Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay...

Tài liệu Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay

.PDF
115
183
61

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ ÚT QUYÊN VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ ÚT QUYÊN VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Chuyên ngành : Lí luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế HÀ NỘI - 2010 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT VÀ VĂN 7 HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Văn hóa pháp luật 7 1.1.1. Quan niệm về văn hóa pháp luật 7 1.1.2. Đặc điểm của văn hóa pháp luật 11 1.1.3. Chức năng của văn hóa pháp luật 12 1.1.4. Các cấp độ của văn hóa pháp luật và việc phân loại văn hóa pháp luật 14 1.1.4.1. Các cấp độ của văn hóa pháp luật 14 1.1.4.2. Phân loại văn hóa pháp luật 16 1.1.5. Các yếu tố hợp thành văn hóa pháp luật 18 1.1.5.1. Ý thức pháp luật (bao gồm tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật) 19 1.1.5.2. Hệ thống pháp luật 23 1.1.5.3. Hành vi thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật của các chủ thể 25 1.2. Nhận diện văn hóa pháp luật trong kinh doanh 29 1.2.1. Khái niệm và các yếu tố cấu thành 29 1.2.1.1. Khái niệm kinh doanh và các ngành nghề kinh doanh chủ yếu 29 1.2.1.2. Quan niệm văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh 32 1.2.1.3. Các yếu tố cấu thành văn hóa pháp luật trong kinh doanh 35 1.2.2. Đặc trưng của văn hóa pháp luật trong kinh doanh 39 1.2.3. Mối quan hệ giữa văn hóa pháp luật và hoạt động kinh doanh 47 1.2.4. Vai trò của văn hóa pháp luật trong kinh doanh 49 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ 52 XÂY DỰNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam hiện nay 52 2.1.1. Thực trạng ý thức pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh hiện nay và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó 52 2.1.1.1. Thực trạng 52 2.1.1.2. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên 63 2.1.2. Thực trạng hệ thống văn bản pháp luật trong kinh doanh và nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó 66 2.1.2.1. Thực trạng 66 2.1.2.2. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên 77 2.1.3. Thực trạng hành vi thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay và nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó 79 2.1.3.1. Thực trạng 79 2.1.3.2. Nguyên nhân của thực trạng trên 87 2.2. Phương hướng và một số biện pháp chủ yếu để xây dựng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay 89 2.2.1. Phương hướng xây dựng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay 89 2.2.2. Một số giải pháp nâng cao trình độ văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay 91 2.2.2.1. Nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể kinh doanh 92 2.2.2.2. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh 97 2.2.2.3. Tổ chức tốt việc thực hiện và áp dụng pháp luật kinh doanh, nâng cao năng lực, kỹ năng thực hiện pháp luật, hình thành hành vi pháp luật hợp pháp và lối sống theo pháp luật 100 2.2.2.4. Xây dựng các mô hình văn hóa pháp luật kinh doanh tại địa phương, đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp… 102 2.2.2.5. Đẩy mạnh công tác đào tạo và nghiên cứu pháp luật kinh doanh, tiếp thu tinh hoa của văn hóa pháp luật kinh doanh các nước trong khu vực và trên thế giới nhưng vẫn giữ nét văn hóa pháp luật Việt Nam riêng biệt 103 2.2.2.6. Đẩy mạnh và mở rộng các hoạt động như: bình chọn thương hiệu có chất lượng cao của người tiêu dùng; tận dụng sự tác động của yếu tố dư luận xã hội để nâng cao văn hóa pháp luật trong kinh doanh 104 KẾT LUẬN 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, công cuộc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đang rất được đẩy mạnh. Bắt đầu từ năm 1986 đến nay, trải qua hơn 20 năm, công cuộc cải cách bộ máy nhà nước đã diễn ra qua nhiều giai đoạn và đạt được những thành tựu nhất định. Cùng với sự phát triển nhanh về mặt kinh tế, chính trị ổn định, còn có thể nhận thấy những thành tựu trong các lĩnh vực văn hóa - xã hội, một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền cũng được tăng cường cả về lượng và chất, cả hình thức và nội dung, đồng bộ trên mọi lĩnh vực. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi nhận quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền, Điều 2 nêu rõ: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Việc ghi nhận đó là cơ sở pháp lý xác định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Nhưng xây dựng nhà nước pháp quyền là một quá trình lâu dài, phức tạp, các quốc gia xây dựng nhà nước pháp quyền với những xuất phát điểm khác nhau về đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa và bằng những con đường, bước đi khác nhau, không có một mô hình chung cho mọi dân tộc. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm thực tế đã chứng tỏ rằng, công cuộc cải cách bộ máy nhà nước, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền phải đi đôi với quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và nâng cao trình độ văn hóa pháp luật cho người dân. Cả ba nhân tố đó phải được tăng cường đồng bộ, phát triển hài hòa thì công cuộc cải cách bộ máy nhà nước mới hiệu quả, dân chủ hóa đi vào cuộc sống một cách lành mạnh, nhà nước pháp quyền mới từng bước được xây dựng và phát triển, hoàn thiện. 1 Điều đó cho thấy, việc xây dựng và nâng cao trình độ văn hóa pháp luật cho người dân đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Một nền văn hóa pháp luật phát triển sẽ góp phần vào một hệ thống pháp luật phát triển và một quốc gia hưng thịnh. Lĩnh vực kinh doanh là một trong những lĩnh vực trọng điểm của bất kỳ một nền kinh tế nào. Hoạt động kinh doanh tốt, mang lại lợi nhuận cao luôn đồng hành với chất lượng cuộc sống cao của người dân, trình độ dân trí phát triển và sự phồn thịnh của một quốc gia. Với ý nghĩa đó, việc xây dựng hành lang pháp lý trong kinh doanh cũng như nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật trong kinh doanh cho các chủ thể luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng. Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây công tác nâng cao vấn đề văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh không ngừng được tăng cường, hoàn thiện cả về nội dung lẫn phương thức thực hiện và đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật qui định các hành vi, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong lĩnh vực kinh doanh được ban hành, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc, cụ thể, gắn liền với thực tế và thuận lợi trong thực hiện. Các cơ quan nhà nước từ Chính phủ đến các Bộ, ngành, địa phương đều hết sức chú trọng và thúc đẩy việc xây dựng pháp luật, ban hành nhiều văn bản cụ thể hơn, dễ thực hiện hơn trong kinh doanh. Đồng thời rất nhiều văn bản pháp luật liên tịch giữa các bộ, các ngành cũng được ban hành đồng loạt nhằm phối hợp có hiệu quả trong công tác nâng cao vấn đề văn hóa pháp luật trong kinh doanh. Nhìn chung thì trình độ văn hóa pháp luật của đa số các chủ thể trong kinh doanh ở nước ta hiện nay đã có nhiều tiến bộ: sự hiểu biết pháp luật và vận dụng pháp luật trong các nghiệp vụ kinh doanh được nâng lên rõ rệt thể hiện qua việc chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước, qui định của pháp luật; tình trạng tội phạm kinh doanh cũng đã được khắc phục đáng kể; tình trạng không tuân thủ hay cố tình "lách luật" của các tổ chức cá nhân hiện nay cũng đã giảm nhiều... 2 Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng, trong bối cảnh xã hội luôn phát triển không ngừng, đặc biệt trong thời gian gần đây khi sự hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, tốc độ phát triển của công nghệ thông tin bùng nổ... đã có những ảnh hưởng khác nhau đến đời sống của nhân dân Việt Nam (tác động tiêu cực hoặc tích cực). Theo đánh giá của các nhà làm công tác xây dựng luật, bảo vệ pháp luật cho thấy bên cạnh tác động tích cực là thúc đẩy xã hội phát triển về nhiều mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị... thì còn có những tác động tiêu cực: niềm tin vào hệ thống pháp luật quốc gia ngày càng suy giảm, cùng với nó là những hành vi vi phạm qui định đã được pháp luật cấm hay cố tình không thực hiện các nghĩa vụ kinh doanh theo qui định. Nền kinh tế hội nhập cũng làm cho tình trạng tội phạm kinh tế xuyên quốc gia tăng mạnh, nhờ vào sự thông thoáng trong hành lang pháp lý của các quốc gia, tối đa hóa việc mở cửa, tạo điều kiện các các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trong nước. Chính động thái này vô tình đã giúp cho các tội phạm kinh tế hoạt động dễ dàng hơn. Nâng cao vấn đề văn hóa pháp luật trong kinh doanh cho các chủ thể nhằm hình thành nếp sống và làm việc tôn trọng pháp luật, tuân thủ các qui định của pháp luật là một tất yếu khách quan đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa pháp luật trong kinh doanh của các chủ thể kinh doanh (trên một số phương diện cụ thể) và những kết quả mà công cuộc xây dựng và nâng cao văn hóa pháp luật đã đạt được trong thời gian qua. Từ đó xem xét đến những tác động (tích cực, tiêu cực) của kết quả đó đối với vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, hình thành nếp sống sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật. Bên cạnh đó nêu ra một số kiến nghị cụ thể về việc xây dựng, văn hóa pháp luật; các giải pháp xây dựng, hoàn thiện công tác này nhằm góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể kinh doanh trong giai đoạn hiện nay. 3 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay đã được nghiên cứu, bình luận, trao đổi dưới nhiều hình thức. Thông qua những tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu lập pháp, Luật học, Dân chủ và pháp luật, Nhà nước và pháp luật... các tác giả đã bày tỏ quan điểm cá nhân của mình xung quanh khái niệm, vai trò, và những biện pháp nâng cao vấn đề văn hóa pháp luật. Cụ thể như sau: - Lê Đức Tiết (2005), Văn hóa pháp lý Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. - Hoàng Thị Kim Quế (2004), "Văn hóa pháp lý - dòng riêng giữa nguồn chung của văn hóa dân tộc Việt Nam", Tạp chí Dân chủ và pháp luật. - Nguyễn Văn Động (2006), "Văn hóa pháp lý trong điều kiện phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay", Tạp chí Dân chủ và pháp luật. - Lê Vương Long (2006), "Văn hóa pháp lý Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. - Lê Minh Tâm (1998), "Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Luật học. - Lê Thanh Thập (1999), "Mấy suy nghĩ về văn hóa và văn hóa pháp luật ở nước ta", Tạp chí Luật học. - Phạm Duy Nghĩa (2008), "Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật", Tạp chí khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Thị Hồi (2008), "Ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật", Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Với đề tài văn hóa pháp luật cũng đã từng có nhiều luận văn, luận án, khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu và phân tích. Trong đó không thiếu các đề tài cấp Bộ, cấp nhà nước, cấp tỉnh. Điều này cho thấy tầm quan trọng của vấn đề nâng cao trình độ văn hóa pháp luật cho người dân cũng như thể hiện thái độ quan tâm, chú trọng của Đảng và Nhà nước ta. Luận văn này người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề về phương diện lý luận chung về văn hóa pháp luật, chú trọng văn hóa pháp luật 4 trong lĩnh vực kinh doanh ở nước ta hiện nay và hoạt động nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật trong kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh, những kết quả đạt được và những tồn tại. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao, hoàn thiện hoạt động nâng cao trình độ văn hóa pháp luật trong kinh doanh cho người dân nước ta trong tình hình mới hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài này, người viết muốn đi sâu tìm hiểu về cơ sở lý luận của vấn đề văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. Thông qua việc phân tích khái niệm và các yếu tố cấu thành của văn hóa pháp luật, luận văn nhằm nêu bật vai trò và sự tác động của văn hóa pháp luật đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh doanh. Với những giá trị mà văn hóa pháp luật mang lại cho nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là hoạt động kinh doanh lành mạnh, công bằng, phát triển, đồng thời tình hình và môi trường kinh doanh cũng phản ánh nhu cầu của thực tiễn đời sống đối với sự điều chỉnh pháp lý cũng như sự phù hợp, tính khả thi của những qui phạm pháp luật đã được ban hành cũng được đề cập và nghiên cứu cụ thể trong luận văn. Chương 2 luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam hiện nay thông qua việc nghiên cứu những thành tựu và hạn chế hiện hữu của từng yếu tố cấu thành văn hóa pháp luật kinh doanh. Cũng bằng một số những vụ án cụ thể, kết hợp với việc tổng hợp tình hình thực hiện qui phạm pháp luật kinh doanh để nêu bật ý thức, trình độ pháp lý của các chủ thể kinh doanh hiện nay. Qua đó, người viết mong muốn đóng góp một số ý kiến về việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả văn hóa pháp luật trong kinh doanh ở Việt Nam hiện nay thông qua việc đưa ra một số kiến nghị về các giải pháp, cách thức triển khai thực hiện trên thực tế đối với công tác nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, văn hóa pháp luật trong kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh. 5 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu luận văn Luận văn được nghiên cứu và hình thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn.... 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực trạng và những biện pháp chủ yếu về xây dựng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT VÀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. VĂN HÓA PHÁP LUẬT 1.1.1. Quan niệm về văn hóa pháp luật Vốn là một hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, đa cấp độ, văn hóa từng được nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau. Ở trình độ lý luận và yêu cầu của xã hội ngày nay, văn hóa được coi là tất cả những gì liên quan đến con người, ít nhiều thể hiện được sức mạnh bản chất của con người. Văn hóa ra đời cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người, từ giai đoạn khởi thủy cho đến giai đoạn phát triển thịnh vượng sau này. Quá trình phát triển của văn hóa cũng là quá trình loài người tiến hóa, đi lên, nắm bắt các qui luật tự nhiên và làm chủ thế giới. Có thể nói, sự phát triển của văn hóa chính là quá trình con người tự hoàn thiện mình, hoàn thiện xã hội, xây dựng một xã hội tiến bộ hơn, dân chủ hơn. Văn hóa đích thực là ánh sáng dẫn dắt đời sống nhân loại đi tới những giá trị cao cả để đạt được sự toàn thiện, toàn mỹ. Bởi vậy, làm lành mạnh môi trường văn hóa, tạo điều kiện cho văn hóa phát triển cũng có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển tiến bộ xã hội và hoàn thiện nhân cách mỗi cá nhân. Văn hóa là khái niệm có nội hàm rộng lớn, có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Có nhiều định nghĩa về văn hóa đã được các học giả đề cập và phân tích trong các công trình nghiên cứu của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1942, đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, 7 khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự tinh tồn [15]. Cách định nghĩa văn hóa này là khá toàn diện, thể hiện được sự nguồn gốc, chức năng của văn hóa, đồng thời cũng phản ánh tính kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, thời kỳ lịch sử này sang thời kỳ lịch sử khác của văn hóa. Theo định nghĩa của UNESCO thì: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên nó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [35]. Theo cách hiểu này thì văn hóa trong một lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể của mỗi dân tộc được thể hiện qua ba yếu tố cốt lõi sau: - Các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ (yếu tố về ý thức). - Những giá trị vật chất, kỹ thuật do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực đó. - Năng lực, cách thức sử dụng các dạng vật chất đã sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống con người cả về vật chất và tinh thần. Từ "văn hóa" trong tiếng Latin là "culture", nghĩa là sự trồng trọt. Theo nghĩa gốc, ta có thể hiểu văn hóa là quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ những cá thể sinh học trở thành những con người. Cũng có thể nói rằng văn hóa là môi trường thứ hai để con người trở thành chính bản thân mình. Như vậy, văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do con người tạo ra, 8 từ công cụ sản xuất đến các vật dụng sinh hoạt, từ tri thức khoa học đến các tác phẩm nghệ thuật. Văn hóa còn hiện diện trên các quan hệ giữa con người với con người dù đó là quan hệ kinh tế hay quan hệ tôn giáo, quan hệ pháp luật hay quan hệ giao tiếp thông thường. Văn hóa còn là bản thân các năng lực cấu thành nhân cách con người là tri thức, tình cảm, ý chí và mọi năng lực lao động sáng tạo… Dưới góc độ xã hội học thì văn hóa là sản phẩm của con người, là cách quan niệm cuộc sống, tổ chức cuộc sống và sống cuộc sống ấy. Văn hóa có thể được xem xét như hệ thống "các giá trị, chân lý, các chuẩn mực và mục tiêu mà con người cùng thống nhất với nhau trong quá trình tương tác và trải qua thời gian". Pháp luật là một lĩnh vực hoạt động xã hội, do đó nó luôn đòi hỏi phải tính đến vai trò và vị trí của nhân tố văn hóa. Trong lĩnh vực pháp luật, trước hết văn hóa được thể hiện như là phương thức quản lí xã hội vì con người, đảm bảo cuộc sống hạnh phúc cho con người. Đồng thời, nó cũng thể hiện như là kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong việc xây dựng và thực thi pháp luật hướng tới chân, thiện, mĩ. Pháp luật là một trong những yếu tố của văn hóa và văn hóa pháp luật là văn hóa chuyên ngành. Vì vậy để xây dựng được nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì tất yếu phải chú trọng phát triển văn hóa pháp luật. Điều này không chỉ là xu hướng của riêng nước ta mà còn là phương hướng phát triển chung của các nước trên thế giới. Bên cạnh việc phát triển văn hóa giao tiếp, văn hóa du lịch, văn hóa chính trị… thì các quốc gia đều rất chú trọng đến việc phát triển văn hóa pháp luật. Đây được coi là thước đo quan trọng của tiến trình xây dựng xã hội dân chủ, nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh. Văn hóa pháp luật không phải là một thuật ngữ được dùng phổ biến trong luật học như: chế tài, khế ước, nghĩa vụ, lỗi, hành vi mà là một thuật 9 ngữ gắn liền với xã hội học pháp luật, lý luận nhà nước và pháp luật hay nó còn liên quan đến các vấn đề tranh cãi hiện nay như triết học pháp quyền, sự du nhập pháp luật trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hiện nay, trong giới khoa học pháp lý vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng về văn hóa pháp luật. Ở mỗi một cách nhìn, mỗi người lại có một quan niệm riêng về định nghĩa văn hóa pháp luật. GS.TS Lê Minh Tâm cho rằng: Văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống qui phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lí, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật [26]. Theo quan điểm của TS Phạm Duy Nghĩa thì "văn hóa pháp luật là một cách nhìn về luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều với khoa học hành vi, cách nghĩ, cách ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc tính nhân học của các cộng đồng và tộc người" [17]. Một quan điểm khác của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế thì: Văn hóa pháp lý là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần thuộc hệ thống tác động của pháp luật được thể hiện trong ý chí và hành vi của con người…Văn hóa pháp lý thể hiện ở trình độ cao của sự tôn trọng pháp luật, trình độ tri thức pháp luật của nhân dân; thực trạng có chất lượng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật, các phương thức hoạt động pháp luật đặc thù như của các cơ quan pháp luật, kiểm tra hiến pháp…; kết quả của hoạt động pháp luật dưới dạng sản phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng như luật, hệ thống lập pháp, thực tiễn tư pháp và hành pháp [23]. Mục đích của văn hóa pháp luật nói riêng và văn hóa nói chung là dẫn dắt con người tới những giá trị cao đẹp, hướng tới chân - thiện - mỹ. Văn hóa 10 giúp tăng cường hiệu quả của pháp luật trong xã hội, đồng thời hiệu quả pháp luật lại phản ánh trình độ văn hóa pháp luật của xã hội đó. Phát triển văn hóa pháp luật không những góp phần nâng cao hiệu quả pháp luật mà còn giúp hoàn thiện, phát triển nhân cách con người. Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng văn hóa pháp luật là những giá trị do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao gồm: ý thức pháp luật (tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật), hệ thống pháp luật và hành vi thực hiện, áp dụng pháp luật. Văn hóa pháp luật thể hiện ở ý thức pháp luật cao, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tiến bộ, hành vi thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật hợp pháp. Có một số tác giả trong quan niệm của mình sử dụng các thuật ngữ như văn hóa pháp lý hay văn hóa tư pháp. Theo cá nhân người viết luận văn, văn hóa tư pháp là những giá trị được biểu hiện thông qua các qui định pháp luật và hoạt động của riêng hệ thống tư pháp, tức là trong hoạt động (bao gồm thẩm quyền, giới hạn xét xử, nghĩa vụ) của các cơ quan tư pháp. Đồng thời cũng là những quan niệm, suy nghĩ, thái độ, hành vi ứng xử của các tầng lớp xã hội đối với các văn bản pháp luật về tư pháp, hệ thống các cơ quan tư pháp và các cá nhân trong hệ thống đó. Văn hóa tư pháp cũng chỉ là một lĩnh vực của văn hóa pháp luật, bên cạnh các lĩnh vực khác như: văn hóa lập pháp, văn hóa hành chính, văn hóa tư vấn pháp luật, văn hóa phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật… Còn văn hóa pháp lý hay văn hóa pháp luật đều thể hiện những giá trị của cả hệ thống luật pháp trên tất cả các ngành, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Như vậy lựa chọn thuật ngữ văn hóa pháp lý hay văn hóa pháp luật đều có thể bao quát và phù hợp với định nghĩa và các yếu tố cấu thành. 1.1.2. Đặc điểm của văn hóa pháp luật Văn hóa pháp luật có các đặc điểm của văn hóa nói chung, các đặc điểm riêng của mình và luôn có mối quan hệ mật thiết với các dạng văn hóa khác. Các đặc điểm của văn hóa pháp luật có thể kể đến là: 11 - Văn hóa pháp luật có tính hệ thống, tính lịch sử: văn hóa pháp luật bao gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và những yếu tố đó luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đó là một hệ thống, một bức tranh tổng thể chứ không phải là một sự liệt kê, một phép cộng giản đơn. Văn hóa pháp luật cũng là sự kết tinh sáng tạo của con người qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn. Do đó, nghiên cứu văn hóa pháp luật luôn phải đặt nó trong sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa truyền thống và hiện đại. - Văn hóa pháp luật có tính giá trị: các giá trị đó có thể bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần. Văn hóa pháp luật có những giá trị riêng về công bằng, công lý, tự do, bình đẳng, dân chủ. Văn hóa pháp luật xác lập một hệ thống giá trị pháp luật cho xã hội với các khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực hành vi của con người. - Văn hóa pháp luật luôn có tính giao lưu, tính mở: văn hóa pháp luật của một quốc gia luôn có mối quan hệ tương tác với nền văn hóa pháp luật khu vực và thế giới. Văn hóa pháp luật thể hiện bản sắc riêng của dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa pháp luật của các nước khác trong quá trình mở rộng giao lưu quốc tế. 1.1.3. Chức năng của văn hóa pháp luật Văn hóa pháp luật thực hiện những chức năng của văn hóa trong một lĩnh vực đặc biệt - lĩnh vực pháp luật. Vì thế, văn hóa pháp luật cũng mang những chức năng chung của văn hóa. - Chức năng nhận thức: đây là chức năng đầu tiên và quan trọng của văn hóa pháp luật. Văn hóa pháp luật nếu thiếu chức năng nhận thức thì không thể đề cập đến chức năng nào khác. Chức năng nhận thức một mặt giúp cho các nhà lập pháp nhận thức đúng các qui luật của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật để điều chỉnh một quan hệ xã hội… từ đó để xây dựng các qui phạm pháp luật tiến bộ, phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, chức năng nhận thức của văn hóa pháp luật cũng 12 cung cấp những thông tin, kiến thức pháp luật cho các chủ thể, đồng thời bồi dưỡng niềm tin, tình cảm pháp luật cho các chủ thể pháp luật. Có thể nói văn hóa pháp luật như một cuốn sách về đời sống pháp luật, nó gắn liền với hoạt động sáng tạo pháp luật, thực hiện và áp dụng pháp luật của các chủ thể. - Chức năng định hướng: Văn hóa pháp luật bao gồm những giá trị về mặt vật chất và tinh thần. Những giá trị đó luôn gắn liền với đời sống xã hội và là những mục tiêu hướng đến của con người, đó là những giá trị của chân thiện - mỹ. Chính điều này đã làm cho văn hóa pháp luật có chức năng định hướng những tư duy, suy nghĩ và hành vi ứng xử của các chủ thể. Văn hóa pháp luật chính là những chuẩn mực hướng con người ta đến những suy nghĩ tích cực và hành vi hợp pháp. Bên cạnh các phương tiện điều chỉnh khác như đạo đức, phong tục tập quán, văn hóa pháp luật trở thành một công cụ hữu hiệu giúp giữ gìn trật tự xã hội, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh. Sự khác biệt trong cơ chế định hướng của văn hóa pháp luật với các phương tiện điều chỉnh khác là ở chỗ văn hóa pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật, pháp luật do nhà nước ban hành nên có quyền lực cưỡng chế đối tượng phải thi hành. Còn đạo đức hay phong tục tập quán lại được thực hiện thông qua sự tự nguyện của mỗi cá nhân, thông qua sự khích lệ hay chỉ trích của dư luận xã hội. Chuẩn mực văn hóa pháp lý không những hướng con người ta tới những giá trị cao đẹp của pháp luật mà còn giúp hình thành và hoàn thiện nhân cách con người. - Chức năng giáo dục: giáo dục và môi trường giáo dục luôn là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Đối với văn hóa pháp luật, giáo dục lại càng có vai trò quan trọng, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi ứng xử có văn hóa pháp luật hay không của các chủ thể. Chức năng giáo dục của văn hóa pháp luật chính là nằm ở chỗ: nó quyết định việc lựa chọn hay không lựa chọn thực hiện một hành vi tích cực hoặc tiêu cực của con người. Bên cạnh ý thức pháp luật, sự tự giác của mỗi người, chức năng giáo dục pháp luật giúp hỗ trợ cho các chủ thể hành động hợp pháp. Giáo dục 13 pháp luật hiện nay được thực hiện dưới nhiều hình thức: hình thành các trung tâm tư vấn pháp luật, câu lạc bộ pháp luật, hoạt động phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật, giáo dục pháp luật thông qua việc đào tạo tại các trường Trung học, Đại học… Thông qua đó, văn hóa pháp luật đã nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức tôn trọng pháp luật của các tầng lớp nhân dân đồng thời giáo dục lối sống, nhân cách, đạo đức phù hợp với các qui định của pháp luật. - Chức năng phản ánh thực tiễn: Pháp luật luôn luôn phải gắn liền với thực tiễn, với các qui luật của sự vận động và phát triển trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Nhưng thực tiễn cũng chính là bức tranh phản ánh hiệu quả pháp luật, tính đúng đắn và khả thi của các qui phạm pháp luật ban hành. Văn hóa pháp luật với sự phản ánh ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật, hành vi ứng xử của các chủ thể đã trở thành công cụ hỗ trợ giúp cho pháp luật đi sâu vào đời sống hơn, hoàn thiện hơn. Dưới sự tác động của văn hóa pháp luật, việc hoạch định và xây dựng các chính sách pháp luật trở nên đúng đắn hơn, phù hợp với mong muốn và nguyện vọng của đại đa số bộ phận dân chúng, phản ánh những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của họ vào pháp luật. Trong chức năng phản ánh thực tiễn còn có vấn đề dự báo tình hình và xu hướng phát triển của pháp luật. Dựa trên cơ sở nhận thức sâu sắc các qui luật phát triển của đời sống kinh tế xã hội, văn hóa pháp luật đưa ra khả năng dự liệu các qui phạm để điều chỉnh các quan hệ xã hội sẽ phát sinh. 1.1.4. Các cấp độ của văn hóa pháp luật và việc phân loại văn hóa pháp luật 1.1.4.1. Các cấp độ của văn hóa pháp luật Văn hóa pháp luật thể hiện ở những cấp độ khác nhau tùy thuộc vào những điều kiện khách quan và năng lực nhận thức chủ quan của chủ thể nhận thức. Các cấp độ đó bao gồm: văn hóa pháp luật thông thường, văn hóa pháp luật lý luận và văn hóa pháp luật nghề nghiệp. 14 - Văn hóa pháp luật thông thường: được hiểu là mức độ nhận thức pháp luật còn hạn chế, thông qua sự phản ánh trực tiếp, giản đơn về các hiện tượng pháp luật. Văn hóa pháp luật thông thường được hình thành dưới sự tác động trực tiếp của những điều kiện khách quan và kinh nghiệm của cuộc sống cá nhân, trong đó yếu tố tâm lý xã hội chiếm vị trí quan trọng. Ở cấp độ này, văn hóa pháp luật nhìn chung mới chỉ biểu hiện ở sự thừa nhận, tiếp thu và xử sự theo sự thừa nhận và tiếp thu đó. Ví dụ, dưới sự tác động của các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật hoặc sự tự học tập, mỗi cá nhân có thể có được sự hiểu biết và nắm được những kiến thức pháp luật nhất định; thông qua việc tham gia vào các hoạt động như bầu cử, góp ý kiến vào các dự án luật và trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể, mỗi người cũng sẽ có được sự hiểu biết và kinh nghiệm nhất định. Nhưng đó mới chỉ là sự hiểu biết thông thường, chưa toàn diện và sâu sắc. - Văn hóa pháp luật lý luận: được hiểu là trình độ nhận thức cao, có hệ thống và sâu sắc về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Nói cách khác, đó là sự nhận thức có căn cứ khoa học, được hình thành trong quá trình đào tạo, học tập, nghiên cứu một cách có hệ thống và được kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống. Văn hóa pháp luật lý luận có ưu thế đặc biệt, nó là cơ sở cho hoạt động sáng tạo pháp luật, truyền bá tư tưởng, quan điểm pháp lý, cũng như những hoạt động pháp luật thực tiễn. - Văn hóa pháp luật nghề nghiệp: là văn hóa pháp luật của các luật gia và các nhà chức trách mà nghề nghiệp có liên quan đến việc hoạch định chính sách pháp luật, nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. Văn hóa pháp luật nghề nghiệp là sự kết hợp hài hòa của những yếu tố tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Nó không những chỉ biểu hiện ở trình độ hiểu biết cao của pháp luật mà còn phản ánh trình độ nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng và áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các công việc của thực tế đời sống. Như vậy, văn hóa pháp luật thông thường có tính phổ quát, phong phú được đặc trưng bằng yếu tố tâm lý xã hội; văn hóa pháp luật lý luận thể hiện 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan