Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn học dân gian dân tộc dao ở thái nguyên...

Tài liệu Văn học dân gian dân tộc dao ở thái nguyên

.PDF
132
877
136

Mô tả:

ẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC DƯƠNG THÙY PHƯƠNG VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC DAO Ở THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN – NĂM 2016 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC DƯƠNG THÙY PHƯƠNG VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC DAO Ở THÁI NGUYÊN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Hằng Phương THÁI NGUYÊN - NĂM 2016 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài này là do tôi tự tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện dưới sự giúp đỡ của Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Hằng Phương. Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các tư liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, ngày 01 tháng 10 năm2016 Tác giả luận văn Dương Thùy Phương ii LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo và gia đình, đồng nghiệp, bạn bè. Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến cô giáo hướng dẫn khoa học, PGS.TS Nguyễn Hằng Phương, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, động viên tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu; Khoa Văn - Xã hội; Ban Chủ nhiệm; Quý thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu khoa học. Cảm ơn Ban Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên; lãnh đạo Phòng Quản lý Văn hóa, nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tôi học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu. Cảm ơn Thư viện tỉnh Thái Nguyên, Phòng Văn hóa và Thông tin các huyện: Phú Lương, Đồng Hỷ, Đại Từ, Võ Nhai, Định Hóa, cảm ơn các nghệ nhân, ông bà, cô chú, anh chị và bạn bè ở các huyện trong tỉnh Thái Nguyên, những người đã giúp tôi trong quá trình điền dã, sưu tầm tư liệu để hoàn thành luận văn. Tôi xin được bày tỏ lòng yêu thương và biết ơn sâu sắc đến gia đình, đồng nghiệp và bạn bè - những người đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Trong một thời gian ngắn, mặc dù bản thân tôi đã nỗ lực, cố gắng nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc nghiên cứu khoa học nên sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu xót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự thông cảm và những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của các thầy, cô giáo./. Thái Nguyên, ngày 01 tháng 10 năm 2016 Tác giả luận văn Dương Thùy Phương iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN............................................................................................i LỜI CẢM ƠN.................................................................................................ii MỤC LỤC......................................................................................................iii MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................7 5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................8 6. Đóng góp của luận văn văn...........................................................................9 7. Cấu trúc của luận...........................................................................................9 NỘI DUNG Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG - CƠ SỞ TÌM HIỂU VĂN HỌC DÂN GIAN CỦA DÂN TỘC DAO Ở THÁI NGUYÊN...........................10 1.1. Tổng quan về dân tộc Dao ở Thái Nguyên .............................................10 1.1.1. Vài nét về dân tộc Dao ở Việt Nam......................................................10 1.1.2. Khái quát về dân tộc Dao ở Thái Nguyên.............................................11 1.2. Văn học dân gian của dân tộc Dao ở Thái Nguyên - Diện mạo và hiện trạng.................................................................................................................25 1.2.1. Khái niệm văn học dân gian..................................................................25 1.2.2. Một số thể loại văn học dân gian dân tộc Dao ở Thái Nguyên.............27 1.3. Một số vấn đề về văn học dân gian của dân tộc Dao ở Thái Nguyên.....30 1.3.1. Thực trạng về văn học dân gian dân tộc Dao ở Thái Nguyên...............30 1.3.2. Ảnh hưởng của văn học dân gian đến đời sống văn hóa tinh thần của người Dao ở Thái Nguyên...............................................................................31 iv * Tiểu kết Chương 2. THẦN THOẠI VÀ TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA DÂN TỘC DAO Ở THÁI NGUYÊN..............................................................................34 2.1. Thần thoại dân tộc Dao ở Thái Nguyên...................................................34 2.1.1. Nội dung của thần thoại Dao ở Thái Nguyên .......................................35 2.1.2. Nghệ thuật thần thoại dân tộc Dao ở Thái Nguyên ..............................48 2.2. Truyện cổ tích dân tộc Dao ở Thái Nguyên.............................................50 2.2.1. Nội dung truyện cổ tích dân tộc Dao ở Thái Nguyên............................53 2.2.2. Nghệ thuật truyện cổ tích dân tộc Dao..................................................66 * Tiểu kết Chương 3. TỤC NGỮ VÀ DÂN CA DÂN TỘC DAO Ở THÁI NGUYÊN 3.1. Tục ngữ dân tộc Dao ở Thái Nguyên.......................................................79 3.1.1. Nội dung của tục ngữ dân tộc Dao ở Thái Nguyên ..............................80 3.1.2. Nghệ thuật của tục ngữ dân tộc Dao ở Thái Nguyên............................87 3.2. Dân ca dân tộc Dao ở Thái Nguyên ........................................................87 3.2.1. Dân ca Dao Thái Nguyên và các hình thức thể hiện.............................88 3.2.2. Nội dung các làn điệu dân ca dân tộc Dao ở Thái Nguyên...................89 3.2.3. Nghệ thuật của dân ca Dao ở Thái Nguyên...........................................98 * Tiểu kết KẾT LUẬN..................................................................................................102 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC v 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc mang một sắc thái riêng, sự phát triển độc lập nhưng lại có sự hòa quyện bình đẳng nên văn hóa Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ. Ngoài văn hóa Việt - Mường mang tính tiêu biểu còn có các nhóm văn hóa khác như Tày, Nùng, Thái, Chàm, Hoa - Ngái, H'Mông - Dao... đều giữ được những nét truyền thống phong phú của một xã hội thuần nông nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên. Xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hóa chồng lên nhau là lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây. Tuy nhiên đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hóa bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai đồng hóa, trái lại còn biết sử dụng và Việt hóa các ảnh hưởng đó để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc. Khẳng định tầm quan trọng của vấn đề, tại Hội nghị lần thứ chín, ngày 09/6/2014, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã ra Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. So với tiêu đề Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) thì tại Nghị quyết này, xây dựng con người Việt Nam được đưa lên tiêu đề; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là nhiệm vụ đầu tiên trong 6 nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa. Đây là nét đặc sắc của Nghị quyết Trung ương 9 về văn hóa, là kết quả trực tiếp của thành tựu phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa, về vị trí, vai trò của văn hóa trong thời kỳ mới. Có thể thấy rằng, đối với người Việt Nam từ xưa đến nay, văn hóa tinh thần đã đi vào nếp sống của mỗi người dân, trở thành nhu cầu tất yếu. Văn hóa xã hội mỗi dân tộc cũng có những nét khác biệt nhau, biểu hiện ở phong tục tập quán, tín ngưỡng, chế độ hôn nhân gia đình, những nét sinh 2 hoạt trong đời sống và để lại những dấu ấn sâu đậm trong văn học dân gian. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số có những thành tựu độc đáo và có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc và bảo tồn được một số nét cổ hơn so với văn học dân gian của người Kinh. Tuy vậy, văn học dân gian Văn học dân gian dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số có mối quan hệ gắn bó, mật thiết, có sự giao lưu và chuyển hóa lẫn nhau. Việc nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số là rất cần thiết, nó thể hiện đường lối dân tộc và đường lối văn hóa văn nghệ của Ðảng ta, đó là bình đẳng dân tộc, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, nhằm góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa văn nghệ Việt Nam thống nhất và mang tính chất dân tộc phong phú. Có thể nói, ở bất cứ dân tộc nào, khi chưa có văn học viết thì văn học dân gian là bộ phận chính của nền văn học và văn hoá của dân tộc đó. Đến khi văn học viết xuất hiện thì văn học dân gian cũng không phải vì thế mà mất đi. Hai dòng văn học này vẫn tồn tại và phát triển song hành, có sự tác động tương hỗ lẫn nhau. Đặc biệt là các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam, văn học dân gian hầu như là bộ phận chủ yếu trong toàn bộ giá trị sáng tạo văn học của họ. Từ vốn văn học dân gian, chúng ta hiểu được truyền thống sáng tạo thẩm mỹ của các cộng đồng người trên lãnh thổ Việt Nam qua các thế hệ. Điều đó nói lên rằng truyền thống sáng tạo thẩm mỹ vừa tuân theo những quy luật chung của quá trình lao động nghệ thuật toàn nhân loại nhưng lại mang bản sắc dân tộc độc đáo. Và thiết thực hơn, chúng ta có thể chắt lọc từ trong di sản văn học dân gian những chất liệu quý để phục vụ cho chiến lược xây dựng con người Việt Nam mới hiện nay, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng một nền văn hoá văn nghệ tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Dân tộc Dao là một trong 8 dân tộc đang sinh sống trên nhiều huyện của tỉnh Thái Nguyên, có số dân khá đông và là một trong ít dân tộc còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc cho đến ngày nay. Là người con 3 của Thái Nguyên, công tác trong ngành văn hóa, tôi đã được tiếp xúc với một nền văn hóa Dao rất phong phú, mang đậm bản sắc riêng như: Lễ cấp sắc, đám cưới người Dao, dân ca dân tộc Dao. Đồng thời, tôi cũng được nghe một số câu chuyện kể, các tác phẩm văn học dân gian dân tộc Dao và nhận thấy rằng, dân tộc Dao có kho tàng văn học dân gian tương đối đa dạng, phong phú về thể loại và nội dung, bao gồm: thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ, hò vè, câu đối… với nội dung ca ngợi tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, ca ngợi tinh thần đoàn kết, chiến thắng bạo ngược, lên án chế độ cũ bất công, nói lên nỗi khổ của những người làm tôi tớ, bảo vệ tình yêu đôi lứa và phản ánh những phong tục tộc nguời. Từ trước đến nay, việc nghiên cứu, so sánh về văn học dân gian của các dân tộc thiểu số đã có rất nhiều. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu văn học dân gian của người Dao ở Thái Nguyên, một trong những địa phương có nhiều người dân tộc Dao sinh sống còn hạn chế, chưa có sự quan tâm, đầu tư, nghiên cứu một cách khoa học. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn “Văn học dân gian dân tộc Dao ở Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu để giúp hiểu rõ hơn về văn học dân gian người Dao tỉnh Thái Nguyên. Hoàn thành công trình này, chúng tôi mong muốn được góp phần nhỏ bé để khẳng định, bảo tồn và phát huy nét đẹp truyền thống vốn có của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung và dân tộc Dao ở Thái Nguyên nói riêng. Đồng thời, tạo thêm một cơ sở, một nguồn tư liệu đáng tin khi tìm hiểu về văn học dân gian của dân tộc Dao ở Thái Nguyên. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trên dải đất hình chữ S, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng của mình được kết tinh cùng với lịch sử trong quá trình hình thành và phát triển. Cho đến nay, các vấn đề về người Dao ở nước ta đã được đề cập trong nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu của không ít nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Ngay dưới thời phong kiến, trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn không chỉ đề cập 4 đến nguồn gốc mà còn mô tả khái quát về cách ăn mặc và cuộc sống di cư của một số nhóm người Man (Người Dao) ở nước ta. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp chiếm đóng ở vùng nào cũng đều tổ chức viết địa chí vùng đó. Trong những tài liệu về địa chí, các tác giả có đề cập vài nét về địa bàn cư trú của người Dao... Sau này, Auguste Bônifacy xuất bản một loạt công trình về người Dao như Mán Quần cộc (1904-1905), Mán Quần trắng(1906), Mán chàm hoặc Lam Điền (1906), Mán tiểu bản hay đeo tiền (1907), … Đây có thể coi là những công trình nghiên cứu đầu tiên của học giả phương Tây về người Dao ở Việt Nam. Các nghiên cứu của Auguste Bônifacy đã miêu tả sinh động về trang phục, nhà cửa, kinh tế, tổ chức xã hội, văn học, nghệ thuật, tôn giáo tín ngưỡng của người Dao. Đặc biệt, ông tuy là người Pháp nhưng lại rất am hiểu về người Dao và tiếng Dao. Mặc dù vậy, trong các tác phẩm của ông cũng chỉ dừng lại ở việc trích dẫn những bài thơ, bài dân ca được ghi chép lại trong sách cúng của người dân tộc Dao mà chưa đi sâu vào phân tích, tìm hiểu về các thể lại của văn học dân gian dân tộc Dao. Từ những năm 50 thế kỉ XX đến nay, tổng số công trình viết về người Dao ở Việt Nam khá nhiều. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, đã có hơn 200 công trình sách, bài báo viết về người Dao đăng trên tạp chí chuyên ngành. Người Dao ở Việt Nam của tập thể tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến là công trình nghiên cứu toàn diện về mọi mặt đời sống văn hóa, kinh tế của người Dao thời kỳ trước đổi mới. Nghiên cứu về phong tục, tập quán, nghi lễ là chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả, với số lượng công trình phong phú. Tín ngưỡng, phong tục thờ cúng tổ tiên của gia đình người Dao đã được đề cập khá nhiều trong các nghiên cứu dân tộc chí, văn hóa dân gian về người Dao. Có một số ít công trình đi sâu nghiên cứu chỉ riêng vấn đề này, tiêu biểu là Một số hình thức thờ cúng và tết trong gia đình người Dao Tiền ở tỉnh Bắc Kạn của Lý Hành Sơn. Tác giả đã 5 giới thiệu một số hình thức thờ cúng và tết trong gia đình người Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn như cúng ma bếp, cúng ma thổ công, lễ cấp sắc, lễ tết trong gia đình như tết Nguyên đán, tết thanh minh, tết tháng 5 âm lịch, tết tháng 7 âm lịch, lễ cúng cơm mới, cúng hồn lúa... Ngoài ra, tín ngưỡng gia đình cũng được chọn làm chủ đề nghiên cứu của đề tài, khóa luận, ví dụ như Tín ngưỡng dân gian của người Dao ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu của Tẩn Lao U. Tác giả đã tìm hiểu tổng thể các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của người Dao, sự thể hiện tín ngưỡng dân gian qua các mặt nông nghiệp, thờ cúng tổ tiên, sinh hoạt lễ hội cộng đồng… Sau năm 1945, các nhà khoa học ở nước ta tiếp tục sưu tầm và nghiên cứu về người Dao. Đáng chú ý là tác phẩm Dân ca Dao do nhà nghiên cứu Triệu Hữu Lý sưu tầm và biên dịch. Đây là tập dân ca đầu tiên của người Dao gồm nhiều loại hình được xuất bản: hát đối đáp nam nữ, tình thư gửi (tín ca), những lời răn lưu truyền, những lời bài hát đám cưới. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập tới những nét cơ bản về đời sống văn hoá của người Dao, trong đó có thơ ca dân gian, chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những nét đặc thù về văn hoá, đặc biệt là văn học dân gian của người Dao ở từng địa phương. Trong cuốn Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người - ngôn ngữ Mông - Dao, Th.s Đỗ Đức Lợi đã trình bày về các tập tục trong chu kỳ đời người của dân tộc Dao nói chung. Trong đó, đã đi sâu tìm hiểu một số tập tục đánh dấu sự trưởng thành, lễ cấp sắc, tục cưới xin…nhưng chưa chú ý đến văn học dân gian của người Dao. Công trình “Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang” cũng đề cập khá chuyên sâu về văn hóa cổ truyền trong đó có các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của hai nhóm Dao ở tỉnh Hà Giang là Dao Đỏ và Dao Áo Dài. Ở Thái Nguyên, văn hóa, văn học dân gian Dao cũng đã ít nhiều được đề cập đến trong một số công trình sưu tầm, nghiên cứu như luận văn của tác giả Hoàng Thị Thu Hằng với đề tài Hát hầu vua trong lễ cấp sắc của người Dao Lô Gang ở Hợp Tiến, Đồng Hỷ, Thái Nguyên... Tuy vậy, 6 luận văn mới chỉ đi sâu vào nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của các bài hát Hầu Vua được sử dụng trong lễ cấp sắc và cách hành lễ trong lễ cấp sắc của người Dao Lô Gang ở Hợp Tiến, Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Có thể thấy rằng, các bài nghiên cứu, phê bình mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu, nghiên cứu về văn hóa, tôn giáo và nhìn nhận, khái quát về các thể loại văn học dân gian của dân tộc Dao ở một số địa phương. Hiện nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu về nội dung, nghệ thuật trong các tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Dao ở Thái Nguyên. Những công trình nghiên cứu trước đây giúp cho chúng tôi có cơ sở, phương pháp và một số tư liệu cần thiết để có thể hoàn thành vấn đề mà chúng tôi đề ra. Qua quá trình khảo sát, phân tích một số tác phẩm văn học dân gian tiêu biểu của dân tộc Dao ở Thái Nguyên, chúng tôi sẽ nghiên cứu và đóng góp thêm ý kiến. Mong muốn luận văn sẽ phần nào góp thêm một tiếng nói khẳng định ảnh hưởng của văn học dân gian đến đời sống văn hóa, tinh thần của con người. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Chúng tôi thực hiện luận văn này với mục đích đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật của một số thể loại tiêu biểu của văn học dân gian dân tộc Dao ở Thái Nguyên. Trên cơ sở kế thừa những tài liệu khoa học đã công bố về người Dao ở Việt Nam nói riêng, người Dao ở Thái Nguyên nói riêng, tác giả luận văn muốn đi sâu nghiên cứu về các thể loại của văn học dân gian dân tộc Dao Thái Nguyên. Từ đó, thấy được đời sống văn hóa tinh thần phong phú của cộng đồng người Dao ở Thái Nguyên, đặc biệt là giá trị về truyện cổ, tục ngữ, dân ca Dao. Nghiên cứu văn học dân gian Dao là việc làm cần thiết, góp phần bổ sung những hiểu biết về văn học dân gian Dao ở Thái Nguyên trong nền văn học dân tộc Dao nói chung, khẳng định giá trị cần được lưu giữ và bảo tồn. 7 Từ đó, tác giả luận văn muốn giới thiệu những giá trị của văn học dân gian dân tộc Dao ở Thái Nguyên nhằm giáo dục truyền thống tốt đẹp của văn hóa tộc người và giá trị của nó trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Dao. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu về địa bàn cư trú, văn hóa vật chất, tinh thần, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc Dao có liên quan đến đề tài. - Khảo sát, điền đã, sưu tầm tư liệu, thống kê, phân tích các tác phẩm văn học dân gian và giá trị, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Dao. - Trong điều kiện có thể, chúng tôi xin phép đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn, lưu giữ các tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Dao ở Thái Nguyên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Văn học dân gian dân tộc Dao ở Thái Nguyên. Bằng nguồn tài liệu địa phương, qua nghiên cứu, sưu tầm tại chỗ, tác giả sẽ đi sâu vào nghiên cứu tác phẩm văn học dân gian của người Dao ở tỉnh Thái Nguyên. Từ đó, nhận diện thực trạng đời sống văn hóa tinh thần phong phú, đặc sắc của người Dao sinh sống trên mảnh đất này. Nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Dao là việc làm cần thiết, góp phần bổ sung những hiểu biết về văn học của một dân tộc ít người nhưng có đời sống văn hóa tinh thần vô cùng phong phú và đa dạng. Từ đó, khẳng định những giá trị văn hóa cần được giữ gìn, bảo tồn và phát huy. Ngoài ra, đi tìm hiểu những nét đặc sắc trong Văn học dân gian dân tộc Dao tỉnh Thái Nguyên, tác giả sẽ tìm hiểu thêm về Văn học dân gian của người Dao các địa phương khác để so sánh đối chiếu khi cần thiết. 4.2. Phạm vi tư liệu nghiên cứu 8 Trong giới hạn của một đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu những nội dung cơ bản và một số yếu tố về thi pháp tiêu biểu của các thể loại có số lượng tương đối phong phú như: thần thoại, truyện cười, tục ngữ và dân ca thuộc văn học dân gian của dân tộc Dao trong tỉnh Thái Nguyên. Những thể loại khác như truyền thuyết, sử thi, truyện cười... do chưa được sưu tầm đầy đủ nên chúng tôi chưa khảo cứu ở luận văn này. Ngoài ra, chúng tôi tiến hành khảo sát, phân tích một số nội dung của văn học dân gian dân tộc Dao ở địa phương khác liên quan đến đề tài mà chúng tôi nghiên cứu. 5. Phương pháp nghiên cứu Để tìm hiểu, nghiên cứu về Văn học dân gian của người Dao, chúng tôi lựa chọn một số phương pháp sau: - Phương pháp điền dã, sưu tầm: Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để thu thập tư liệu về văn hóa và một số thể loại văn học dân gian của dân tộc Dao Thái Nguyên. Vào những ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi tìm đến nhà các nghệ nhân dân gian, già làng trưởng bản và những người am hiểu về văn hóa, văn học dân gian của dân tộc Dao trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. - Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để tổng hợp, trình bày số liệu và cung cấp số liệu chính xác về các thể loại Văn học dân gian của dân tộc Dao ở Thái Nguyên, tạo cơ sở thực tế tin cậy cho những nghiên cứu tiếp theo. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở các tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Dao mà chúng tôi nghiên cứu sách, báo, những công trình nghiên cứu hoặc các website có liên quan đến đề tài và do chúng tôi khảo sát, sưu tầm được, chúng tôi tiến hành phân tích và đưa ra những nhận xét đánh giá về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của các thể loại văn học dân gian của dân tộc Dao ở Thái Nguyên. - Phương pháp so sánh: Chúng tôi tiến hành đối chiếu so sánh để thấy rõ sự giống và khác nhau giữa các thể loại văn học dân gian của dân tộc Dao ở 9 Thái Nguyên với các thể loại văn học dân gian của các dân tộc anh em khác, của dân tộc Dao ở Thái Nguyên với dân tộc Dao sinh sống ở các địa phương khác - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Nhằm tổng hợp tri thức của nhiều lĩnh vực và nhiều ngành học khác nhau để có thể nhận thức được toàn diện và sâu sắc hơn về vấn đề được nghiên cứu. 6. Những đóng góp của luận văn - Qua nghiên cứu, tìm hiểu về các tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Dao ở Thái Nguyên, tác giả cố gắng tập hợp, sưu tầm thêm các tác phẩm và bước đầu làm rõ bản sắc riêng của văn học dân gian Dao ở Thái Nguyên. Bên cạnh đó, bằng việc nghiên cứu các tài liệu và sưu tầm, khảo sát thực tế, tác giả luận văn mong muốn sẽ góp phần xây dựng diện mạo chung của văn học dân gian dân tộc Dao ở Thái Nguyên. - Luận văn đưa ra một số định hướng nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của văn học dân gian dân tộc Dao ở Thái Nguyên. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn cấu trúc làm ba chương: Chương 1. Một số vấn đề chung - Cơ sở tìm hiểu văn học dân gian của dân tộc Dao ở Thái Nguyên. Chương 2. Thần thoại và truyện cổ tích của dân tộc Dao ở Thái Nguyên Chương 3. Tục ngữ và dân ca của dân tộc Dao ở Thái Nguyên. 10 NỘI DUNG Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG - CƠ SỞ TÌM HIỂU VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC DAO Ở THÁI NGUYÊN 1.1. Tổng quan về dân tộc Dao ở Thái Nguyên 1.1.1. Vài nét về dân tộc Dao ở Việt Nam Người Dao cư trú ở nhiều quốc gia khác nhau nhưng ở Việt Nam người Dao có số dân đứng thứ 2 sau Trung Quốc. Người Dao cư trú ở Việt Nam từ lâu đời. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Dao ở Việt Nam có dân số 751.067 người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố Người Dao cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (109.708 người, chiếm 15,1% dân số toàn tỉnh và 14,6% tổng số người Dao tại Việt Nam), Tuyên Quang (90.618 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 12,1% tổng số người Dao tại Việt Nam), Lào Cai (88.379 người, chiếm 14,4% dân số toàn tỉnh và 11,8% tổng số người Dao tại Việt Nam),Yên Bái (83.888 người, chiếm 11,3% dân số toàn tỉnh và 11,2% tổng số người Dao tại Việt Nam). Ở Việt Nam, người Dao cư trú chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc và gần đây mới có một số nhỏ chuyển vào sinh sống ở khu vực Tây Nguyên... Người Dao có nhiều nhóm khác nhau phân biệt theo vùng. Tên gọi các nhóm Dao dựa vào nhiều yếu tố không chỉ là phong tục, tập quán mà còn dựa trên trang phục và những đặc điểm truyền thống bên ngoài, như Dao Đỏ (Dao Sừng, Dao Đại Bản…); Dao Quần Chẹt (Dao Sơn đầu, Tam Đảo, Nga Hoàng…); Dao Lô Gang (Thanh Phán, Cóc Mun); Dao Tiền (Dao đeo tiền, tiểu bản); Dao Quần trắng (Dao Họ); Dao Thanh Y; Dao Làn Tẻn (ở Tuyên Quang mặc Áo Dài). Người Dao còn chia ra thành nhiều nhóm khác nhau, với những nét riêng về phong tục tập quán, mà biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang phục của họ. Trang phục của người phụ nữ Dao thường là áo, yếm, chân quấn xà cạp, cùng các đồ trang sức 11 vàng bạc, khăn vấn đầu... Trang phục của nam giới, thường là chiếc áo ngắn, xẻ ngực, cài cúc trước ngực. Người Dao là một trong những dân tộc cho đến bây giờ vẫn duy trì được bản sắc truyền thống đậm nét, không chỉ thể hiện qua trang phục, mà còn thể hiện qua tiếng nói. Dân tộc Dao được chia nhiều nhóm người khác nhau nhưng ngôn ngữ của họ là thống nhất cho thấy rõ mối quan hệ gắn kết giữa các cộng đồng người Dao với nhau. Người Dao sinh sống ở nhiều vùng, miền nhưng sinh hoạt cộng đồng vẫn mang tính chất khép kín, thể hiện qua phong tục tập quán, qua hôn nhân. Khi dựng vợ gả chồng cho con cái, người Dao chỉ mong là gả trong cộng đồng. Đấy là một trong những đặc điểm để người Dao giữ gìn ngôn ngữ và phong tục tập quán của mình. Cùng với đó, văn hóa tâm linh là yếu tố vô cùng quan trong trong đời sống người Dao, thể hiện đặc biệt qua nghi lễ cúng bái. Để duy trì được tiếng Dao trong cộng đồng dân tộc người Dao, những người già trong bản làng thường dạy con cháu viết và đọc từ những cuốn sách cổ chữ Dao. Những cuốn sách cổ này hầu như gia đình nhà người Dao nào cũng có. Nhóm Dao Họ là nhóm Dao sống gần miền xuôi và tiếp cận thường xuyên với người Kinh hoặc các nhóm người dân tộc khác. Bản thân những nhóm người Dao họ cũng có thể nói và hiểu được ngôn ngữ của những nhóm dân tộc khác, tuy nhiên, bằng nhiều cách trong cuộc sống, nhóm Dao Họ vẫn duy trì và bảo tồn được ngôn ngữ tiếng Dao của dân tộc mình. Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều tục lệ của các dân tộc ít người có phần bị ảnh hưởng, nhưng dân tộc Dao vẫn giữ được nét văn hóa rất phong phú và đậm đà bản sắc trong đời sống. 1.1.2. Khái quát về dân tộc Dao ở Thái Nguyên 1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên Thái Nguyên là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, nơi tiếp giáp giữa vùng rừng núi Việt Bắc và vùng châu thổ Sông Hồng, có khí hậu nhiệt đới 12 gió mùa, mưa lắm, nắng nhiều, thuận lợi cho canh tác lúa nước và làm nương rẫy. Vùng đất này từ xa xưa đã là nơi cư trú của những người Việt cổ. Thái Nguyên hiện có 46 dân tộc trên tổng số 54 dân tộc tại Việt Nam sinh sống, trong đó có 8 dân tộc đông dân nhất là: Dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay (Sán Chí), Dao, Hmông, Hoa. Cộng đồng dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên sinh sống tập trung chủ yếu ở miền núi, vùng cao trên một địa bàn rộng lớn chiếm 90 % diện tích toàn tỉnh, từ huyện: Định Hóa, Võ Nhai, Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ và một số xã, phường, thị trấn của thành phố Thái Nguyên, thành phố Sông Công, thị xã Phổ Yên, huyện Phú Bình. Năm 1960 với tên gọi là Mán, người Dao có mặt ở 53/162 xã, phường của tỉnh, trong đó 50/53 xã phường dân số Dao chiếm từ 0,01 đến 40%, có 2 xã có trên 60% dân số Dao là: Tân Thành (78,6%) huyện Đại Từ và Hợp Tiến (90,2%) huyện Đồng Hỷ. Năm 1999 người Dao có mặt ở 148/180 xã phường của tỉnh, và dân số Dao trong mỗi xã cũng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ (147/148 xã người Dao chỉ chiếm từ 0,01% đến 40%). Chỉ có một xã là Vũ Chấn huyện Võ Nhai chiếm trên 40% (45,3%). Theo Tổng cục thống kê năm 2009, người Dao tại Thái Nguyên là 25.360 người,. chiếm 2,26% dân số toàn tỉnh và đứng hàng thứ 6 trong các dân tộc của Thái Nguyên. Đồng bào Dao phân bố trong tất cả các huyện, thị xã và thành phố của Thái Nguyên đông nhất là huyện Võ Nhai (36,4%), tiếp đến là Đồng Hỷ (23,9%), Đại Từ (16,4%), Phú Lương (11,21%) và thị xã Sông Công (0,05%) và chia ra thành nhiều nhóm khác nhau, với những nét riêng về phong tục tập quán mà biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang phục của họ như: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y, Dao Áo dài, Dao Quần Trắng,...Mặc dù họ có nhiều nhóm người khác nhau như vậy nhưng ngôn ngữ của họ là thống nhất để đảm bảo mối quan hệ gắn kết giữa các cộng đồng người Dao với nhau. Người Dao ở Thái Nguyên thường sống phân tán thành các bản nhỏ ở vùng sâu, vùng xa và họ có kinh nghiệm sản xuất những cây lúa cạn, chịu hạn, 13 trồng ngô nương, đỗ tương, vừng, các loại cây truyền thống như chuối, dứa, cam, quýt… Trên các đỉnh núi, sườn núi có nhiều mó nước, mạch nước chảy quanh năm, họ đã khai phá thành nương rẫy để trồng cây lương thực, chăn nuôi gia cầm, gia súc. Địa bàn cư trú gắn với núi rừng nên dân tộc Dao trước đây hoàn toàn sống du canh, du cư, đốt rừng làm nương rẫy trồng lương thực và thu lượm lâm thổ sản làm nguồn sống chính, cuộc sống của bà con gặp rất nhiều khó khăn như thiếu ăn, thiếu mặc, không được học hành. Bên cạnh đó, một số tập tục xấu như tảo hôn, cúng bái mang tính chất mê tín dị đoan, bệnh tật làm cho đời sống của phần lớn dân tộc Dao chậm phát triển. Ngày nay, đời sống mọi mặt của dân tộc Dao ở Thái Nguyên đã được cải thiện, đồng bào đã được tổ chức sống trong các thôn, bản, định canh định cư và có sự hỗ trợ của Nhà nước. Nạn đói triền miên xưa kia đã không còn, các tệ nạn xã hội dần được loại trừ. Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, nhiều con em dân tộc Dao tốt nghiệp đại học, học vị cao và đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong các cơ quan quản lý nhà nước. Điều kiện tự nhiên phong phú của mảnh đất này đã tạo cho người dân biết chủ động dựa vào thiên nhiên và khai thác thiên nhiên để sinh sống. Sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên qua nhiều thế hệ càng giúp cho người dân nơi đây có tình cảm yêu quý làng bản, ruộng vườn, nương rẫy, từng cánh rừng, cọn nước để từ đó phát triển thành tình yêu quê hương, đất nước. 1.1.2.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội Qua các nghiên cứu về thực trạng đời sống, kinh tế, xã hội của người Dao ở Thái Nguyên cho thấy, người Dao là một dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống. Người Dao coi nông nghiệp trồng trọt là cơ sở kinh tế chính. Tuy vậy, đất sản xuất lúa nước rất ít, nguồn sống chính là lúa nuwng, ngô, sắn. Các ngành kinh tế khác như chăn nuôi, thủ công nghiệp gia đình hay hái lượm chỉ đóng vai trò bổ trợ. Hiện nay, nhờ có chính sách của Đảng, Nhà nước, nguời dân tộc Dao phần nào đã bớt khó khăn, bà con quan tâm phát triển
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan