Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn hóa tinh thần của người tày ở huyện bắc sơn tỉnh lạng sơn...

Tài liệu Văn hóa tinh thần của người tày ở huyện bắc sơn tỉnh lạng sơn

.PDF
151
536
132

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HOÀNG HẢI YẾN VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƢỜI TÀY Ở HUYỆN BẮC SƠN TỈNH LẠNG SƠN Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa khọc:TS. HOÀNG NGỌC LA Thái Nguyên, 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang MỤC LỤC ......................................................................................................... 1 MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, DÂN TỘC VÀ HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA DÂN CƢ .................................................... 10 1.1. Đặc điểm tự nhiên ................................................................................... 10 1.1.1. Vị trí địa lí .............................................................................................. 10 1.1.2. Điều kiện tự nhiên .................................................................................. 10 1.2. Dân tộc, dân cƣ ........................................................................................ 14 1.3. Hoạt động kinh tế của dân cƣ ................................................................ 16 1.3.1. Kinh tế sản xuất ...................................................................................... 16 1.3.2. Kinh tế tự nhiên ...................................................................................... 25 1.3.3. Chợ phiên ............................................................................................... 27 CHƢƠNG 2: VĂN HÓA TINH THẦN ....................................................... 31 2.1. Tổ chức xã hội .......................................................................................... 31 2.1.1. Cộng đồng làng bản – dòng họ .............................................................. 31 2.1.2. gia đình và hôn nhân .............................................................................. 39 2.2. Các tập quán liên quan đến chu kì đời ngƣời ...................................... 52 2.2.1. Tập quán sinh đẻ, nuôi dạy con cái ........................................................ 52 2.2.2. Nghi lễ đám cưới .................................................................................... 59 2.2.3. Nghi lễ đám ma ...................................................................................... 68 2.3. Tín ngƣỡng dân gian ............................................................................... 76 2.3.1. Quan niệm về hồn và các loại ma .......................................................... 76 2.3.2. Các hình thức tín ngưỡng liên quan đến gia đình, cộng đồng ............... 78 2.3.3. Các nghi lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp .................................... 83 2.3.4. Các tàn dư và biểu hiện của hình thái ma thuật ..................................... 85 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.3.5. Phong tục, tín ngưỡng làm nhà mới của người Tày ............................... 87 2.4. Văn học dân gian ..................................................................................... 91 2.4.1. Tự sự dân gian ........................................................................................ 91 2.4.2. Trữ tình dân gian .................................................................................... 91 2.4.3. Tục ngữ, câu đố Tày............................................................................... 98 2.5. Lễ hội và trò chơi dân gian ................................................................... 102 CHƢƠNG 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƢỜI TÀY Ở HUYỆN BẮC SƠN, TỈNH LẠNG SƠN ........................ 107 3.1. Những yếu tố tác động đƣa đến sự biến đổi của văn hóa tinh thần của ngƣời Tày ở Bắc Sơn ............................................................................. 107 3.1.1. Yếu tố nội sinh ..................................................................................... 107 3.1.2. Yếu tố ngoại sinh ................................................................................. 108 3.2. Những biến đổi của văn hóa tinh thần ................................................ 117 3.2.1. Những biến đổi về tổ chức xã hội ........................................................ 117 3.2.2. Biến đổi của các tập tục lễ nghi liên quan đến chu kì đời người ......... 123 3.2.3. Biến đổi trong tín ngưỡng dân gian của người Tày ở Bắc Sơn ........... 127 KẾT LUẬN ................................................................................................... 132 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 136 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài . Văn hóa được hình thành cùng với sự hình thành và phát triển của các dân tộc, là một yếu tố cấu thành một quốc gia, vì vậy văn hóa là nét đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt giữa các quốc gia dân tộc. Đồng thời cũng là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển đối với mỗi quốc gia dân tộc qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình để phục vụ cho cuộc sống của họ. Như vậy, nói đến văn hóa ta nhận thấy có thể chia làm hai mảng : văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần (hay còn gọi là văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể). Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời với nét đặc trưng nổi bật đó là một nền văn hóa “đa dạng trong thống nhất”. Nền văn hóa ấy hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước, thể hiện bản sắc chung của một dân tộc thống nhất với 54 dân tộc anh em, nhưng đều có cùng một nguồn gốc tổ tiên, đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, gắn bó keo sơn cùng nhau chung tay góp sức xây dựng nước nhà. Nền văn hóa thống nhất của Việt Nam lại được biểu hiện ra với những sắc thái đa dạng ở các vùng miền, các dân tộc khác nhau đang sinh sống trên đất nước Việt Nam. Những sắc thái riêng đó không tách rời bản sắc chung của văn hóa Việt Nam mà còn góp phần làm phong phú thêm bản sắc chung của văn hóa Việt Nam. Dân tộc Tày thuộc nhóm dân tộc thiểu số, tuy nhiên đây là dân tộc có số lượng đông đảo (đứng thứ hai sau dân tộc Kinh), là cư dân bản địa sinh sống lâu đời trên đất nước Việt Nam. Dân tộc Tày phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam, đông nhất là ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 Tuyên Quang, Thái Nguyên . . . Trong quá trình tồn tại và phát triển, gắn liền với các thời kì lịch sử của đất nước người Tày đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa đặc sắc, mang đậm tính chất riêng biệt của mình, đồng thời cũng hòa chung vào nền văn hóa chung của dân tộc, là một mảng văn hóa trong tổng thể văn hóa Việt. Người Tày ở Bắc Sơn chiếm 67,8 % trong tổng số 65.930 người. Gốc bản địa, thuộc nhóm ngữ hệ Tày – Thái. Người Tày ở Bắc Sơn có mặt ở tất cả 19 xã và cả thị trấn, sinh sống trong một khoảng không gian rộng trong thung lũng Bắc Sơn, hòa hợp với các dân tộc khác trong địa bàn của huyện. Do có mặt sớm và là dân bản địa nên dân tộc Tày ở Bắc Sơn đã xây dựng cho mình một nền văn hóa truyền trống phong phú và mang đậm bản sắc địa phương, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Hiện nay đất nước đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, đang có những chuyển biến mạnh mẽ trong tiến trình hội nhập, nên vấn đề bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc đang rất được coi trọng. Đảng ta xác định “ xây dựng một nền văn hóa tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc”. Năm 1991, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta xác định: Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc, đồng thời kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mĩ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc. Chủ trương đó được tiếp tục khẳng định rõ hơn trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa VIII ( 1998 ) của Đảng “ Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để tạo những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống( bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể ” [20;63]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Nắm bắt tinh thần chung về gìn giữ và bảo tồn văn hóa truyền thống các dân tộc, nghị quyết Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn cũng chỉ rõ : “ Khai thác và tìm hiểu truyền thống của tỉnh, bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí cho nhân dân trong tỉnh là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết...” Để góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình tìm hiểu văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung và của người Tày nói riêng, chúng tôi quyết định chọn “ Văn hóa tinh thần của ngƣời Tày ở huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài luận văn, trong đó tập trung vào các nội dung cơ bản là văn hoá tinh thần của người Tày huyện Bắc Sơn và sự biến đổi của văn hóa ngày nay, nhằm xây dựng lên bức tranh văn hóa huyện Bắc Sơn trong lịch sử và hiện tại. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Văn hoá nói chung và văn hoá các tộc người thiểu số nói riêng luôn là đề tài được các nhà nghiên cứu lịch sử cũng như các nhà nghiên cứu văn hoá xã hội quan tâm. Văn hoá đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong nhiều công trình, của nhiều tác giả khác nhau : - Trước hết phải kể đến cuốn “Các bài hát đám cưới của người Thổ ở Lạng Sơn - Cao Bằng” của Nguyễn Văn Huyên do Viễn Đông Bác Cổ xuất bản năm 1942 [33]. Công trình nghiên cứu của tác giả đã đề cập tới các bài hát và các lễ nghi trong đám cưới của người Tày ở Lạng Sơn. - Cuốn “Dân ca đám cưới Tày - Nùng” của Nông Minh Châu, NXB Việt Bắc xuất bản năm 1973 [7]. Tác phẩm đã tập hợp và giới thiệu một số điệu dân ca của dân tộc Tày, Nùng. - Cuốn “Sli, lượn dân ca trữ tình Tày, Nùng” của Vi Hồng, NXB Văn hoá ấn hành năm 1979 [31]. Tác phẩm là sự tập hợp các điệu Sli, lượn tiêu biểu của dân tộc Tày, Nùng ở các địa phương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 - Cuốn “Văn hoá Tày - Nùng” của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, NXB Văn hoá, xuất bản năm 1984 [42]. Cuốn sách đã giới thiệu khá đầy đủ về xã hội, con người và văn hoá của hai dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam. Tuy nhiên nhiều đặc trưng văn hoá mang tính địa phương, trong đó có Bắc Sơn chưa được các tác giả quan tâm và đề cập một cách đầy đủ. - Cuốn “Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam” do NXB Viện KHXH và Viện dân tộc học xuất bản năm 1992 [12]. Đây là cuốn sách đề cập tương đối đầy đủ về điều kiện tự nhiên, dân cư Tày, Nùng, lịch sử tộc người, kinh tế truyền thống, đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, tổ chức xã hội của các tộc người Tày, Nùng ở Việt Nam. - Cuốn “Văn hoá truyền thống Tày - Nùng” của nhóm tác giả Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương Toàn do NXB văn hoá dân tộc xuất bản năm 1993 [56]. Là tác phẩm tìm hiểu tương đối toàn diện trên lĩnh vực văn hoá của hai dân tộc Tày, Nùng : xã hội và văn hoá của người Tày, Nùng; chữ Nôm của người Tày, Nùng - Cuốn “Phong tục tập quán của người Tày ở Việt Bắc” của tác giả Hoàng Quyết, Tấn Dũng, NXB Văn hoá dân tộc xuất bản năm 1994 [57] đã tập trung nghiên cứu sâu về đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Tày ở khu Việt Bắc, với những phong tục tập quán, về tín ngưỡng, lễ hội từ xa xưa của người Tày. - Cuốn “Tục cưới xin của người Tày” của Triều Ân, Hoàng Quyết, do NXB Văn hóa dân tộc xuất bản năm 1995 [3] giới thiệu các thủ tục, lễ nghi của dân tộc Tày ở Việt Nam. - Cuốn “Tìm hiểu bản sắc văn hoá Việt Nam” (cách nhìn hệ thống loại hình) của Trần Ngọc Thêm do NXB Thành phố Hồ Chí Minh (1997) [60] đã tiến hành phân loại các hình thái tín ngưỡng, những nét đặc trưng trong phong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 tục được quy định bởi văn hoá truyền thống, phân tích sự giao lưu ảnh hưởng giữa các nền văn hoá Đông - Tây được biểu hiện trong văn hoá Việt Nam. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 1999 “Tín ngưỡng dân gian Tày lịch sử và hiện tại” của tác giả Hoàng Ngọc La và Hoàng Hoa Toàn [37] trình bày khá chi tiết về tín ngưỡng dân gian Tày với các tục thờ cúng, các tàn dư ma thuật cùng các lễ nghi trong đời sống đồng bào Tày. - Các tác giả: Hoàng Ngọc La (chủ biên) – Hoàng Hoa Toàn – Vũ Anh Tuấn đã biên soạn cuốn “Văn hóa dân gian Tày”, Sở Văn hóa thông tin Thái Nguyên xuất bản năm 2002. Tác phẩm đã trình bày nguồn gốc tộc người, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Tày trong lịch sử. - Cuốn “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đăng Duy do NXB Văn hoá thông tin xuất bản năm 2001 [18] đã trình bày khá đầy đủ về khái luận về tín ngưỡng tôn giáo, nguồn gốc, nội dung của các hình thái tín ngưỡng dân gian đặc trưng ở một số vùng miền, một số dân tộc ít người, trình bày nguồn gốc và những giáo lý cơ bản của các lọai hình tôn giáo trong đời sống hiện nay. - Cuốn “Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của Đặng Nghiêm Vạn do NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 2001 [68] đã nêu lên những khái niệm chung về tôn giáo, xu thế chung của tôn giáo, đời sống tôn giáo trong nhân dân. - Cuốn “Lạng Sơn vùng văn hoá đặc sắc” của Phạm Vĩnh, NXB Văn hoá thông tin xuất bản năm 2001 [72]. Tác phẩm đã tìm hiểu về các dân tộc ở Tỉnh Lạng Sơn cùng với các nét đặc trưng về văn hoá vật chất và tinh thần của các dân tộc, trong đó có dân tộc Tày ở Bắc Sơn. - Từ năm 1990 đến năm 2000, Huyện uỷ Bắc Sơn lần lượt biên soạn và cho xuất bản các cuốn: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 + Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bắc Sơn ( 1930 - 1954) [40]. + Lịch sử Đảng bộ huyện Bắc Sơn 1955 – 1985 [41]. Các cuốn sử này ít nhiều đề cập tới bản sắc văn hóa của dân tộc Tày ở Bắc Sơn. Trong những năm gần đây công tác sưu tầm, nghiên cứu, khôi phục văn hóa Tày ở Lạng Sơn đã được đẩy mạnh, có một số công trình tiêu biểu: - Cuốn “Tục lệ Lạng Sơn (trước năm 1920)”, do Viện nghiên cứu Hán Nôm và Sở Văn hóa Thông tin Lạng Sơn biên soạn, Nxb VHDT xuất bản năm 1998 [70] đã phản ánh đầy đủ những quy tắc, tập tục, diện mạo, bản sắc văn hóa riêng của từng làng, xã. Các làng, bản người Tày là đối tượng nghiên cứu chính của công trình. - Cuốn “Địa chí Lạng Sơn” do UBND tỉnh biên soạn, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản 1999 [66] là một công trình “bách khoa” về mảnh đất, lịch sử và đời sống văn hóa các dân tộc trong tỉnh, giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về văn hóa Tày xứ Lạng. - Cuốn “Lễ hội dân gian Lạng Sơn”, do Hoàng Văn Páo chủ biên, Sở VH Lạng Sơn xuất bản năm 2002 [53] giới thiệu đầy đủ diễn trình của các lễ hội và những vấn đề có liên quan đến lễ hội như truyền thuyết và di tích, trong đó, lễ hội dân gian của người tày và người Nùng chiếm một phần chủ yếu. - Cuốn “Nghi lễ then giải hạn (hắt khoăn) của người Tày” của Nguyễn Thị Hoa, Hội VHNT Lạng Sơn xuất bản năm 2004 [30] giới thiệu về diễn xướng then của người Tày ở Xứ Lạng. - Cuốn “Đặc điểm dân ca đám cưới Tày – Nùng xứ Lạng” của Lộc Bích Kiệm, Hội VHNT Lạng Sơn xuất bản năm 2004 [36] đi sâu tìm hiểu về một loại hình dân ca đặc biệt của hai dân tộc này ở Lạng Sơn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 Các công trình trên mặc dù không đi sâu vào nghiên cứu văn hoá của người Tày ở Bắc Sơn (Lạng Sơn), song cũng đã cung cấp một số nguồn tư liệu liên quan đến đề tài. Các tác phẩm nói trên chưa đi sâu nghiên cứu, chưa làm rõ được những đặc trưng trong văn hóa tinh thần của người Tày ở Bắc Sơn. Mặc dù vậy, các tác phẩm trên đã giúp cho tác giả luận văn một số tài liệu và những nét tổng quát về văn hóa tinh thần của người Tày làm cơ sở nghiên cứu và thực hiện đề tài. 3, Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài - Mục đích đề tài Nghiên cứu văn hoá tinh thần của người Tày ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn nhằm làm rõ văn hóa tinh thần của người Tày ở Bắc Sơn, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người Tày trong giai đoạn lịch sử hiện nay. - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là văn hoá tinh thần của cư dân dân tộc Tày ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. - Phạm vi nghiên cứu Đề tài luận văn đề cập đến những đặc điểm sinh thái tự nhiên, dân tộc và hoạt động kinh tế của cư dân Tày ở Bắc Sơn. Trọng tâm của luận văn nghiên cứu văn hóa tinh thần của người Tày ở huyện Bắc Sơn trong xã hội cổ truyền và trong hiện tại. 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1 Nguồn tư liệu Luận văn của chúng tôi dựa trên cơ sở tham khảo các tài liệu sau: + Nguồn tài liệu thành văn - Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 - Các tác phẩm mang tính lí luận chung và chuyên khảo về văn hoá như “ Văn hoá một số vấn đề lí luận” của Trương Lưu, Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Ngọc Thêm, về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng sảng Việt Nam do Ban tư tưởng - văn hoá trung ương xuất bản, Nghị quyết BCH Trung Ương Đảng lần thứ 5 ( Khoá VIII ), các công trình nghiên cứu đề cập đến văn hoá Tày . . . + Nguồn tư liệu khảo sát, điền dã Do có điều kiện thuận lợi là đang sinh sống và công tác tại địa bàn Huyện nên dễ dàng tiếp xúc với các nhân chứng của lịch sử, quan sát và tham gia các lễ hội, được chứng kiến các phong tục tập quán, lễ nghi của đồng bào địa phương. Qua đó chúng tôi có được những tư liệu, những hiểu biết hết sức quý báu. Đây là nguồn tài liệu rất quan trọng, đồng thời cũng là yếu tố quyết định giúp chúng tôi hoàn thành tốt đề tài của mình 4.2 Phương pháp nghiên cứu - Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, phương pháp điền dã dân tộc học, ghi chép, tổng hợp phân tích các yếu tố đặc trưng văn hóa tộc người Tày ở địa phương. 5. Đóng góp của đề tài. - Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về văn hóa tinh thần của người Tày ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Góp phần làm rõ nét những bản sắc văn hóa Tày ở địa phương, đồng thời khẳng định và bổ sung thêm các nét tương đồng với văn hóa dân tộc Tày ở các địa phương khác và với các dân tộc khác. Thông qua việc tìm hiểu văn hóa tinh thần của dân tộc Tày, đề tài làm nổi bật lên những đặc trưng văn hóa tinh thần của dân tộc Tày, giúp cho các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 cơ quan chức năng đánh giá một cách toàn diện hơn về công tác bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa của người Tày ở Bắc Sơn. - Đề tài cũng là tài liệu tham khảo cần thiết cho việc học tập và giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông, góp phần làm phong phú thêm tư liệu về văn hóa tinh thần của người Tày. 6. Cấu trúc của đề tài Luận văn gồm 142 trang, ngoài phần mở đầu (9 trang), phần kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (7 trang), còn lại là phần nội dung (122 trang) được chia làm 3 chương : Chƣơng 1: Khái quát đặc điểm tự nhiên, dân tộc và hoạt động kinh tế của cƣ dân. Chƣơng 2: Văn hóa tinh thần Chƣơng 3: Những biến đổi của văn hóa tinh thần của ngƣời Tày ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, DÂN TỘC VÀ HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA DÂN CƢ 1.1. Đặc điểm tự nhiên 1.1.1. Vị trí địa lí Bắc Sơn có lịch sử hình thành tương đối lâu đời. Lịch sử hình thành nguyên là châu Văn Lan đời Lý, đời Minh là đất huyện Bội Lan, châu Thượng Văn phủ Lạng Sơn, đời Lê là châu Văn Lan, thuộc trấn Lạng Sơn, đời Nguyễn (Gia Long) vì kị huý tên chúa Nguyễn Phúc Lan đổi là châu Văn Quán. Sau năm 1945 là huyện Bắc Sơn. Hiện nay Bắc sơn có 20 đơn vị hành chính, bao gồm một thị trấn (Bắc Sơn), là trung tâm của huyện và 19 xã. Bắc Sơn ở về phía Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn. Phía Đông tiếp giáp với các huyện Văn Quan, Chi Lăng, phía Tây tiếp giáp với huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, phía Nam tiếp giáp với huyện Hữu Lũng, phía Bắc nối liền với huyện Bình Gia. Đây là một địa bàn rất cơ động là cửa ngõ giao lưu kinh tế văn hóa xã hội giữa hai tỉnh Lạng Sơn và Thái Nguyên. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên Đất đai: là huyện miền núi, ở độ cao 400m trung bình so với mặt biển, với đặc điểm là nhiều núi đá vôi và nhiều rừng gỗ quý. Có nhiều ngọn núi cao song cao nhất là ngọn Khau Kiêng: 1.107m. Xen kẽ giữa các dãy núi đá vôi là các thung lũng khá bằng phẳng thuận lợi canh tác. Bắc Sơn có diện tích tự nhiên toàn huyện là 67.577 ha (697,9km2). Trong đó đất lâm nghiệp có diện tích 41.210 ha, còn lại là núi, suối, hồ và đất canh tác. Diện tích đất nông nghiệp và khả năng nông nghiệp không nhiều chỉ có 14.260 ha, còn lại là bãi chăn nuôi, do thiếu nước nghiêm trọng nên chưa thể canh tác được. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 Đất đai huyện Bắc Sơn có 8 loại xen kẽ lẫn nhau, chủ yếu là đất đỏ vàng trên đất sét (chiếm trên 42% diện tích tự nhiên), đất đỏ vàng trên đá magma axit (chiếm trên 28%), đất vàng trên đá cát (chiếm 3,4%), đất phù sa (chiếm 1,2%) và các loại đất tụ dốc, đất nâu đỏ trên đá vôi... Đa phần đất đai có độ dày canh tác trên 50cm nhưng độ dốc lớn, hiếm nước nên hướng phát triển cây trồng cạn, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả và cây lấy gỗ phù hợp hơn. Là một huyện miền núi cao, phần lớn diện tích là rừng và đồi núi, nên ruộng đất chủ yếu là ruộng bậc thang, phân tán hoặc là ở ven đồi, chân núi hoặc ven suối, khá màu mỡ, thuận lợi cho trồng lúa, hoa màu và các loại cây công nghiệp như hồi, trẩu, sở, thuốc lá, mía, dâu . . .cây ăn quả như mận, đào, quýt, lê, cam . . . có một số cánh đồng lúa rộng ở các xã Long Đống, Quỳnh Sơn, Bắc Sơn . . . được coi là vựa lúa của huyện. Sinh vật : Tỉnh Lạng Sơn nói chung và huyện Bắc Sơn nằm trong vành đai nhiệt đới thuộc khu hệ thực vật nam Trung Hoa – bắc Việt Nam, quanh năm có ánh nắng mặt trời, lại nhiều mưa, độ ẩm cao nên rất thuận lợi cho các loại thực vật phát triển. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý: lim, nghiến, dẻ, chò nước. . .; các loại cây cho dầu béo như trẩu, sở; cây cho bột như củ mài, đao, cây làm thuốc; cây dùng để đan lát; làm hàng mỹ nghệ. Bên cạnh đó là nguồn lâm thổ sản khá phong phú như : Mật ong, mộc nhĩ, nấm hương, măng các loại, rau, củ, quả . . .cùng với một hệ động vật gồm các loại thú, chim . . .Điều này đã tạo cho cư dân Tày có thể phát triển nghề khai thác rừng, đem lại một lượng sản phẩm tương đối dồi dào phục vụ cho cuộc sống của nhân dân. Khí hậu : Khí hậu Bắc Sơn cũng giống với các huyện vùng miền núi phía Bắc, với bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông nhưng phân hóa thành hai mùa rõ rệt, nhất là về phương diện nhiệt, đó là mùa nóng và mùa lạnh. Giữa hai mùa có sự tương phản nhau về nhiệt độ, lượng mưa, gió và độ ẩm. Từ xa xưa, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 ông cha ta bằng kinh nghiệm thực tế của mình đã thấy khí hậu của tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Thái Nguyên, trong đó có huyện Bắc Sơn là : “ Bốn mùa thường âm u, hàng năm giá rét chiếm quá nửa; mùa xuân mùa hạ, mưa thường nhiều, sấm chớp thường nổi, mùa thu đông thường nắng, lại có gió bấc; mùa đông giá rét, nước đông, sương xuống . . . Hang núi mây mù, thấp nhiệt nung nấu. Khoảng tháng 3 tháng 9 nóng lạnh thay đổi, làm chướng càng nặng. Người địa phương thường lấy sấm chớp, mưa và nước lũ để nghiệm công việc làm ruộng (năm nào mưa vào ngày 3 tháng 3 thì năm ấy mất mùa ngô, đậu, mưa váo ngày 6 tháng 6 thì mất lúa, nhân dân sinh nhiều bệnh tật, tháng 10 mưa lũ thì năm sau không có gạo ăn)” [54; 355]. Ngày nay khí hậu tuy đã có sự biến đổi ít nhiều nhưng về cơ bản vẫn có những đặc điểm trên. Trong mùa lạnh, các đợt gió mùa đông bắc có năm đến sớm, có năm đến muộn; có đợt kéo dài, có đợt ngắn, góp phần tạo ra tính thất thường của khí hậu, có ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Lượng mưa bình quân của huyện Bắc Sơn là 1500mm, mưa tập trung chủ yếu ở các trận mưa có cường độ lớn vào mùa hạ từ tháng 4 đến tháng 9, còn từ tháng 10 đến tháng 3 lượng mưa ít chỉ còn khoảng 358mm. Nhiệt độ trung bình trong năm là 200c đến 220c, độ ẩm trung bình từ 80 – 85% thích hợp với sự phát triển của các loài động thực vật nhiệt đới, ở những nơi núi cao khí hậu mát mẻ như ở núi Khau Kiêng thuận lợi cho sự phát triển của thảm thực vật á nhiệt đới và cây ôn đới. Tuy nhiên, do nằm trong cánh cung núi Bắc Sơn, mở rộng về phía Bắc, trực tiếp đón gió mùa từ phương bắc thổi vào và giữ lại một phần bởi các dãy núi cao ở phía nam của huyện nên mùa đông ở Bắc Sơn thường đến sớm và kéo dài, có phần khắc nghiệt hơn so với các vùng khác. Hàng năm, vào nhiều thời điểm của mùa đông, nhiệt độ thường xuống thấp dưới 100c, xuất hiện sương muối, sương giá, làm chết nhiều gia súc và cây trồng nhiệt đới, mọi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 hoạt động canh tác, sản xuất hầu như bị ngưng trệ vì thiếu nước và lạnh nên cây trồng không thể phát triển được. Sông ngòi: Bắc Sơn không có con sông nào chảy qua, nhưng có 5 con suối chính và một số hồ chứa nước bao gồm 13 hồ, với 7 hồ chính, lớn nhất là hồ Vũ Lăng (dung tích 2.100.000m3) và hồ Tam Hoa (dung tích 1.800.000m3), các hồ không những có vai trò điều tiết nước, mà còn tác dụng cải tạo khí hậu địa phương, cung cấp thủy sản, giá trị đáng kể về giao thông và thủy lợi. Các con suối và hồ chứa nước này là nguồn cung cấp nước phục vụ đời sống và sự phát triển nông, lâm, công nghiệp ở địa phương. Giao thông: Là huyện nằm trên tuyến quốc lộ 1B từ Lạng Sơn – Thái Nguyên – Hà Nội, nên Huyện có thể thông thương với các huyện lị tỉnh Lạng Sơn như Bình Gia, Văn Quan và huyện lị Võ Nhai của Thái Nguyên. Tuy nhiên là huyện miền núi, phần lớn diện tích là đồi núi, địa hình phức tạp do đó việc xây dựng và phát triển giao thông gặp nhiều khó khăn. Trước đây việc đi lại trong huyện chủ yếu là các con đường nhỏ hẹp. Những năm gần đây được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của các cấp chính quyền địa phương và trung ương nên các tuyến đường liên tỉnh liên huyện đã được cải tạo và nâng cấp, hầu như các xã đều có đường ô tô chở khách và chở hàng 3 – 4 tấn qua lại thuận lợi. Như vậy, các điều kiện về vị trí địa lí, tự nhiên thuận lợi với những đặc điểm như có các dãy núi trung bình và thấp; khí hậu mang tính chất nhiệt đới núi cao có mùa đông lạnh; giới sinh vật phong phú đa dạng. . . môi trường tự nhiên đã tạo ra cho cư dân Tày nhiều khả năng kinh tế to lớn và toàn diện, từ những khả năng phát triển nền nông nghiệp, lâm nghiệp đến tiểu, thủ công nghiệp. Trước hết, nó cho phép phát triển một nền nông nghiệp đa canh có năng suất ổn định. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 1.2. Dân tộc, dân cƣ Bắc Sơn, vùng đất có giàu tiềm năng phát triển kinh tế, xã hội, với vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên thuận lợi nên từ thời nguyên thủy đã có con người sinh sống. Tại Bắc Sơn các nhà khoa học đã phát hiện được những dấu tích thuộc thời đại đồ đá tiêu biểu thuộc vào nền văn hóa Bắc Sơn, là nền văn hóa khảo cổ có vị trí rất quan trọng trong thời đại đồ đá mới ở Việt Nam, với chiếc rìu mài lưỡi - rìu mài Bắc Sơn. Như vậy, cách đây hàng ngàn năm con người với nền văn minh lúa nước đã có mặt ở một số nơi thuộc huyện Bắc Sơn ngày nay, họ là những chủ nhân đầu tiên của vùng đất này, đó chính là người Tày cổ. Theo niên giám thống kê của huyện thì tính đến năm 2009 dân số của huyện Bắc Sơn đã lên tới 65.930 người, mật độ trung bình là khoảng 95 người/ km2 , bao gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau như Tày, Nùng, Dao, Mông, Kinh và dân tộc Hoa, dân tộc Sán Dìu. Bảng thống kê một số dân tộc ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn Dân tộc STT Số lƣợng ( ngƣời) Tỉ lệ(%) 1 Tày 44.719 67,8 2 Dao 7775 11,8 3 Nùng 5666 8,6 4 Mông 318 0,5 5 Kinh 7380 11,2 6 Các dân tộc khác 72 0,1 7 Tổng 65.930 100 (Nguồn : Niên giám thống kê huyện Bắc Sơn năm 2009) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Như vậy, chiếm đại đa số trong tổng dân cư của Huyện là dân tộc Tày, là cư dân cổ nhất, có mặt sớm nhất ở vùng đất này. Theo truyền thuyết Pú Lương Quân hay còn gọi là Báo Luông Sao Cải kể lại rằng Sao Cải là thủy tổ của người Tày, đã phát hiện ra và đem cây lúa về trồng cấy. Cốt lõi lịch sử của truyền thuyết đã được minh chứng bằng việc tìm thấy chiếc rìu mài thuộc thời đại đồ đá mới. Theo ý kiến của nhóm tác giả Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Nguyễn Anh Tuấn, trong cuốn “Văn hóa dân gian Tày”, có thể xã hội được phản ánh trong truyền thuyết này có thể tương ứng với xã hội nguyên thủy của người Tày thời đại đá mới, trong đó bao gồm cả di tích ở Bắc Sơn. Tại vùng núi Bắc Sơn, đã từng tồn tại nền văn hóa Bắc Sơn nổi tiếng, thuộc sơ kì đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 8.000 đến 10.000 năm, với nền nông nghiệp lúa nước sơ khai và chủ nhân của nền văn hóa này chính là người Tày cổ. Người Tày vốn là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, họ thường canh tác ở các cánh đồng ven sông, suối, các thung lũng, là những nơi thuận tiện về nguồn nước. Tuy sống về nghề nông nhưng đồng bào khá thành thạo các nghề thủ công nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Địa bàn sinh sống của người Tày chủ yếu tại các cánh đồng lòng chảo, các thung lũng lớn. Tập trung đông nhất là ở các xã như xã Long Đống với 3.640 người trong tổng số 3.941 người của xã, Đồng Ý có 2.666 trong tổng số 3.906, Vũ Lăng với 4.626 trong tổng số 4.975 người . . . Nhìn chung trải qua quá trình sinh sống, di cư, lập bản nhiều dân tộc đã đến định cư ở vùng đất Bắc Sơn. Thông qua các hoạt động kinh tế, văn hóa các dân tộc đã có sự giao lưu về văn hóa, tạo nên một nền văn hóa đa dạng, nhưng cũng mang nhiều đặc trưng riêng của từng dân tộc, trong đó nổi lên là dân tộc Tày mà chúng tôi sẽ trình bày cụ thể ở phần sau của luận văn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 1.3. Hoạt động kinh tế của dân cƣ Hoạt động kinh tế của người Tày ở Bắc Sơn được chia làm 2 yếu tố chính: kinh tế sản xuất (bao gồm: nông nghiệp, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiêp gia đình), kinh tế khai thác nguồn lợi tự nhiên (bao gồm: săn bắt, hái lượm). 1.3.1. Kinh tế sản xuất Trồng trọt: Đã từ lâu đời kinh tế trồng trọt trở thành nguồn sống chủ yếu, hàng đầu của cư dân Tày ở Bắc Sơn. Trong trồng trọt, cây lúa, cây ngô là lương thực chính đảm bảo đời sống của người Tày ở Bắc Sơn. Nông nghiệp trồng trọt bao gồm hai loại hình canh tác chính: lúa nước và nương rẫy, bên cạnh đó còn có vườn và các lân trồng cây đặc sản. - Lúa nước: là huyện miền núi nên phần lớn diện tích tự nhiên là đồi núi, đất nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ (khoảng 1/4). Xen kẽ giữa các cánh rừng là các thung lũng lòng chảo, lòng máng chạy dọc theo các con suối, nhân dân đã khai phá, cải tạo thành các chân ruộng trồng lúa nước. Nhiều xã có cánh đồng rộng lớn như Long Đống, Bắc Sơn, Quỳnh Sơn, Hữu Vĩnh . . . trở thành vựa lúa của huyện. Ruộng có 3 loại là ruộng nước (nà nặm) và ruộng cạn chờ mưa (nà lẹng), ruộng lầy, ruộng thụt (nà vùng, nà lún). Ruộng nước là những đám ruộng thấp quanh năm có nước, có thể cấy hai vụ. Đồng bào thường đắp phai, đào mương dẫn nước từ các con suối về các cánh đồng. Ruộng nước có nhiều nhất ở Long Đống, Tân Tri. Bên cạnh các ruộng nước, đồng bào dân tộc Tày còn khai phá các sườn đồi thấp thành ruộng bậc thang. Ở các chân ruộng có điều kiện gần suối thì đồng bào làm cọn nước để đưa nước lên ruộng, còn những thửa ruộng ở trên cao (chân núi, sườn núi, sườn đồi) phải chờ nước mưa. Do vậy trên ruộng cạn, trước đây đa phần cư dân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 Tày chỉ trồng lúa một vụ hè thu, còn lại dùng ruộng đó trồng cây thuốc lá. Loại ruộng thứ ba là ruộng lầy, ruộng thụt ở thung khe hoặc cuối cánh đồng cũng chỉ cấy được mỗi năm một vụ lúa chiêm. Lúa bao gồm có hai loại chính: lúa nếp và lúa tẻ. Tại những thửa ruộng màu mỡ đông bào thường cấy lúa nếp, cùng cấp cho đồng bào một lượng gạo nếp đủ để dùng quanh năm, nhất là vào các dịp tết. Lúa tẻ được trồng nhiều hơn, là thực phẩm chính trong các bữa ăn hàng ngày của đồng bào Tày. - Nương rẫy (rấy): Nhìn chung dân tộc Tày ở Bắc Sơn trồng lúa nước là chủ yếu, ngoài ra đồng bào còn tận dụng đất soi bãi hoặc có nơi làm thêm nương để trồng hoa màu và cây ăn quả. Nương rẫy hầu hết thuộc 2 loại: nương bằng và nương dốc. Các nương này được khai phá bên cạnh các chân núi, trên các sườn núi. Đất nương thường màu mỡ, nhất là nương mới khai phá từ rừng già. Nương rẫy chủ yếu trồng ngô, khoai, sắn, các loại đậu đỗ, bông, chàm nhưng chủ yếu và phổ biến nhất vẫn là trồng ngô và sắn. Phương thức canh tác thường xen canh, gối vụ, đặc biệt các nương ngô thường được xen canh các loại đậu, bí, vừng, hoặc trồng ngô được 1 – 2 năm, đất bị bạc màu đồng bào chuyển sang trồng sắn. - Vườn và một số cây đặc sản: Phần lớn các gia đình đều có vườn cạnh nhà hoặc ven đường, ven suối gần bản. Vườn trồng các loại rau, cây gia vị như gừng, tỏi, nghệ, kiệu . . . và một số loại cây ăn quả: chuối, đu đủ, cam, chanh, hồng, lê, mận . . . quy mô của vườn từ vài chục đến vài trăm mét vuông. Sản phẩm của vườn không chỉ cung cấp một phần thực phẩm, hoa quả cho nhu cầu hàng ngày, mà còn cung cấp sản phẩm trao đổi ở chợ nhất là lê, mận, quýt. Bên cạnh những mảnh vườn đa canh kể trên thì từ lâu ở Bắc Sơn đã xuất hiện những mảnh vườn chuyên canh chuyên trồng các loại quả như: hồng, na, lê, mác mật, vườn mía . . . đặc biệt là vườn mận ở Bắc Sơn rất phổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất