BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRẦN ĐỨC HOÀN
VĂN HÓA KINH BẮC - VÙNG THẨM MỸ
TRONG THƠ HOÀNG CẦM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRẦN ĐỨC HOÀN
VĂN HÓA KINH BẮC - VÙNG THẨM MỸ
TRONG THƠ HOÀNG CẦM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số:
62.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG
2. PGS. TS. NGUYỄN DUY BẮC
THÁI NGUYÊN - 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận án là trung
thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa
học nào. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2013
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Đức Hoàn
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Trần Thị Việt
Trung, PGS.TS Nguyễn Duy Bắc - những thầy cô đáng kính đã tận tình hướng dẫn và
động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án này.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới cơ sở đào tạo Đại học Thái Nguyên,
đơn vị đào tạo trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện để tôi hoàn
thành luận án này.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã chia sẻ nhiều tư
liệu và kinh nghiệm quý báu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, xin bày tỏ lòng biết
ơn tới gia đình, người thân đã động viên và giúp đỡ tôi trong thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2013
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Đức Hoàn
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii
MỤC LỤC ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU
.................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................2
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................3
5. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu (lịch sử vấn đề) ..................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................9
7. Đóng góp của luận án............................................................................................10
8. Cấu trúc luận án ....................................................................................................11
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VÙNG THẨM MỸ, VÙNG
VĂN HOÁ VÀ VÙNG VĂN HOÁ KINH BẮC ......................................12
1.1. Quan niệm về vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học ........................................12
1.2. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa với vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học..........15
1.2.1. Quan niệm về vùng văn hóa .....................................................................15
1.2.2. Quan niệm về bản sắc văn hóa vùng, miền ..............................................17
1.2.3. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa và vùng thẩm mỹ trong sáng tác
của nhà văn ..............................................................................................18
1.3. Văn hóa Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc và trong thơ Hoàng Cầm.................23
1.3.1. Đặc điểm vùng văn hóa Kinh Bắc ............................................................23
1.3.2. Văn hoá Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc ................................................30
1.3.3. Văn hóa Kinh Bắc - cội nguồn của vùng thẩm mỹ trong thơ
Hoàng Cầm ..............................................................................................39
Chương 2: THẾ GIỚI BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM.........44
2.1. Quan niệm về biểu tượng và biểu tượng thẩm mỹ.............................................44
2.1.1. Quan niệm về biểu tượng..........................................................................44
2.1.2. Quan niệm về biểu tượng thẩm mỹ ..........................................................46
iv
2.2. Biểu tượng thiên nhiên Kinh Bắc.......................................................................48
2.2.1. Biểu tượng dòng sông...............................................................................48
2.2.2. Biểu tượng núi, đồi ...................................................................................61
2.2.3. Biểu tượng lá, cỏ, quả...............................................................................66
2.3. Biểu tượng con người Kinh Bắc ........................................................................81
2.3.1. Biểu tượng con người trong truyền thuyết và lịch sử...............................82
2.3.2. Biểu tượng người mẹ ................................................................................88
2.4. Biểu tượng về văn hoá phong tục Kinh Bắc ......................................................94
2.4.1. Biểu tượng lễ hội ......................................................................................94
2.4.2. Hát Quan họ - một biểu tượng văn hoá thẩm mỹ độc đáo......................101
Chương 3: VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NGÔN NGỮ .............................................................107
3.1. Quan niệm về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học .....................107
3.1.1. Quan niệm về ngôn ngữ..........................................................................107
3.1.2. Quan niệm ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học......................................109
3.2. Đặc trưng vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc trong ngôn ngữ nghệ thuật
thơ Hoàng Cầm.................................................................................................113
3.2.1. Sự kết hợp của nhiều kênh ngôn ngữ .....................................................113
3.2.2. Ngôn ngữ đầy ắp tính tượng trưng và giàu tính nhạc.............................129
KẾT LUẬN .............................................................................................................148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA LUẬN ÁN .......................................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................152
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, Hoàng Cầm được đánh giá là một tác giả tài hoa
và độc đáo, ông đã dệt được một hồn thơ mang bản sắc riêng. Hồn thơ ấy đã góp phần
tăng thêm sự phong phú, đa dạng cho nền thơ ca dân tộc thời kỳ hiện đại.
Tiếp cận thơ Hoàng Cầm ta có ấn tượng khá đặc biệt bởi một không gian thơ
riêng biệt - đó là không gian văn hoá vùng Kinh Bắc cổ kính và tao nhã. Ngoài những
khả năng thiên bẩm, ngoài ảnh hưởng của môi trường văn hoá gia đình, văn hoá thời đại,
văn hoá dân tộc, chúng ta có thể thấy ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá vùng - một yếu tố
quan trọng góp phần quyết định tạo nên hồn thơ và phong cách nghệ thuật của Hoàng
Cầm. Chính điều đó đã tạo ra dấu ấn đặc trưng riêng của Hoàng Cầm trong số các chân
dung của thơ ca hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề văn hoá vùng trong thơ của
Hoàng Cầm mới chỉ dừng lại ở những phát hiện nhỏ, lẻ, chưa trở thành một hướng
nghiên cứu có tính hệ thống và cụ thể, vẫn chưa được giải mã một cách triệt để, đầy đủ,
nhằm chỉ ra những nét mới mẻ, độc đáo của vùng văn hóa và các biểu tượng nghệ thuật
trong thơ ông.
Do đó, nghiên cứu văn hoá vùng Kinh Bắc chính là góp phần giải mã thơ Hoàng
Cầm, chỉ ra những đặc trưng riêng biệt trong thơ Hoàng Cầm từ góc độ văn hóa học và
qua các biểu tượng văn hóa vùng. Đồng thời, việc nghiên cứu này cũng góp phần làm
sáng tỏ vùng văn hoá thẩm mỹ và giá trị quan trọng của nó trong việc hình thành hồn
thơ, đặc trưng thơ và tư tưởng, phong cách nghệ thuật của nhà thơ Hoàng Cầm. Qua cái
“phễu lọc văn hóa” Kinh Bắc, nhà thơ Hoàng Cầm đã làm sống lại những đặc điểm văn
hóa vùng Kinh Bắc trong thơ, đã góp phần luận giải, tôn vinh và làm tỏa sáng những giá
trị của một vùng đất có truyền thống văn hóa, văn hiến lâu đời. Đây cũng chính là đóng
góp quan trọng của Hoàng Cầm đối với thơ ca Việt Nam hiện đại, đối với vùng đất, con
người và quê hương yêu dấu của nhà thơ.
Trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Cầm, bên cạnh những sáng tác thơ còn phải
nói đến những tác phẩm văn xuôi và kịch thơ nổi tiếng. Đương nhiên, chỉ với mảng sáng
tác thơ của mình, Hoàng Cầm đã xứng đáng được xem là một trong những nhà thơ xuất
sắc của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Giữa mênh mông cuộc đời, tâm hồn anh minh, sâu
lắng và luôn luôn rộng mở, tiếng thơ tràn đầy nhiệt huyết và giàu trải nghiệm về cuộc
2
sống ấy đã để lại dấu ấn văn hoá Kinh Bắc không thể phai mờ trong ông. Tuy vậy, đời
thơ nhiều tìm tòi, nhiều trăn trở của Hoàng Cầm đến nay vẫn chưa có được sự quan tâm
nghiên cứu một cách sâu sắc và hệ thống. Nhìn lại những cống hiến to lớn của Hoàng
Cầm đối với nền thi ca nước nhà, sẽ thấy rất cần thiết phải có những công trình nghiên
cứu chuyên sâu đối với di sản thi ca quý giá của ông, để cho cuộc đời sáng tạo không
mệt mỏi ấy được tri ân một cách đúng nghĩa.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài "Văn hoá Kinh Bắc vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm" để nghiên cứu với mong muốn phát hiện ra
những điểm sáng về giá trị văn hoá thẩm mỹ trong thơ ông, khẳng định một lần nữa tài
năng và những đóng góp nhiều mặt của thi nhân trong dòng chảy lớn của nền thơ ca Việt
Nam hiện đại. Điều đó có ý nghĩa không nhỏ đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học
tập môn Văn học ở trung học phổ thông, đại học và cao đẳng... Qua đó góp phần xây
dựng hệ quy chiếu mới để nghiên cứu thơ Hoàng Cầm.
Đây là một đề tài vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tiễn và có những đóng
góp thiết thực vào việc tìm hiểu, giải mã thơ Hoàng Cầm.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận án là nghiên cứu thơ Hoàng Cầm trong mối quan hệ giữa
vùng văn hóa, vùng thẩm mỹ Kinh Bắc dưới các góc độ biểu tượng văn hóa và các hệ
thống ngôn ngữ. Qua đó hy vọng sẽ gợi mở và cung cấp một số cơ sở có tính chất thao
tác để hiểu thơ ca Hoàng Cầm khi tiếp cận văn bản ngôn từ, khám phá sâu hơn về truyền
thống văn hóa Kinh Bắc, góp phần nghiên cứu, giảng dạy và thưởng thức thơ ca của ông
được thấu đáo hơn. Đồng thời khẳng định những sáng tạo độc đáo, những đóng góp tiêu
biểu, đáng trân trọng của nhà thơ Hoàng Cầm trong đời sống thơ ca Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án cố gắng làm rõ khái niệm vùng thẩm mỹ, vùng văn hóa Kinh Bắc trong
mối quan hệ với sáng tác thơ Hoàng Cầm. Điều đó cho phép phân tích và chứng minh
tính chất tiêu biểu của nghệ thuật thơ Hoàng Cầm. Như vậy nhiệm vụ nghiên cứu của
Luận án là lý giải các biểu tượng văn hóa và chỉ ra những đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật
nổi bật của thơ Hoàng Cầm trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ Kinh Bắc.
3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là: Văn hóa Kinh Bắc - Vùng thẩm mỹ trong
thơ Hoàng Cầm.
Góc nhìn của Luận án là văn hóa Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm trên các
phương diện cơ bản: vùng thẩm mỹ trong thơ nhìn từ hệ thống biểu tượng và hệ thống
ngôn ngữ.
Các văn bản khảo sát chính: Hoàng Cầm- Tác phẩm thơ do Lại Nguyên Ân biên
soạn (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 2003). Các tập thơ của Hoàng Cầm: “Mưa Thuận
Thành” (Nxb Văn học 1991); “Bên kia sông Đuống” (Nxb Văn học 1993); “Lá Diêu
Bông” (Nxb Văn học 1993); “Về Kinh Bắc” (Nxb Văn học 1994; “99 tình khúc” (Nxb
Văn học 1996) và tập Men đá vàng” (Nxb Văn học 1995); Và các bài thơ lẻ in trên các
báo, tạp chí khác nhau và các tác phẩm thuộc các thể loại khác như: văn xuôi, kịch thơ…
Khảo sát, tham khảo thêm một số tác phẩm thơ ca viết về Kinh Bắc (tiêu biểu)
trong đời sống văn học nước nhà; một số nhà thơ cùng thời với Hoàng Cầm (để đối
chiếu, so sánh những nét độc đáo, đặc sắc trong thơ Hoàng Cầm); các tài liệu sách,
báo, những tài liệu viết về đặc điểm văn hóa vùng Kinh Bắc nói riêng, về đặc điểm
văn hóa vùng nói chung… sẽ là cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng tôi làm nguồn tài
liệu tham khảo.
5. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu (lịch sử vấn đề)
Trong lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam, thơ Hoàng Cầm là một hiện tượng độc
đáo, đặc sắc với những đặc trưng thơ riêng biệt không thể trộn lẫn. Đó là một thứ thơ
sang trọng, đẹp một cách mong manh, lung linh những sắc màu thiên nhiên và huyền ảo
với các gam màu cổ tích, huyền sử mang tính sáng tạo, tính nghệ thuật cao và tính trực
cảm thẩm mỹ, gắn các giá trị văn hóa, phong tục của một vùng quê huê tình, cổ kính và
thanh tao với tình người Kinh Bắc. Thơ Hoàng Cầm làm say mê trái tim nhiều người đọc
nhưng cũng làm cho rất nhiều người khó tiếp cận. Do đó, có khá nhiều người đã viết, đã
bình, đã tiếp cận thơ Hoàng Cầm trong suốt nửa thế kỷ qua, đặc biệt là những năm 90
của thế kỷ XX. Song, phải chăng vì kén chọn người đọc nên đến nay những công trình
nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm còn ở mức độ khá khiêm tốn (?).
Tuy nhiên, người nghiên cứu dù đứng ở góc độ nào, luận bàn về phương diện gì
cũng đều thống nhất về tài thơ với tấm lòng yêu thơ, yêu cuộc sống hiếm thấy nơi ông,
ngưỡng mộ thật sự vẻ đẹp tâm hồn, cốt cách của thi nhân. Ở những mức độ khác nhau,
4
các bài viết thể hiện niềm ưu ái, sự đồng cảm và trân trọng nghệ thuật đối với những vần
thơ chan chứa tình đời, tình người, ngút đầy nỗi nhớ, niềm thương của ông. Các nhà phê
bình nghiên cứu đã xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau để khám phá thế giới thơ Hoàng
Cầm, song hầu hết đều có sự thống nhất trong việc tìm hiểu và phân tích về cảm hứng,
giọng điệu, nghệ thuật... của nhà thơ, qua đó khẳng định giá trị nghệ thuật, bản sắc cá
nhân, thành tựu, đóng góp và vị trí riêng của thơ Hoàng Cầm trong tiến trình văn học
Việt Nam hiện đại.
Nghiên cứu đề tài về ảnh hưởng của văn hoá đối với văn học Việt Nam hiện đại,
chúng tôi nhận thấy đã có nhiều nhà nghiên cứu phát hiện ra nhiều vấn đề có giá trị thẩm
mỹ trong thơ ông. Nhưng về yếu tố văn hoá Kinh Bắc trong sáng tác của Hoàng Cầm thì
vẫn còn ít công trình nghiên cứu chuyên sâu.
Nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có một số
khuynh hướng chính như sau:
5.1. Hướng nghiên cứu về nghệ thuật thơ Hoàng Cầm
Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Hoàng Cầm là thi nhân được đánh
giá cao với những giá trị nghệ thuật của thơ trữ tình đương đại, theo Nguyễn Việt
Chiến: “Có thể nói, trong thơ Việt Nam hiện đại, Hoàng Cầm đã tạo ra một trường thẩm mỹ mới, nó vừa mang trong mình cốt cách của văn hoá vùng Kinh Bắc, vừa mở
ra một không gian lớn của thơ trữ tình với những tìm tòi nhằm đưa cái đẹp dân gian
vào hơi thở của mỗi bài thơ. Và chính điều này đã làm nên một trường - giang - thơ
lộng lẫy của riêng Hoàng Cầm - ông Hoàng của thơ trữ tình đương đại” [19, tr.59].
Chu Văn Sơn có nhận xét thơ Hoàng Cầm mang giọng điệu “tức nghẹn, nhấn chìm,
đè ngang” [146, tr.285].
Đặng Tiến trong bài Cây tam cúc cũng nhận xét: “Thơ Hoàng Cầm giàu âm
điệu... Có những câu thơ dìu dặt, luyến láy do sắp xếp; nhưng giọng điệu bài thơ có thể
xuất thần, vượt khỏi sự dụng công” [71, tr.61].
Đáng chú ý hơn cả là nhận xét của Nguyễn Đăng Điệp “Khi lắng nghe giai điệu
thơ Hoàng Cầm có thể thấy ông chịu ảnh hưởng khá rõ âm nhạc từ, khúc trong văn
chương cổ điển phương Đông… hoà quyện chặt chẽ với cái mượt mà của những làn điệu
dân ca quan họ đã tạo nên những màu sắc riêng: sang trọng, đằm thắm nhưng bay bổng,
hào hoa. Đó không phải là những phép cộng các thủ pháp nghệ thuật đơn thuần mà là sự
5
hoà nhuyễn trong một hồn thơ nhạy cảm, tất cả như tan vào nhịp thở, nhịp tim Hoàng
Cầm và vang lên thành một thứ giai điệu tiêu tao, sâu lắng, man mác một nét buồn xa
xăm. Ở một trang khác, tác giả có đoạn “ta còn thấy bóng dáng xa xôi của văn hoá
Chămpa ẩn sâu, tan vào văn hoá Kinh Bắc đã tạo nên một âm điệu rất riêng trong những
sợi dây tơ tinh tế Hoàng Cầm” [32, tr.205- 206- 207].
Như vậy có thể thấy các tác giả chủ yếu đi vào hai phương diện của giọng điệu
thơ Hoàng Cầm là giọng điệu quan họ và giọng điệu tức nghẹn. Tuy nhiên mới chỉ dừng
lại ở vấn đề nêu ra chứ chưa đi sâu nghiên cứu, lý giải một cách cụ thể. Những phát hiện
đó đều rất tinh tế và khá chính xác, đây sẽ là cơ sở khoa học để chúng tôi kế thừa và phát
triển trong quá trình nghiên cứu.
Xoay quanh ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm, các nhà nghiên cứu, phê bình có
những lời khen chê khác nhau, thậm chí trái ngược nhau: “Anh không chỉ thạo
dùng chữ, nhất là sử dụng động từ. Cũng lạ ở con người mái tóc tro bụi này là việc
mày mò tìm ra cái lẩn đằng sau chữ, tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, tạo nên bề
dày chữ nghĩa...” [71, tr.38]. Các tác giả Chu Văn Sơn, Đặng Tiến cũng có những
phân tích về Cây tam cúc của Hoàng Cầm và chỉ ra được các giá trị nghệ thuật của bài
thơ, đặc biệt là thành tựu về phương diện ngôn ngữ, đó là sự phối hợp nhuần nhuyễn
giữa tính truyền thống và tính hiện đại, giữa đặc trưng trữ tình và phẩm chất bác học
trong ngôn ngữ thơ. Các cây bút đã khẳng định đó chính là một thứ ngôn ngữ của thơ
mới, trẻ trung và có sức hấp dẫn lạ kỳ...
Bên cạnh đó, có nhiều nhà phê bình nghiên cứu đề cao dấu ấn của lối viết tự
động hoá. Ở đó, ngôn ngữ thơ không hề có dấu vết của sự gia công, gò giũa, mà là của sự
tuôn chảy thẳng ra từ mạch nguồn trữ tình. Để khẳng định cho ý kiến của mình, Đỗ Lai
Thuý có so sánh ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm với ngôn ngữ thơ Lê Đạt, ông coi Lê Đạt là
người “phu chữ”, còn “sáng tác kiểu Hoàng Cầm xem ra có phần nhàn nhã” [71, tr.59].
Nghiên cứu về nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, một số nhà nghiên cứu cũng đã phát
hiện và chỉ ra những nét đặc trưng trong thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm trên các
phương diện không gian, thời gian, cùng một số hình ảnh đặc sắc trong thơ ông như:
Đỗ Lai Thuý trong bài Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và... có nhận xét: “Thơ Hoàng
Cầm là thơ ẩn dụ. Hệ thống ẩn dụ của ông, một phần lấy nguyên từ cái “kho trời chung”
của văn hoá dân gian, phần khác lấy có cải biến, còn lại là cá nhân ông sáng tạo. Thơ
hoàng Cầm tràn ngập ẩn dụ đêm, mưa, trăng và gió...” [131], ông (Đỗ Lai Thuý) cũng có
6
những dòng so sánh giữa hai phong cách thơ Nguyễn Bính và Hoàng Cầm: “Thơ
Nguyễn Bính dân dã và chân quê hơn. Còn thơ Hoàng Cầm hiện đại và bác học hơn:
cùng viết về nông thôn nhưng thơ Nguyễn Bính là sự thương nhớ lo âu, khắc khoải về sự
phôi pha của quê hương, còn Hoàng Cầm không tả thực một vùng quê Kinh Bắc trong
thực tế mà còn thể hiện một Kinh Bắc bất tử trong thơ ông”. Tác giả cũng chỉ ra rằng
“Tập thơ Về Kinh Bắc là một giấc mơ với những liên tưởng đứt đoạn, những hình ảnh
rời rạc... đó là sự siêu thăng của mặc cảm Oeđipe, một thực tại siêu thực trong vô thức
Hoàng Cầm” [131].
Một số bài viết có đề cập đến thi pháp thơ Hoàng Cầm, và đều thống nhất một
nhận xét về thơ ông là lối thơ siêu thực, phạm trù siêu thực, hoặc “đi theo hướng thơ “phi
lý” [2, tr.29], hoặc “Tính hiện đại ở thơ Hoàng Cầm không phải là như ở thơ Vũ Hoàng
Chương, mà là một vùng cây cỏ, sông hồ nhẹ bay của thôn quê Kinh Bắc, được siêu thực
hoá thành Cỏ bồng thi, cầu bà sấm, bến cô mưa và Lá diêu bông, hay những người con
gái mờ ảo, những mối tình hư ảo xứ Kinh Bắc, xoá nhoà trong mưa bụi bay” [2, tr.30].
Đỗ Đức Hiểu trong bài Thơ mới- cuộc nổi loạn của ngôn từ thơ cho rằng thế
giới thơ Hoàng Cầm là một “thế giới ảo” tràn ngập những hình ảnh siêu thực. Ở một
phương diện cụ thể, tác giả khẳng định: “Mưa Thuận Thành là một thế giới siêu Thuận
Thành, siêu Kinh Bắc, siêu mưa” [146, tr.280]. Cũng đứng trên góc độ này, Phan Huy
Dũng nhận xét: “Bài thơ Lá diêu bông sáng tác theo lối siêu thực. Nhà thơ tái hiện một
cách trung thành những phút mê sảng của tâm hồn, lối viết tự động dẫn tới sự ghép nối lạ
lùng các hình ảnh, sự chuyển kênh đột ngột của cảm giác, những từ ngữ kỳ dị rất khó
giải thích” [24, tr.117].
Có thể nhận thấy rằng, các bài viết, bài nghiên cứu, các ý kiến trên đây đều thống
nhất chỉ ra: Trong nghệ thuật thơ Hoàng Cầm có một thế giới ảo, có những hình tượng
thơ siêu thực, có những yếu tố của tiềm thức, vô thức, tâm linh... Và chúng tôi cũng đồng
nhất với cách gọi của Trần Thị Huyền Phương: Thơ Hoàng Cầm là sự kết hợp giữa hai
yếu tố thực và hư.
5.2. Hướng nghiên cứu về sự ảnh hưởng của văn hóa Kinh Bắc trong thơ
Hoàng Cầm
Khi phát hiện ra văn hoá Kinh Bắc chính là những ảnh hưởng quan trọng làm nên
cội nguồn thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Hình như có một không gian
7
Kinh Bắc, một thời gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính trong thơ anh. Và trên cái nền thời
gian, không gian ấy, cứ thấp thoáng một cô gái quê Kinh Bắc của một thuở nào, có vẻ
duyên dáng, tình tứ…” [4, tr.56].
Hoài Việt khi nghiên cứu về thơ văn và cuộc đời Hoàng Cầm cũng nhận xét: “Ở
Hoàng Cầm “chồi tâm” nảy lên từ nền văn hiến truyền thống Kinh Bắc, vùng đất cổ còn
để lại đến đời nay bao nhiêu đình chùa, miếu mạo, bao nhiêu ông trạng, ông nghè, ông
cống, bao nhiêu trai Cầu Vồng - Yên Thế, gái Nội Duệ - Cầu Lim. Hoàng Cầm đắm
mình trong đó. Văn chương Hoàng Cầm vục uống từ suối nguồn đó, say sưa có lúc đến
chuệnh choạng”, đến với thơ văn Hoàng Cầm là đến với “non sông gấm vóc này có một
bề dày lịch sử truyền thống oanh liệt” [71, tr.34].
Nguyễn Xuân Lạc viết về cảm hứng thơ Hoàng Cầm “Người thơ mang tên vị
thuốc đắng ấy lại sinh ra và lớn lên trong một vùng đất thơ ngọt ngào. Đó là xứ Kinh Bắc
- một trong ba cái nôi lớn của dân tộc Việt Nam... Xứ Kinh Bắc thơ mộng hữu tình...
Vùng đất thơ ấy đã bồi đắp cho thơ Hoàng Cầm từ nhiều phía, nhiều nguồn”, ra đi kháng
chiến, Hoàng Cầm “đem theo cả một hành trang Kinh Bắc trong hồn thơ Thanh niên của
mình” [71, tr.14-15].
Cũng theo hướng tiếp cận này, Nguyễn Đăng Điệp chú ý đến yếu tố văn hoá bao
bọc từ thuở ấu thơ “Cái không khí đẫm chất huê tình, bảng lảng sương khói văn hoá dân
gian đã ăn quá sâu vào tuổi thơ Hoàng Cầm... Nằm sau trong câu chữ Hoàng Cầm là sự
ngân vọng của những lớp trầm tích văn hoá được thẩm thấu qua bộ lọc tinh tế của thi
nhân... Cái yếu tố sâu xa nhất tạo nên ma lực thơ Hoàng Cầm là ở chỗ ông biết đánh thức
hồn quê Kinh Bắc trong cõi vô thức, tiềm thức” [32, tr.195, tr.206].
Như vậy, có thể nói các bài viết trên chủ yếu đề cập đến vấn đề cảm hứng thơ
Hoàng Cầm - và đã khẳng định những cảm hứng đó đều được bắt nguồn từ vùng văn hoá
truyền thống Kinh Bắc. Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ đặc biệt để Hoàng Cầm dệt lên
hồn thơ đẫm chất trữ tình của mình.
Với bài viết Chị đừng đi, Ngô Thảo lại đề cập đến yếu tố tâm linh trong thơ
Hoàng Cầm. Đó chính là tâm thế sáng tạo của nhà thơ: “hầu suốt hành trình đi tới về với
thời gian, thế giới tinh thần, tâm linh ông luôn đi ngược, lặn sâu vào quá khứ. Quá khứ
không chỉ hiện ra qua lớp từ cổ, những địa danh cổ, nếp sống cổ, phong tục tập quán cổ...
ông đã tạo ra được một không gian cổ trọn vẹn, đặc biệt kỳ diệu trong tập thơ Về Kinh
8
Bắc. Bao nhiêu từ thô lậu của đời thường, nào yếm, váy, giải yếm, đặt trong thế giới này
bỗng mang một màu sắc gợi tả khác xa ý nghĩa cụ thể” [146, tr.301].
Khẳng định bản lĩnh và tài năng thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Việt Chiến viết: “Tài
năng ông là ở chỗ tìm tòi đổi mới thơ mà bản ngã truyền thống vẫn không suy chuyển,
nâng cao tư duy thơ mà giọng điệu vẫn không xa lạ với mọi người” [19, tr.57] và chỉ rõ:
“Hoàng Cầm là ông Hoàng của thơ trữ tình... Thơ trữ tình của Hoàng Cầm có một phong
thái rất đặc biệt và đặc thù, tên tuổi của ông đã làm rạng danh cả một vùng Kinh Bắc - cái
nôi của nền văn hoá Sông Hồng” [19, tr.56].
Năm 2007, cuốn sách Thơ Hoàng Cầm với văn hoá Kinh Bắc của Nguyễn Thị
Minh Bắc có đề cập đến góc độ văn hoá, nhưng chưa chỉ ra được những biểu tượng văn
hoá trong thơ ông - điều cốt lõi làm nên những thành công về bản sắc, phong cách nghệ
thuật và tài năng của nhà thơ.
Năm 2011, Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản cuốn Hoàng Cầm- Hồn thơ độc
đáo do tác giả Lại nguyên Ân chủ biên có tập hợp các bài viết về cuộc đời và sự nghiệp
thơ ca Hoàng Cầm. Đây là một cuốn sách tập hợp khá đầy đủ những bài viết, bài đánh
giá, nghiên cứu phê bình về thơ Hoàng Cầm dưới nhiều góc độ như: Hoàng Cầm, ông
hoàng của thơ trữ tình… của Nguyễn Việt Chiến, Hoàng Cầm - gã phù du Kinh Bắc của
Chu Văn Sơn, Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm của Đỗ Lai Thúy, Hành trình xóa bỏ
ẩn dụ như một lối tìm đến ngôn ngữ thi ca mở: Hoàng Cầm của Khánh Phương, Thơ
Hoàng Cầm - truyền thống và hiện đại của Đặng Tiến, Người dệt thơ từ những giấc mơ
của Nguyễn Đăng Điệp… nhưng cũng chưa đề cập nhiều đến các biểu tượng văn hóa
Khinh Bắc trong sáng tác thơ Hoàng Cầm.
Năm 2012, Luận án Tiến sĩ của Lương Minh Chung [22] với đề tài Thơ Hoàng
Cầm từ góc nhìn văn hóa đã xác định điểm nhìn văn hóa trong việc nghiên cứu thơ
Hoàng Cầm. Tuy nhiên tác giả Luận án này chưa nhấn mạnh cái căn nguyên tạo nên giá
trị văn hóa vùng đã thẩm thấu một cách trực tiếp, sâu đậm đến hồn thơ, phong cách thơ
Hoàng Cầm. Theo chúng tôi, đây là vấn đề hết sức quan trọng. Tác giả Lương Minh
Chung đã đi sâu vào các vấn đề lý thuyết, lý luận chung về mối quan hệ giữa môi trường
văn hóa và con người, và dưới góc nhìn văn học như một công cụ để khai thác. Vậy nên
ở đây chúng tôi không đi sâu vào vấn đề lý thuyết, lý luận chung đó nữa, hơn nữa tác giả
cũng có đề cập đến việc phản ánh các biểu tượng trong thơ Hoàng Cầm dưới góc nhìn
9
văn hóa trong mối quan hệ tổng thể của văn hóa Việt Nam, thế nên chưa giải mã cội
nguồn sâu xa ảnh hưởng đến văn hóa, phong tục, lối sống, tâm hồn con người, lịch sử và
thiên nhiên Kinh Bắc đã ảnh hưởng trực tiếp tới hồn thơ Hoàng Cầm như thế nào. Chính
vì thế mà chúng tôi đi sâu vào vấn đề cội nguồn văn hóa vùng để khẳng định đó chính là
vùng thẩm mỹ độc đáo, đặc biệt ảnh hưởng đến hồn thơ, phong cách thơ, tư tưởng nghệ
thuật của nhà thơ đất Kinh Bắc này.
Trong các bài đánh giá, nghiên cứu phê bình trên về cuộc đời và sự nghiệp thi ca
của Hoàng Cầm có đề cập ít nhiều đến vùng thẩm mỹ Kinh Bắc trong sáng tác thơ
Hoàng Cầm, nhưng mới chỉ nói đến ở mức độ đề cập tới vấn đề chứ chưa đi vào phân
tích hoặc làm rõ vấn đề, do đó chưa có tính hệ thống, chưa khảo sát một cách toàn diện,
cũng như chưa khái quát hóa trở thành một luận điểm mang tính khoa học, góp phần giải
mã thơ Hoàng Cầm và chỉ ra những đặc điểm, đặc trưng, những sáng tạo độc đáo của
nhà thơ Kinh Bắc hết sức tài hoa này trên góc độ biểu tượng và đặc trưng ngôn ngữ với
mối quan hệ với văn hóa vùng Kinh Bắc. Tuy nhiên những ý kiến, nhận xét, đánh giá của
các nhà nghiên cứu, phê bình trên đều có giá trị khơi gợi, mở hướng cho chúng tôi việc
xác định mục tiêu của đề tài để tiếp tục triển khai các nội dung, phương pháp nghiên cứu,
làm sáng tỏ và khẳng định một cách chắc chắn dựa trên các căn cứ khoa học vấn đề: văn
hóa Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ độc đáo trong thơ Hoàng Cầm. Vùng thẩm mỹ độc
đáo và sâu sắc ấy tự thân đã góp phần quan trọng tạo nên hồn thơ Hoàng Cầm, tạo nên
một tư tưởng nghệ thuật và phong cách thơ Hoàng Cầm.
Vì thế chúng tôi muốn lựa chọn đề tài này nhằm mục đích giải mã một cách khoa
học, tương đối thấu đáo về thơ Hoàng Cầm từ góc độ văn hóa học trong mối liên hệ với
vùng thẩm mỹ Kinh Bắc. Từ đó khẳng định: Văn hoá Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ
độc đáo trong thơ Hoàng Cầm.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án kết hợp phương pháp nghiên cứu liên ngành Văn hoá - Văn học: Cách
tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá học giúp chúng tôi lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm
nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hoá,
thẩm mỹ liên quan đến con người, thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn
ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của
10
tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường
phát triển nói chung của văn học.
- Phương pháp lịch sử: Không những giúp người viết tìm hiểu những vấn đề
liên quan hoàn cảnh xã hội và cá nhân đã ảnh hưởng như thế nào tới quá trình sáng
tác của tác giả mà còn góp phần xác định được vị trí của tác giả đó trong quá trình thơ
ca dân tộc.
- Phương pháp hệ thống, phân tích: Đây là một trong những phương pháp cần
thiết giúp chúng tôi khảo sát, tìm hiểu những chi tiết, hình ảnh được lặp lại có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định những biểu tượng nghệ thuật độc đáo trong thơ Hoàng
Cầm, từ đó phân tích, nhận xét, đánh giá mang tính khái quát, hệ thống cho mỗi vấn đề
được trình bày.
- Phương pháp so sánh: So sánh đồng đại và lịch đại trên quan điểm lịch sử để
thấy được tính tiếp thu và kế thừa trong sáng tác thơ Hoàng Cầm.
- Vận dụng một số phương pháp của Thi pháp học để tiếp cận hệ thống các
phương thức biểu hiện bằng biểu tượng nghệ thuật của văn học, bắt nguồn từ quan điểm
thẩm mỹ nhận định về thế giới nghệ thuật để soi tỏ vấn đề nghiên cứu Văn hóa Kinh Bắc
- Vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm.
7. Đóng góp của luận án
- Luận án góp phần làm rõ hơn quan niệm về vùng thẩm mỹ và mối quan hệ giữa
vùng văn hoá với vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học. Qua đó thấy được mối quan hệ
giữa môi trường văn hoá với sáng tác văn học.
- Khảo sát, hệ thống hóa, phân tích, đánh giá những biểu tượng văn hóa Kinh Bắc
trong sáng tác thơ của Hoàng Cầm, chỉ rõ một số đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật thơ
Hoàng Cầm trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ Kinh Bắc.
- Khẳng định những nét đặc sắc về nội dung và những sáng tạo độc đáo trong
nghệ thuật thơ của Hoàng Cầm, nhằm góp thêm một cách tiếp cận về thơ của ông.
- Khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà thơ tài hoa này trong dòng
chảy của nền thơ ca Việt Nam hiện đại và góp một cách phân tích để hiểu thơ, nhận thức,
giảng dạy và cảm thụ thơ Hoàng Cầm sâu sắc hơn.
11
8. Cấu trúc luận án
Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung của Luận án được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Vấn đề lý luận về vùng thẩm mỹ, vùng văn hoá và vùng văn hoá
Kinh Bắc.
Chương 2: Thế giới biểu tượng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm.
Chương 3: Vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm nhìn từ phương diện ngôn ngữ.
Danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu của Luận án
Sau cùng là danh mục Tài liệu tham khảo.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VÙNG THẨM MỸ, VÙNG VĂN HOÁ
VÀ VÙNG VĂN HOÁ KINH BẮC
1.1. Quan niệm về vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học
Trong sáng tác nghệ thuật, trong đó có văn học, các nhà văn thường có một “vùng
sáng tác” nhất định để lấy thi liệu, thi đề cho cảm hứng của mình.
Có thể nói mỗi nhà văn có một “chất dính” (chữ dùng của Nguyễn Đăng Mạnh)
riêng để thể hiện ngòi bút của mình. Khi nhà văn có sự quan sát thực tế đời sống ở nhiều
lĩnh vực khác nhau, “chất dính” ấy vẫn chỉ có thể bắt lấy được những gì mình thích hợp
với nó mà thôi. Ở Thạch Lam là những phố huyện nghèo nàn, xơ xác, buồn vắng hoặc
những vùng ngoại ô tối tăm của Hà Nội, với những linh hồn bé nhỏ tội nghiệp, lặng lẽ
sống với những ý nghĩ, những mơ ước, những cảm giác hiền lành, nếu không phải là ngơ
ngác, lo lắng nhìn về một tương lai mù mịt; ở Nguyên Hồng là những con đường phố tấp
nập nơi thành phố cảng Hải Phòng chói chang màu phượng vĩ, nơi đây, bên cạnh cuộc
sống ồn ào, náo nhiệt là cuộc sống khó khăn của những người thợ nghèo khổ đang đồng
thời diễn ra trong than bụi; với Nguyên Ngọc lại là vùng đất Tây Nguyên; Nguyễn Bính
với mảnh đất Sơn Nam; nhà văn Sơn Nam với vùng đất Nam Bộ; Kim Lân với những
thú phong lưu đồng ruộng nơi vùng Kinh Bắc; Anh Thơ cũng có vùng sáng tác riêng với
những cảnh chợ phiên nghèo và những dòng sông, những phong tục tập quán vùng Kinh
Bắc... Không gian trong thơ Hoàng Cầm cũng là không gian của vùng Kinh Bắc trù mật
về một nền văn hoá, văn hiến lâu đời, tuy nhiên thơ ông lại mang một chiều sâu của giá
trị văn hóa thẩm mỹ khác. Nhà thơ đã khai thác, xây dựng mối quan hệ giữa văn hoá và
văn học để soi chiếu, từ đó đưa những hình ảnh đặc trưng, những biểu tượng văn hóa vào
trong thơ nhằm tái hiện hiện thực đời sống đến vùng thẩm mỹ của văn chương. Bằng bút
pháp nghệ thuật, nhịp điệu thơ văn, tính sáng tạo trong tư duy ngôn ngữ, giọng điệu và
cấu trúc văn bản, nhà thơ đã sáng tạo những ý tưởng thẩm mỹ mang tính đặc trưng riêng.
Như thế, mỗi nhà văn đều có một hệ đề tài quen thuộc và ưa thích của chính
mình, có thể gọi đó là vùng đối tượng thẩm mỹ (chữ dùng của Nguyễn Đăng Mạnh). Ở
đây, các vùng đối tượng thẩm mỹ tự nó đã ghi đậm dấu ấn chủ thể sáng tác để tạo nên
phong cách thơ đặc biệt và tư tưởng nghệ thuật riêng cho nhà thơ.
Trong sáng tác văn học nói chung, sáng tác thơ ca nói riêng, mỗi nhà thơ thường
tạo cho mình một không gian nghệ thuật, một thế giới nghệ thuật riêng và trước hết nó
13
phải hấp dẫn, lôi cuốn tác giả. Từ đó nhà thơ bắt lấy cảm hứng từ vùng thẩm mỹ với
những thi liệu, thi đề trong sự cảm nhận riêng ấy mà sáng tạo thế giới nghệ thuật riêng
theo chủ quan của mình, hấp dẫn cho mình và cho bạn đọc.
Nói đến vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học trước hết phải nói đến quê hương nơi có thiên nhiên, văn hoá và con người với những dấu ấn riêng biệt: phải là vùng quê
“sơn thuỷ hữu tình”, độc đáo, đẹp một vẻ đẹp rất riêng, không thể trộn lẫn với vùng khác.
Thiên nhiên của quê hương không những tạo nên vẻ đẹp mà còn như dấy lên khí thiêng
của đất và người. Trải qua hàng ngàn năm, đất và người quện bên nhau, vật vã với thiên
nhiên làm nên sự sống biến đổi không ngừng. Thiên nhiên của quê hương có tài nguyên
về văn hoá, nhân văn vô giá mà biết bao thế hệ, cuộc đời đã đổ mồ hôi, xương máu để
gìn giữ, phát triển và bảo vệ, làm nên sự sống của con người nối tiếp nhau, hòa quyện
nhau, bổ sung cho nhau. Trong sáng tác văn học, các nghệ sĩ thường lấy đó làm cảm
hứng và coi đó như một vùng thẩm mỹ riêng trong sáng tác của mình.
Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong
tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể
hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt động
lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để có được những thành quả
đó, văn hoá của một dân tộc, một vùng miền cũng như của toàn thể nhân loại từng
trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành
những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi
định hình những giá trị đã hình thành. Cũng có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng
bằng ngôn từ nghệ thuật.
Văn hoá nói chung là một khái niệm rất rộng, để tạo nên vùng văn hoá thì cần
phải có ba tiêu chí là: tộc người, môi trường tự nhiên và những biến thiên trong văn hóa lịch sử. Ba tiêu chí trên tạo nên một diện mạo để nhận diện về vùng văn hoá. Ví dụ vùng
văn hoá Kinh Bắc với chủ thể là tộc người Kinh - Việt; với người Tây Bắc là tộc người
Tày - Nùng... nhưng nói đến văn hoá thẩm mỹ thì khái niệm đã được thu hẹp lại, mang
tính chất giới hạn nội dung của văn hoá. Văn hoá thẩm mỹ chủ yếu thuộc về các lĩnh vực
nghệ thuật như: văn hoá nghệ thuật, trò chơi dân gian, phong tục tập quán, lễ hội, văn
chương nghệ thuật, sân khấu, diễn xướng, sinh hoạt ca hát... Và có thể coi đó chính là
vùng thẩm mỹ để văn học nghệ thuật có điều kiện nảy sinh và thể hiện.
14
Trong thực tế, cuộc sống hình thành văn hoá, cuộc sống nào thì văn hoá đó.
Vì vậy mới có văn hoá thị thành, văn hóa đồng bằng, văn hoá vùng miền, văn hoá
Quốc gia...
Văn học là một bộ phận của văn hoá, nó luôn phụ thuộc vào bề dày của cuộc
sống tâm thức con người trong một vùng đất thơ, văn. Vùng đất nào mang bản sắc vùng
đất đó. Nghĩa là, trong thực tế đời sống văn học, ta thường thấy mỗi nhà văn đều có một
vùng đề tài riêng để sáng tác. Tất nhiên đó là vùng mà họ ưa thích, ở đó luôn sẵn có
những thi liệu, thi đề gợi nguồn cảm hứng cho họ, và họ bắt nhịp rất nhanh để có được
những tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật cao, tạo được dấu ấn trong phong cách
sáng tạo cá nhân. Khi thoát ra khỏi đề tài ấy, thì nhà văn rất ít cơ hội để thể hiện ngòi bút
của mình, theo đó, tác phẩm trở nên nhạt nhẽo, không còn sắc nét nữa, dẫn đến hình
tượng nghệ thuật thiếu sức sống, thiếu linh hồn, bản chất thẩm mỹ trong sáng tác sẽ bị
mất thiêng, thậm chí cấu trúc văn bản trở nên rời rạc, thừa thãi, vô duyên.
Biểu trưng, biểu tượng văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương
phản chiếu của văn hoá. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh, sự biểu hiện và
các biểu trưng, biểu tượng của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là
bức tranh văn hoá dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương (tục ngữ, câu đố tục giảng thanh,
trò chơi…); là những vẻ đẹp của văn hoá truyền thống trong truyện ngắn và tuỳ bút
Nguyễn Tuân (Hoa thuỷ tiên, Nghệ thuật pha trà, Thư pháp…); là không gian văn hóa
làng quê và những phiên chợ quê trong thơ Nữ sĩ Anh Thơ; là những tín ngưỡng, phong
tục trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín
ngưỡng phồn thực, tục thờ Thần Chó đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên
đồng, hát Chầu văn, tục kết chạ, ma chay, cưới hỏi…); Tác phẩm văn học còn dẫn ta đi
đến những nguồn mạch sâu xa của văn hoá qua việc lý giải tấn bi kịch lịch sử như trong
kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay cốt cách người nông dân được đào luyện
qua những biến thiên cách mạng trong các truyện ngắn Khách ở quê ra và Phiên chợ
Giát của nhà văn Nguyễn Minh Châu…
Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật trong vùng sáng tác riêng của mình là
một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được
rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không
gian văn hoá thẩm mỹ này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật,
sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách
- Xem thêm -