minh và bài thơ “Thanh minh” của Đỗ Mục giống nhau cả nhan đề, cả hình ảnh thơ, cả cách cấu tứ vấn đáp. Đỗ Mục viết: “Thanh minh thời tiết vũ phân phân Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn Tá vấn tửu gia hà xứ hữu Mục đồng giao chỉ Hạnh Hoa thôn” Ngoại cảnh giống nhau, nhưng tâm cảnh thì khác. “Hành nhân” trong thơ Đỗ Mục muốn tìm nơi bán rượu để sưởi ấm người trong tiết trời lạnh giá, còn “tù nhân” họ Hồ lại hỏi tự do, khao khát cháy bỏng cuộc sống tự do. Rõ ràng, chất liệu thơ quen thuộc, cổ điển song xúc cảm thơ, tinh thần thơ thì rất hiện đại. Cũng có khi sự gần gũi về chất liệu giữa “Nhật ký trong tù” với thơ Đường, thơ Tống lại nói lên sự đồng điệu về mặt tâm hồn của các nhân cách văn hóa lớn. Trước hiện thực xa cách của đôi tình nhân, thơ Đường viết: “Quân tại Tương Giang đầu Thiếp tại Tương Giang vĩ Tương tư bất tương kiến Đồng ẩm Tương Giang thủy” (Dịch nghĩa: “Chàng ở đầu sông Tương Thiếp ở cuối sông Tương Nhớ nhau mà chẳng thấy nhau 8 Mặc dù hai người cùng uống nước sông Tương”) Đến “Nhật kí trong tù”, tình cảnh của “vợ người bạn tù đến thăm chồng” được Bác miêu tả: “Quân tại thiết song lí Thiếp tại thiết song tiền Tương cận tại chỉ xích Tương cách tự thiên uyên Khẩu bất năng khuyết đích Chỉ lại nhãn truyền ngôn Vị ngôn lệ dĩ mãn Tình cảnh chân khả liên!” (Dịch thơ: “Anh ở trong cửa sắt, Em ở ngoài cửa sắt, Gần nhau trong tấc gang Mà cách nhau trời vực Miệng nói chẳng nên lời, Chỉ còn nhờ khóe mắt Chưa nói lệ tuôn đầy, Cảnh tình đáng thương thật!”) Giá trị nhân bản của hai bài thơ trên là sự cảm thông với hoàn cảnh bị chia cách của những người yêu nhau. Sự khác nhau nằm ở chỗ: bài thơ đời Đường không nói đến nguyên nhân của sự chia cách, còn thơ Bác nói rõ nguyên nhân đó qua hình ảnh cánh cửa sắt nhà lao. Đó chính là lời tố cáo nhỏ nhẹ mà sâu sắc sự vô nhân đạo của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. Thơ Bác mang ý vị cổ điển trong đề tài, chất liệu, song ngẫm kỹ thì lại hiện đại là như vậy. 2.4. Ngôn ngữ và thể loại Có lẽ, màu sắc cổ điển trong “Nhật ký trong tù” dễ thấy nhất là ở ngôn ngữ. Tập thơ được Bác sáng tác bằng chữ Hán. Chọn một ngôn ngữ mang tính chất tượng hình, vốn chỉ dành cho những tri thức Hán học uyên thâm, Bác đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển cho tác phẩm. Mặt khác, chữ Hán thường biểu đạt được nhiều tầng ý nghĩa sâu xa, nên người đọc khi tiếp xúc với mỗi trang thơ “Nhật kí trong tù” lại được thỏa mãn mỹ cảm khi “ngôn tận, ý bất tận” (“lời đã hết, ý khôn cùng”), “ý đáo nhi bút bất đáo” (“ý đến mà bút không đến”), “ý tại ngôn ngoại” (“ý ở ngoài lời”). Đây cũng là một rào cản khi dịch thơ Bác. Bởi lẽ, nếu “Thơ là cô đúc. Thơ đòi hỏi cô đúc để rồi trong một lúc nổ ra như tiếng sét” (Chế Lan Viên) thì tính chất cô đúc bộc lộ càng rõ hơn hết trong một số bài thơ nghệ thuật của Người. Do vậy, người dịch không khỏi không có lúc làm mất mát ý thơ, lộ ý thơ. Ví dụ: Trong “Chiều tối”, Người không cần dùng đến một chữ “tối” mà người đọc vẫn hiểu là trời đã tối hẳn- do ánh sáng từ lò than hồng hắt lên. Dịch thêm một chữ “tối” là thừa. 9 Bên cạnh đó, thể loại cũng góp phần tạo nên màu sắc cổ điển cho tập thơ. “Nhật ký trong tù” gồm 134 bài thơ, tất cả đều được sáng tác theo thể thơ Đường luật, gồm thể thơ thất ngôn hoặc ngũ ngôn, tứ tuyệt hoặc bát cú và thơ cổ phong. Trong 134 bài, có 126 bài đều là thơ tứ tuyệt. Do đó, có thể xem đây là tập thơ tứ tuyệt của Hồ Chí Minh. Thơ tứ tuyệt có đặc điểm ngắn gọn, hàm súc (chỉ 20 chữ - với ngũ ngôn tứ tuyệt; hoặc 28 chữ - với thất ngôn tứ tuyệt), do đó, nó đòi hỏi người làm thơ phải biết “nén” tới mức tối đa thông tin, ý nghĩa biểu đạt trong một số chữ tối thiểu. Người xưa gọi đó là những “chữ đúc”, không phải là “chữ nước” như thơ hiện đại. Và để phù hợp với khuôn khổ chật hẹp của thơ tứ tuyệt, người làm thơ thường hay tạo dựng mối quan hệ giữa các câu thơ, khả dĩ có thể mở rộng trường liên tưởng cho người đọc. Thơ tứ tuyệt Đường luật được gọi là thơ của các mối quan hệ: khả biến - bất biến, động - tĩnh, được - mất, vinh - nhục, vô hạn - hữu hạn, xưa - nay, tiên - tục, không gian - thời gian, xa - gần, không - có, ngoại cảnh - tâm cảnh… là vì thế. Màu sắc cổ điển trong “Nhật ký trong tù” cũng được tạo nên nhờ thể thơ tứ tuyệt với những đặc điểm đó. Ta có thể bắt gặp những mối quan hệ (hoặc tương đồng, hoặc đối lập) trong một số bài thơ tứ tuyệt của “Nhật ký trong tù”, như: “Túc Vinh mà để ta mang nhục” (“Bị bắt ở phố Túc Vinh”) Hay: “Tự do tiên khách trên trời Biết chăng trong ngục có người khách tiên?” (“Quá trưa”) “Núi cao gặp hổ mà vô sự Đường phẳng gặp người, bị tống lao” (“Đường đời khó khăn”) hoặc: “Hoa hồng nở, hoa hồng rụng Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình Hương hoa bay thấu vào trong ngục Kể với tù nhân nỗi bất bình” (Cảnh chiều tối) hay: “Núi ấp ôm mây, mây ấp núi Lòng sông gương sáng, bụi không mờ” (“Mới ra tù, tập leo núi”) Các cặp quan hệ tương đồng hoặc đối lập trong những bài thơ, câu thơ trên đã tạo cho thơ tứ tuyệt trong “Nhật ký trong tù” mang vẻ đẹp sâu sắc, thâm trầm. Chính vì thế, có nhà nghiên cứu về thơ Bác đã cảm nhận: “Thơ Bác giản dị, tự nhiên mà lại hết sức sâu sắc. Đó là thơ của người lấy việc hành đạo cứu đời làm mục đích. Nó không phải là thứ nghệ thuật được gọt tỉa công phu theo 10 kiểu “bồn hoa chậu cảnh”. Nó mang vẻ đẹp của “đồng xanh nghìn mẫu, nước bạc muôn trùng”. Một vẻ đẹp hết sức cổ điển mà hiện đại. 2.5. Hình tượng Màu sắc cổ điển trong thơ Bác còn thể hiện ở phong thái ung dung, tự tại của nhân vật trữ tình. Người xưa quan niệm: thời gian tuần hoàn, con người và trời đất là một (“thiên – nhân tương dữ”, “vạn vật nhất thể”), do đó, họ ít có cảm giác lo âu trước sự trôi chảy của thời gian. Với họ: “Chín mươi thì kể xuân đã muộn Xuân ấy qua thì xuân khác còn”. (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Họ luôn an nhiên tự tại trước mọi lẽ biến thiên của trời đất. Nhà thơ cổ điển do vậy, thường có tâm thế “nhàn”, thú “nhàn”: “Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn, dù ai vui thú nào” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Họ thích sống ẩn dật, vui thú điền viên, sống hòa hợp với tự nhiên, thuận theo lẽ tự nhiên: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Thiên nhiên và nhà thơ cổ điển hòa hợp đến lạ kỳ, như người trong một nhà: “Núi láng giêng, chim bầu bạn Mây khách khứa, nguyệt anh tam” (Nguyễn Trãi) Nhà thơ cổ điển giống như “một tiên ông” giữa phong cảnh thiên nhiên kỳ thú: “Nước biếc non xanh, thuyền gối bãi Đêm thanh, nguyệt bạc, khách lên lầu” (Nguyễn Trãi) Đọc “Nhật ký trong tù”, ta sẽ cảm nhận được màu sắc cổ điển trong hình ảnh nhân vật trữ tình. Là tù nhân, bị đày ải vô cùng khắc nghiệt, khổ sở, “sống khác loài người”, song ở một số bài thơ, ta vẫn gặp một cái tôi trữ tình mang phong thái ung dung tự tại, “giống như cái phong độ của Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm ở am Bạch Vân vậy” (Nguyễn Đăng Mạnh). Hình ảnh: “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” (“Ngắm trăng”) gợi nhớ nhã thú của thi nhân xưa: “Khi chén rượu, khi cuộc cờ / Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”. 11 Nếu không có hai câu thơ trước đó tả cảnh tù đày thiếu thốn thì người đọc có lẽ đã nhầm tưởng đây là buổi ngắm trăng của một tao nhân mặc khách nào! Rõ ràng, không còn khoảng cách giữa người tù và vầng trăng, chỉ còn thấy một nghệ sĩ với tâm hồn tha thiết yêu thiên nhiên, chan hòa, say đắm với thiên nhiên! Chính tâm hồn nghệ sĩ ấy đã tạo nên “một cuộc vượt ngục tinh thần” đẹp đẽ, tạo nên một sự chuyển biến kỳ diệu: Tù nhân hóa thi nhân, tù nhân hóa tao nhân với phong thái ung dung thưởng trăng của một nhà hiền triết phương Đông thuở nào… Phong thái ung dung tự tại, tâm hồn hòa hợp với thiên nhiên, mang đậm phong vị cổ điển của nhân vật trữ tình trong “Nhật ký trong tù” còn được bộc lộ qua nhiều bài thơ khác như: “Trên đường đi”, “Đi Nam Ninh”, “Tân xuất ngục, học đăng sơn”… 2.6. Bút pháp “Nhật ký trong tù” có màu sắc cổ điển không chỉ ở thi đề, thi tứ, thi liệu, ngôn ngữ, thể loại, hình tượng thơ mà còn ở bút pháp và các thủ pháp nghệ thuật được Bác sử dụng. Thơ cổ điển không chú trọng miêu tả hình xác mà cốt nắm lấy cái thần thái tinh vi của tạo vật. Nhà thơ cổ điển chỉ chấm phá đôi nét mà làm sống dậy cả linh hồn của đối tượng. Thơ Bác cũng vậy. Cảnh thiên nhiên trong “Nhật ký trong tù” không rườm rà chi tiết mà được chấm phá bằng vài nét đơn sơ, bỏ nhiều khoảng trống để gợi lên cái mênh mông, bát ngát của đất trời: “Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (“Đi đường”) Cảnh thiên nhiên thường được nhìn từ xa, từ cao, nhà thơ “tăng cao” để bao quát toàn cảnh “cao sơn lưu thủy”: “Núi ấp ôm mây, mây ấp núi Lòng sông gương sáng, bụi không mờ” (“Mới ra tù, tập leo núi”) Bút pháp “tả cảnh ngụ tình” của thơ cổ điển thường được Bác sử dụng để kín đáo bày tỏ tâm trạng trước thiên nhiên: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” (“Chiều tối”) Dường như giữa cánh chim mỏi mệt đang “tìm chốn ngủ”, chòm mây lẻ loi, cô dơn đang chầm chậm trôi “giữa tầng không” kia và người tù có một sợi dây liên hệ. Ấy là ngoại cảnh và cũng là tâm cảnh. Là cái mỏi mệt của cánh chim hay cũng là nỗi mệt nhọc của người tù sau một chặng đường chuyển lao: “Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giầy”? Là trạng thái lẻ loi của áng mây chiều hay cũng là nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù nơi đất 12 khách? Cảnh được chấm phá bằng hai nét vẽ đơn sơ mà dường như nói trọn lòng người. Nỗi buồn của cảnh cũng đồng điệu với nỗi buồn của lòng người. Quả là: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ ?” (Nguyễn Du) Bút pháp “tả cảnh ngụ tình” còn được Bác vận dụng rất đắc địa trong nhiều bài thơ khác như: “Buổi sớm”, “Trung thu”, “Đêm lạnh”, “Mới ra tù, tập leo núi”… Ngoài bút pháp “tả cảnh ngụ tình”, Hồ Chí Minh còn sử dụng một số thủ pháp quen thuộc của thơ ca cổ điển, như: thủ pháp lấy động tả tĩnh, lấy ánh sáng gợi bóng tối, “họa vân hiển nguyệt” (vẽ mây nảy trăng), điểm nhãn…Trong bài thơ “Chiều tối” (Mộ), nhà thơ không cần dùng đến một chữ “tối” mà người đọc vẫn nhận ra bóng tối buông dần nơi xóm núi. Đó là nhờ ánh sáng hắt ra từ lò than đã đỏ (“lô dĩ hồng”). Thủ pháp đối lập, chơi chữ cũng thường được Bác sử dụng trong một số câu thơ, bài thơ: “Quế Lâm không quế, không rừng” (“Đến Quế Lâm”) “Trong lao tù cũ đón tù mới Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa Tạnh mưa, mây nổi bay đi hết Còn lại trong tù khách tự do” (“Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây”) Thủ pháp “điểm nhãn” được xem là đặc trưng của thơ cổ điển. Cũng như con rồng trở nên sống động là nhờ người họa sĩ điểm thêm đôi mắt, một bài thơ hay không thể thiếu “nhãn tự”, “thi nhãn”. Nhà thơ cổ điển chú trọng sáng tạo ra những “mắt thơ” như thế để mong có được những bài thơ sống động, xuất thần. Hồ Chí Minh không chú trọng chuyện “đúc chữ, luyện câu” đến mức “ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu” như người xưa, nhưng với tài năng của mình, Người vẫn sáng tạo được những “nhãn tự” trong một số bài thơ. Ấy là một chữ “hồng” đặt cuối bài thơ “Mộ”. “Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu thơ đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là “con mắt của thơ” (thi nhãn) hoặc là “nhãn tự” (chữ mắt), nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa” (Hoàng Trung Thông). Ấy còn là hai chữ “thái bình” trong bài thơ châm biếm nổi tiếng “Lai Tân”. “Chỉ một chữ “thái bình” mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm thối nát vốn là chuyện muôn thuở của xã hội Trung Quốc còn giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự “thái bình” dối trá nhưng thực sự là “đại loạn” bên trong” (Hoàng Trung Thông). “Dưới gầm trời thái bình của Lai Tân, cảnh tượng thu hẹp của giang sơn nhà họ Tưởng!” (Đặng Thai Mai). Cũng theo 13 Hoàng Trung Thông, với câu thơ cuối, “nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là “cảnh cú”- “một câu thơ nó kêu lên, nó rung chuyển những câu thơ khác, bài thơ vốn phẳng lặng bỗng ngân vang, bỗng giục giã, bỗng gây ra những xúc động đặc biệt!”. Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã vận dụng rất thành công nghệ thuật gieo “nhãn tự” của thơ cổ điển để tạo nên sức nặng cho bài thơ. Một trong những bút pháp quen thuộc của thơ cổ điển là bút pháp tượng trưng. Ta bắt gặp bút pháp này trong một số bài thơ của Bác (Nghe gà gáy, Cột cây số, Rụng mất một cái răng, Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy, Nghe tiếng giã gạo…) Ở những bài thơ này, Hồ Chí Minh vịnh các sự vật, hiện tượng trong “tính chất song quan”: “vật mà người, người mà vật”, “phú mà tỉ, tỉ mà phú”. Nghĩa là ngoài lớp tả thực, người đọc còn có thể “đọc” các hình tượng: cột cây số, chiếc răng, chiếc gậy, tiếng gà…theo ý nghĩa tượng trưng (tượng trưng cho cuộc Cách mạng Việt Nam…) Chẳng phải các nhà thơ cổ điển xưa cũng vịnh “tùng, cúc, trúc, mai”…để tượng trưng cho phẩm chất của người quân tử đó sao? Tóm lại, màu sắc cổ điển trong thơ Bác được tạo nên từ nhiều yếu tố; thi đề, thi tứ, thi liệu, thi ngôn, hình tượng thi nhân, thể loại, thi pháp, thủ pháp nghệ thuật… Tất cả những yếu tố trên kết hợp khá nhuần nhuyễn, khiến người đọc tiếp xúc với “Nhật ký trong tù” cứ nghe âm vang đâu đây tiếng thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, của Đường Thi, Tống thi…thuở nào. II. Tinh thần hiện đại trong “Nhật ký trong tù” 1. Tinh thần hiện đại: “Thế nào là hiện đại? Tính hiện đại của tác phẩm văn chương biểu hiện phong phú, trước hết và có lẽ là rõ rệt nhất là ở trong sự đổi mới, tạo ra những nét riêng, không lặp lại. Một tác phẩm văn chương mang trong mình tinh thần của thời đại, phản ánh quan điểm nghệ thuật, hệ giá trị và ý thức tư tưởng của con người trong xã hội mà nó nảy sinh, thậm chí vượt trước thời đại… đều được gọi là tác phẩm mang màu sắc hiện đại. Phạm trù hiện đại giúp ta phân biệt thế giới nghệ thuật này với vũ trụ nghệ thuật khác, xác định cá tính sáng tạo ở những thời đại, giai đoạn khác nhau.” (Thúy Liên). Như vậy, ta có thể hiểu: một tác phẩm văn chương mang tinh thần hiện đại là tác phẩm phải thể hiện được trên những nét lớn- tinh thần, ý thức, tư tưởng và các vấn đề quan trọng của thời đại. Nó phải là “tấm gương” phản chiếu trung thực và kịp thời những biến động của con người và thời đại. Không chỉ hiện đại ở nội dung, tác phẩm đó còn phải bám sát đặc trưng thi pháp hiện đại, thể hiện bằng những bút pháp, biện pháp nghệ thuật hiện đại. Trên hết và trước hết, tác phẩm mang tinh thần hiện đại phải được thể hiện sự sáng tạo, không lặp lại nội dung và nghệ thuật, đồng thời tạo ra dấu ấn riêng của người nghệ sĩ. 2. Tinh thần hiện đại trong “Nhật ký trong tù” 2.1. Thi đề 14 Như đã nói, một số tác phẩm trong “Nhật ký trong tù” thuộc đề tài cổ điển (như thiên nhiên, tình bạn…). Song ta cũng phải nhận thấy rằng, đề tài trong tập thơ phong phú và đa dạng hơn nhiều, bám sát dòng chảy của cuộc sống ðýõng thời. “Nhật ký trong tù” trước hết là một cuốn nhật ký viết về mình, viết cho mình, do đó, có tính hướng nội rất cao. Nhà thơ dùng cuốn “nhật ký” bằng thơ để trang trải lòng mình ghi lại những tâm tư, tình cảm của mình trong những ngày “tê tái gông cùm”. Từ đây, “bức chân dung tinh thần tự họa” của người tù Hồ Chí Minh đã hiện dần lên trong mỗi trang thơ. Điều đáng quý là khi tự vẽ lên “bức chân dung” này, Hồ Chí Minh không hề tô vẽ, trang hoàng cho nó trở nên thi vị, đẹp đẽ, xa lạ với đời thực. Trái lại, người đọc chỉ thấy một tù nhân của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch cũng bình thường, giản dị như mọi tù nhân khác. Cũng đầy đủ những “hỉ, nộ, ái, ố…” như ai; bị bắt oan thì cũng “bất bình”, sốt ruột, tức giận “tiếc ngày giờ”, “không ngủ được”; gặp cảnh ngộ thương tâm của các bạn tù thì xót xa, thương cảm… Bản thân Bác cũng bị “ghẻ”, cũng gãi ghẻ, rồi “gầy đen như quỷ đói”, cũng “rụng mất một chiếc răng”, cũng buồn bực vì “bị hạn chế”, “đến buồn đi ỉa cũng không cho”…,như ai. Có thể nói, không có “vùng cấm” trong việc Bác tự họa chính mình. Điều này khác xa thơ cổ điển. Hiếm khi người đọc gặp bức chân dung tinh thần tự họa của nhà thơ cổ điển nào mang những nét chi tiết chân thực, tự nhiên đến suồng sã như vậy. Hầu như chỉ là những bức tranh chân dung ước lệ, công thức sáo mòn, nào là nói chí, tỏ lòng, tóc bạc- lòng son… Nói cách khác, nhà thơ cổ điển dựng lên những bức chân dung tinh thần phần nhiều vẫn mang tính chất của con người- cộng đồng. Đọc thơ Bác, ta thấy rõ chân dung một con người hiện đại, con người cá nhân, cá thể, một tù nhân, một chiến sĩ, một thi nhân. Không chỉ mang tính hướng nội, đề tài của “Nhật ký trong tù” còn mang tính hướng ngoại rất rõ. Tác phẩm là những trang ký sự ghi chép mọi điều “mắt thấy tai nghe” trong nhà tù, trên đường Bác bị giải từ nhà lao này sang nhà lao khác. Qua đó, “tác phẩm đã tái hiện được bộ mặt đen tối của nhà tù Quốc dân Đảng Trung Quốc rất tỉ mỉ, chi tiết, như một cuốn phim tư liệu có sức phê phán mạnh mẽ. Rộng hơn nữa, tập thơ còn cho thấy một phần tình trạng của xã hội Trung Quốc những năm 1942-1943” (SGK Ngữ Văn 11 Nâng cao, tập 2, tr.67). Rõ ràng, ở mảng đề tài rất lớn này, Hồ Chí Minh đã trở thành “người thư ký trung thành của thời đại”, đem lại cho người đọc những hiểu biết sâu sắc về hiện thực xã hội đương thời. Đấy chính là đặc điểm cốt lõi khiến tác phẩm tuy “mặc” chiếc áo mang màu sắc cổ điển song nội dung cốt lõi, tinh thần đích thực lại là hiện đại. Dưới ngòi bút sắc sảo của Hồ Chí Minh, cả một nhân loại đã hiện ra. Chỉ cần nghe tên các bài thơ thôi đã đủ thấy đề tài của tập thơ đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống đương thời (Gia quyến có người bị bắt, Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, Lai Tân, Tiền đèn, Tiền vào nhà giam, Pha trò, Cảnh binh khiêng lợn cùng đi, Cái cùm, Chia nước, Đánh bạc, Cơm tù, Thanh minh, Đêm ngủ ở Long Tuyền, Từ Long An đến Đồng Chính, Đi Nam Ninh, Thịt chó ở Hào 15 Hương, Cột cây số, Một người tù cờ bạc vừa chết, Phu làm đường,…) Nói cách khác, “Thơ Bác có đầy đủ cả mắm, muối, tương, cà”(Nguyễn Đăng Mạnh). Điều này rất khác với thơ xưa. Thơ xưa kén chọn đề tài (thường chủ yếu tập trung ở các đề tài chính: thiên nhiên, tình yêu, tình bạn, chiến tranh, thế sự…); và nếu có chọn đề tài nào đó như (như thiên nhiên) thì phạm vi phản ánh cũng hết sức giới hạn, theo công thức, ước lệ. Như chính Hồ Chí Minh cảm nhận: “Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” Đó chính là yếu tố tạo nên tính dân chủ trong đề tài của tập thơ. 2.2. Hình tượng Nếu tính dân chủ trong đề tài góp phần tạo nên tinh thần hiện đại cho tập thơ thì tính vận động và tính chủ thể của hình tượng lại là yếu tố quan trọng làm nên vẻ đẹp hiện đại cho thi phẩm. Xét về hình tượng thơ, ta thấy hình tượng nhân vật trữ tình (mang cốt cách, dáng dấp, đặc điểm tinh thần của Bác) và hình tượng thiên nhiên là hai hình tượng cơ bản của tập thơ “Nhật ký trong tù”. Qua khảo sát, nghiên cứu ở trên, ta đã khẳng định: thiên nhiên có nhiều nét quen thuộc của Đường thi, Tống thi. Thiên nhiên thường được quan sát từ xa, trên cao bằng vài nét chấm phá, gợi nhiều chiều liên tưởng và thường là “tả cảnh ngụ tình”. Nhân vật trữ tình mang phong thái ung dung, tự tại đứng giữa “cao sơn, lưu thủy” mà “đối diện đàm tâm”, suy ngẫm, chiêm nghiệm về những vấn đề có ý nghĩa triết học lớn lao… Song tất cả những đặc điểm trên vẫn chỉ như lớp sơn bao phủ bên ngoài, còn tinh thần hiện đại mới là cốt lõi. Tính vận động của hình tượng thiên nhiên thể hiện ở chỗ: Thiên nhiên trong thơ Bác luôn vận động, hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Nếu thiên nhiên trong thơ cổ điển thường trầm mặc, tĩnh tại như một bức tranh thủy mặc thì thiên nhiên trong thơ Bác thường hoạt động khỏe khoắn, vui tươi, tràn đầy sinh khí. Dường như trong bức tranh thiên nhiên đó, cảnh vật không đóng khung im lìm mà luôn cựa quậy, vận động, biến chuyển không ngừng theo hướng tích cực: “Đất trời một thoáng thu màn ướt Sông núi muôn trùng trải gấm phơi Trời ấm hoa cười chào gió nhẹ Xuân sang chim hót rộn cành tươi…” (“Trời hửng”) Thiên nhiên trong “Nhật ký trong tù” cũng ít khi ảm đạm, hiu quạnh, dù đó là thiên nhiên bắt gặp giữa đêm khuya vắng lạnh trên đường đi đày (“Giải đi sớm”) hay lúc chiều muộn sau một ngày dầm mưa dãi nắng (“Chiều tối”)… Trái lại, thiên nhiên trong “Nhật ký trong tù” thường sống động, nhiều ánh sáng, luôn hướng về ánh sáng. Như đã nói, “thơ Bác tràn ngập ánh trăng”. Nhưng vầng trăng trong thơ Bác không chỉ là biểu tượng của cái đẹp để chiêm ngưỡng thông thường, đó còn là biểu tượng cho khát vọng tự do. “Ngắm trăng” không 16 chỉ là cái thú ngâm hoa vịnh nguyệt của các tao nhân mặc khách mà còn là một cách để người tù thả tâm hồn mình về phía chân trời tự do: “Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt Lòng theo vời vợi ánh trăng thu” (“Trung thu”) Rõ ràng, thi liệu trăng là cổ điển, nhưng tinh thần của người cảm thụ thì đã rất hiện đại. Cùng với trăng, mặt trời” là hình tượng thiên nhiên quen thuộc mà Bác hướng tới. Mặt trời luôn là nguồn sinh lực dồi dào, rực rỡ, khả dĩ xua tan bóng đêm, bóng tối nơi ngục tù. Chính vì vậy, Bác đã dành nhiều câu thơ để tả mặt trời: “Đầu tường, sớm sớm vầng dương mọc Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài; Trong ngục giờ đây còn tối mịt, Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” (“Buổi sớm”) Hay: “Nắng sớm, mặt trời soi cả ngục Sương mù dày đặc bỗng tan hơi; Tràn đầy sinh khí trong trời đất Tất cả tù nhân nở mặt tươi” (“Nắng sớm”) Những vần thơ trên vừa mang ý nghĩa tả thực cảnh buổi sớm có ánh nắng mặt trời ấm áp, giàu sinh khí, lại vừa có thể hiểu theo ý nghĩa biểu tượng. Nếu đặt trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ, trong mối tương quan với nhà lao, ngục tối mịt mù, ta có thể cảm nhận ánh nắng mặt trời như là biểu tượng cho tương lai tươi sáng của cách mạng. Mặt trời còn là biểu tượng cho quy luật vận động tất yếu của tự nhiên, ánh sáng thay thế bóng tối, cũng như mơ ước của con người về một xã hội tươi sáng, đi lên. Trong hoàn cảnh tù đày tăm tối mà thơ Người lại tràn đầy ánh sáng, điều đó là gì nếu không phải là tinh thần lạc quan của người chiến sĩ? Cảnh thiên nhiên trong thơ Bác không chỉ nhiều ánh sáng mà còn vận động từ bóng tối đến ánh sáng. Đó là “ánh hồng trước mặt đã bừng soi” dẫu “trung ngục giờ đây còn tối mịt” (“Buổi sớm”); đó còn là ánh sáng rực rỡ quét sạch bóng đêm trước đó: “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng Bóng tối, đêm tàn quet sạch không Hơi ấm bao la trùm vũ trụ” (“Giải đi sớm”) Sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng mạnh mẽ, nhanh chóng, đầy khí thế như vậy của thiên nhiên, trời đất đã đem đến “thi hứng” tràn trề cho người tù, nhưng cũng chính tinh thần lạc quan, luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai của Bác đã đem đến cho bức tranh vẻ đẹp lộng lẫy vànhùng vĩ hiếm có. Sự 17 vận động khỏe khoắn ấy của cảnh vật thiên nhiên, xét đến cùng, không chỉ là sự vận động tự nhiên tất yếu của trời đất mà nó bắt nguồn từ sự vận động tích cực trong tư tưởng của người tù Hồ Chí Minh: bất chấp mọi nghịch cảnh, luôn hướng về tương lai, tin vào quy luật: “Hết khổ là vui vốn lẽ đời”. Đấy là gì nếu không phải là tinh thần của con người hiện đại? Tính vận động trong hình tượng thơ không chỉ thể hiện ở hình tượng thiên nhiên mà còn thể hiện ở hình tượng nhân vật trữ tình: người tù Hồ Chí Minh. Hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt chỉ càng khiến người tù tha thiết hướng về sự sống: một cánh chim chiều mỏi mệt tìm về tổ ấm (“Chiều tối”); một bông hoa hồng nở rồi tàn trong sự hờ hững của người đời (“Cảnh chiều hôm”)… Càng bị tù đày tăm tối, người tù càng tha thiết hướng về ánh sáng: “Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng” (“Chiều tối”) Trong gian khổ, Người càng hướng về niềm vui, tự tìm thấy niềm vui quanh mình: “Mặc dù bị trói chân tay Chim ca rộn núi hương bay ngát rừng Vui say, ai cấm ta đừng Đường xa âu cũng bớt chưng quạnh hiu” (“Trên đường đi”) Trong thiếu thốn mọi bề, Người vẫn thấy mình đầy đủ một tình yêu với trăng, với cái đẹp chẳng khác gì một tao nhân mặc khách: “Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ” (“Ngắm trăng”) Trong điều kiện sống khắc nghiệt nhất, “sống khác loài người” Người vẫn để tâm hồn tự do nhất, hướng về cuộc sống bình dị quanh mình: “Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình Làng xóm ven sông đông đúc thế Thuyền câu rẽ sóng rộng thênh thênh” (“Giữa đường, đáp thuyền đi huyện Ung”) Trong hiện tại gian khổ, Người vẫn luôn hướng về tương lai với niềm tin tất thắng: “Ví không có cảnh đông tàn Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân Nghĩ mình trong bước gian truân Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng” (“Tự khuyên mình”) Chính vì trong tư tưởng luôn có sự vận động tích cực như vậy nên nhân vật trữ tình trong “Nhật ký trong tù” không bao giờ đầu hàng trước nghịch cảnh mà chỉ thấy nghịch cảnh là điều kiện cần thiết để tôi luyện thép thêm cứng cáp, 18 “gian nan rèn luyện mới thành công”. Sự vận động trong tư tưởng ấy đã tạo cho nhiều bài thơ tù của Hồ Chí Minh sự chuyển mạch bất ngờ: hai câu trước nói lên hiện thực khó khăn tưởng chừng làm con người gục ngã, hai câu sau thoắt đã bay bổng, thênh thang. Sự vận động ấy cũng tạo nên vẻ đẹp kép trong hình tượng người tù Hồ Chí Minh, từ “chinh nhân” hóa thành “hành nhân”, từ “tù nhân” thoắt đã thành “thi nhân”, bản chất chiến sĩ lồng trong hình tượng thi sĩ. Đây chính là điều cốt lõi tạo nên vẻ đẹp hiện đại trong hình tượng nhân vật trữ tình: một tâm hồn nghệ sĩ lại đi cùng một ý chí kiên cường của người chiến sĩ: “Kiên quyết không ngừng thế tiến công/ Vật chất tuy đau khổ/ Không nao núng tinh thần”. Đúng như Trường Chinh nhận định: “Mối câu mỗi chữ đều mang chất thép, đều toát ra tư tưởng, tình cảm của một người chiến sĩ vĩ đại”. Bên cạnh tính vận động, hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ Bác còn mang tính chủ thể. Điều này rất khác với thơ cổ điển. Trong thơ xưa, thiên nhiên thường được đặt ở vị trí chủ thể. Hình ảnh con người nếu có cũng chỉ là một cái bóng nhỏ bé, thấp thoáng giữa nền cảnh bao la, hùng vĩ của thiên nhiên: “Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” (Bà Huyện Thanh Quan) Con người như bị “nuốt chửng” trong không gian rợn ngợp: “Dừng chân đứng lại: trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta” (Bà Huyện Thanh Quan) Cũng có khi con người và thiên nhiên hòa hợp với nhau đến mức “người in bóng cảnh, cảnh in bóng người”, và sự hòa hợp ấy khiến người đọc không thể nhận ra hình ảnh con người một cách trực diện: “Hái cúc, ương lan, hương bén áo Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn” (Nguyễn Trãi) Đến “Nhật ký trong tù”, người đọc bắt gặp những bức tranh thiên nhiên mà chủ thể là con người. Con người hiện ra ở trung tâm bức tranh trong tư thế lao động khỏe khoắn, “xua tan đi cái ảm đạm uể oải,lụi tắt của thiên nhiên, và bài thơ từ màu sắc cổ điển, bỗng tỏa sáng một tinh thần hiện đại” (Nguyễn Đăng Mạnh). Con người bị xiềng xích nhưng tâm hồn vẫn tự do, say sưa thưởng ngoạn cảnh (“Trên đường đi”, “Giải đi sớm”). Con người đứng giữa đất trời, trên đỉnh non cao mây phủ vẫn không đơn độc mà đầy sức mạnh tinh thần (“Mới ra tù, tập leo núi”…). Như vậy, nếu con người trong thơ cổ điển giấu mình giữa thiên nhiên thì nhân vật trữ tình trong thơ Bác lại được đặt ở trung tâm cảnh với tư thế con người hành động, con người chủ thể, con người dấn thân chinh phục những khó khăn. Con người ấy một mặt có phong thái ung dung tự tại như tiên ông, bậc hiền triết, nhưng mặt khác lại luôn sống cao độ trong từng giờ từng phút: “Phải nhìn cho rộng, suy cho kĩ Kiên quyết không ngừng thế tấn công” 19 (“Học đánh cờ”) Đúng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã viết: “Cái ung dung tự tại của Bác không phải cái ung dung tự tại của người đi ở ẩn để chờ thời, đợi thế theo cái tuần hoàn luận của đạo Nho với cái luật “âm dương tiêu trưởng” mà là cái ung dung, chủ động của người chiến sĩ, chiến đấu không ngừng nghỉ để giành lấy tương lai”. Đọc thơ xưa, ta bắt gặp nhân vật trữ tình với phong thái ung dung, dường như đứng ngoài dòng chảy của thời gian, “con người phi thời gian”, “siêu cá thể” (Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Chín mươi thì kể xuân đã muộn/ Xuân ấy qua thì xuân khác còn”, “Nhàn một ngày là tiên một ngày:…). Đặc biệt, khi thời thế nhiễu nhương, người xưa càng có xu thế ẩn dật, lánh đục về trong, tìm đến thiên nhiên để di dưỡng tinh thần, “độc thiện kì thân”. “Thế sự dầu ai hay kẻ hỏi Bảo rằng: ông đã điếc hai tai” (Nguyễn Khuyến) “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chốn lao xao” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Đọc “Nhật ký trong tù”, ta thấy nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh, một mặt có phong thái ung dung tự tại của con người đã nắm vững quy luật tất yếu của lịch sử, mặt khác, lại là con người luôn sẵn sàng chiến đấu vì độc lập dân tộc, luôn khao khát được “xông ra giữa trận tiền”. Vì thế, càng bị giam hãm lâu ngày trong tù ngục, Người càng khao khát tự do, càng sốt ruột “tiếc ngày giờ”: “Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi Chí cao mà chẳng đáng đồng chinh” (“Buồn bực”) “Tấc bóng nghìn vàng, đau xót thực Bao giờ thoát khỏi chốn lao lung?” (“Tiếc ngày giờ”) Càng bực bội vì bị tù đày phi lý: “Đã giải đến Nam Ninh/ Lại giải về Vũ Minh/ Giải đi quanh quẹo mãi/ Kéo dài cả hành trình/ Bất bình” (Giải đi Vũ Minh); “Quảng Tây đi khắp, lòng oan ức/ Giải tới bao giờ, giải tới đâu?”; “Sao mãi giam ta ở chốn này” (Giam lâu ngày chưa được chuyển)… Có thể nói, không ở đâu mà thời gian lại trở thành nỗi khắc khoải, đau đáu như trong “Nhật ký trong tù”: “Một canh, hai canh, lại ba canh Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành Canh bốn, canh năm, vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” (“Không ngủ được”) “Năm canh thao thức không nằm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan