ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
PHÙNG THỊ LOAN
VĂN HOÁ DÂN GIAN LÀNG CẢNH DƯƠNG
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 31 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGÔ ĐỨC THỊNH
HÀ NỘI-2009
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một trong tám làng văn vật của tỉnh Quảng Bình, Cảnh Dương như
một nét chấm phá độc đáo và ấn tượng trong bức tranh văn hoá đầy màu
sắc. Từ lâu, làng Cảnh Dương với những vẻ đẹp rất riêng cứ lặng thầm toả
sáng, năm tháng trôi qua người dân bên bến Loan giang vẫn luôn tự hào về
con người và cảnh vật nơi đây. Theo dòng chảy của thời gian, Cảnh Dương
là minh chứng hùng hồn cho sức sống tiềm tàng và đầy khát vọng. Nếu như
ai đó nhắc đến Cảnh Dương với thời kz oanh liệt chống giặc ngoại xâm, sẵn
sàng xả thân khi Tổ quốc cần thì Cảnh Dương còn được biết đến với những
giá trị văn hoá đặc trưng của một làng ven biển miền Trung đầy nắng gió.
Làng Cảnh Dương với bề dày lịch sử hơn 366 năm, trải qua bao thăng
trầm của lịch sử, từ thời kz Trịnh Nguyễn phân tranh cho đến hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Cảnh Dương vẫn đứng vững, hiên
ngang. Không những khẳng định mình trong những khó khăn, thử thách,
Cảnh Dương còn giữ gìn và sở hữu cho mình kho tàng văn hoá hết sức giá
trị. Nhiều di sản, nhiều truyền thống văn hoá vẫn được lưu truyền và bảo
tồn cho đến hôm nay. Một trong những công trình được đánh giá là "công
trình văn hoá mang tính tầm cỡ quốc gia thu nhỏ, thật hiếm thấy..." [68,
200] hay "độc nhất vô nhị" [43, 368], đó chính là các công trình bi k{ gồm:
Khai khẩn thất công bi k{, Cảnh Dương xã từ vũ bi k{, Văn bia Hội tích bi k{,
Bốn xã khai khẩn truyện k{... "Công trình văn bia của một làng xã như vậy
quả thật là lớn, có tác dụng khuyến học, khuyến đức, khuyến dân theo
2
thuần phong mỹ tục rất sâu sắc, làm nên truyền thống tốt đẹp cho địa
phương..."[68, 200]. Chúng ta còn có thể tìm thấy ở Cảnh Dương những giá
trị kết tinh, những nét tiêu biểu của văn hoá dân gian nói chung và văn hoá
dân gian ven biển nói riêng.
Cảnh Dương là làng biển có khá nhiều công trình kiến trúc mang tính
quy mô và bề thế như đình, chùa, miếu... Đây là những công trình có giá trị
nghệ thuật thẩm mỹ cũng như giá trị tinh thần to lớn, nhưng đáng tiếc bom
đạn chiến tranh đã phá huỷ, nay chỉ còn là phế tích. Ngoài ra người dân nơi
đây có đời sống tín ngưỡng khá phong phú như tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên, thờ Thành hoàng làng, thờ cúng Cá Ông... Đặc biệt ít có làng biển nào
tổ chức nhiều lễ hội trong năm như làng Cảnh Dương. Các lễ hội như lễ tế
Thành hoàng làng, Lễ tế Cá Ông, lễ hội chùa, hội bơi trải... diễn ra hàng năm
tạo nên đời sống tinh thần phong phú cho cộng đồng dân cư. Không chỉ
dừng lại ở đó, làng chài trải mình bên bến sông Loan này còn có kho tàng
ngữ văn dân gian đa dạng và đậm chất dân dã với nhiều thể loại khác nhau
như ca dao, tục ngữ và truyện kể... Tất cả tạo nên bức tranh nhiều màu sắc,
rất sinh động và đậm chất biển.
Văn hoá dân gian Cảnh Dương với những nét đặc trưng khá độc đáo
sẽ làm giàu kho tàng văn hoá dân gian Quảng Bình nói riêng và Việt Nam nói
chung, góp phần tô đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Việc nghiên cứu văn hoá
dân gian làng Cảnh Dương sẽ là căn cứ khoa học góp phần vào việc bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống. Điều đó càng có { nghĩa
hơn trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với xu
thế hội nhập quốc tế, khi những giá trị văn hoá truyền thống đang có xu thế
bị mai một và rất cần được bảo tồn, phát triển hơn bao giờ hết. Đó cũng
chính là l{ do mà tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài này.
3
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới thời Nguyễn, Cảnh Dương đã được nhắc đến trong tác phẩm
Đại Nam nhất thống chí với những nét phác hoạ về sự trù phú và tên tuổi
những người học hành đỗ đạt được ghi danh. Cảnh Dương từ thời kz này
đã được biết đến với những tiềm năng về biển, về truyền thống hiếu học.
Đó cũng chính là niềm tự hào của người Cảnh Dương từ xưa đến nay.
Học giả Nguyễn Kinh Chi với tác phẩm Du lịch Quảng Bình đã đưa mọi
người đến với Cảnh Dương bằng nghệ thuật hết sức khéo léo: “Làng này ở
gần biển, dân cư trù mật và giàu có, họ sinh nhai về nghề biển, nước mắm
của họ ngon nổi tiếng, mỗi năm chở ra ngoài Bắc buôn bán thu về trên
mười vạn bạc…” Có lẽ chỉ với một vài câu giới thiệu nhưng ít nhiều đã nói
lên được những nét riêng của làng Cảnh Dương, từ vị trí địa l{, dân cư,
nghề nghiệp, đặc sản và cả những con người nơi đây. Ngoài ra tác phẩm
còn cho người đọc đến với lệ cống mắm Hàm Hương, một trong những câu
chuyện được lưu truyền trong làng từ rất lâu. Mặc dù những thông tin về
làng Cảnh Dương chỉ khiêm tốn trong rất nhiều những địa danh khác nhưng
có lẽ đây là một trong những dòng ghi chép đầu tiên về cảnh vật, cuộc sống
và con người nơi đây.
Ở miền Nam trước năm 1975, những người Quảng Bình xa quê
hương đã xuất bản tập san Quảng Bình quê tôi. Trong tập san này đã có
một số bài viết về vùng Ròn (nước non Quảng Bình, Xứ Ròn, chợ Ba Đồn,
nhân vật Cảnh Dương…) Tuy nhiên những bài viết này chỉ mang tính chất
giới thiệu sơ lược về một vài sản phẩm đặc trưng của miền quê nơi đây như
4
cá biển, thịt heo, mắm nêm… hoặc ghi lại các câu ca dao, bài thơ được lưu
truyền trong dân gian.
Một trong những tác phẩm không thể không kể đến viết về Cảnh
Dương đó chính là tập sách Cảnh Dương chí lược. Có thể nói đây là một
trong những tác phẩm đề cập và giới thiệu một cách toàn diện và sâu sắc về
Cảnh Dương. Cảnh Dương chí lược được biên soạn bởi tác giả Trần Đình
Vĩnh, xuất bản năm 1993. Quyển sách càng có { nghĩa hơn khi nó ra đời
nhân dịp kỷ niệm 350 năm ngày thành lập làng, vì vậy nó như một món quà
hết sức có { nghĩa đối với người dân Cảnh Dương nói chung và Quảng Bình
nói riêng. Tác phẩm là một công trình kết tinh những tình cảm, tâm huyết
của một người con của làng và được viết, trình bày một cách rất khoa học.
Đến với Cảnh Dương chí lược, người đọc như được chiêm ngưỡng
một bức tranh sinh động về cuộc sống và con người nơi đây. Đây được
đánh giá là một trong những đóng góp rất lớn của tác giả trong việc sưu
tầm, giới thiệu và giữ gìn những nét văn hoá đặc sắc của làng. Luận văn sẽ
kế thừa nhiều kết quả nghiên cứu của công trình này.
Viết về làng Cảnh Dương, chúng ta cũng không thể bỏ qua tác phẩm
Kể chuyện làng biển Cảnh Dương của tác giả Nguyễn Viễn. Có thể nói so với
Cảnh Dương chí lược, tác phẩm không đưa ra được nhiều tư liệu qu{ nhưng
quyển sách này đã giới thiệu về lịch sử hình thành của làng, các ngành
nghề, các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo cũng như những thành
tích trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước…
Như vậy có thể nói Cảnh Dương chí lược và Kể chuyện làng biển Cảnh
Dương là hai tác phẩm có cách viết khác nhau nhưng tính đến nay đây là
hai tác phẩm cung cấp khá nhiều thông tin về làng Cảnh Dương. Chúng ta
5
có thể tìm thấy ở đây lịch sử hình thành, những sinh hoạt kinh tế, văn hoá,
xã hội, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm… Tuy nhiên hai tập sách
chỉ dừng lại ở việc giới thiệu chứ chưa đi sâu vào giải thích, đặc biệt là về
văn hoá dân gian.
Về văn hoá dân gian làng Cảnh Dương phải kể đến một tác phẩm
được xây dựng khá công phu của tập thể tác giả của Viện nghiên cứu văn
hoá dân gian: Văn hoá dân gian làng ven biển (Từ trang 541 đến trang 600)
được xuất bản năm 2000. Tác phẩm đã đi sâu tìm hiểu khá kỹ văn hoá dân
gian của các làng ven biển Việt Nam, trong đó có Cảnh Dương. Có thể nói
các tác giả đã hết sức cố gắng để đưa ra một cái nhìn tổng quát về văn hoá
dân gian của các làng ven biển Việt Nam và Cảnh Dương là một trong
những làng được tìm hiểu và nghiên cứu rất công phu. Ở tác phẩm này độc
giả có thể hình dung về các giá trị, các nét văn hoá rất riêng của Cảnh
Dương, từ thiên nhiên con người cho đến các lĩnh vực khác nhau của văn
hoá dân gian như văn học dân gian, các di tích kiến trúc cổ truyền, lễ hội –
tín ngưỡng, diễn xướng dân gian, tri thức dân gian… Chúng ta có thể bắt
gặp ở đây kho tàng văn hoá dân gian phong phú và giàu chất biển, tập thể
tác giả đã có những nhận xét khá ưu ái cho vùng đất này: “Với thế đứng
mặt hướng ra biển, lưng tựa vào núi người dân Cảnh Dương nói riêng và
miền Trung nói chung đã làm nên những kz tích vĩ đại về quân sự, kinh tế
cũng như văn hoá. Thời gian cứ trôi đi nhưng hồn thiêng sông núi, hào khí
dân tộc vẫn luôn lắng đọng trên mảnh đất này” *56, 599]. Tuy nhiên trong
phần nghiên cứu văn hoá dân gian làng Cảnh Dương, các tác giả chỉ mới
dừng lại ở mức độ khái quát, chưa đi sâu phân tích kỹ, l{ giải vấn đề cũng
như có sự đối chiếu, so sánh với văn hoá dân gian các làng khác trong tỉnh
6
Quảng Bình và các làng ven biển của các vùng miền khác để làm nổi bật
những giá trị văn hoá đặc trưng của Cảnh Dương.
Năm 2001, hai tác giả Văn Lợi và Nguyễn Tú đã cho ra mắt tập sách
Địa chí văn hoá miền biển Quảng Bình, trong đó tác phẩm có giới thiệu về
các làng ven biển Quảng Bình. Song các tư liệu mà tác phẩm cung cấp chủ
yếu dựa vào nội dung của Cảnh Dương Chí lược. Mặc dù vậy nhưng tác
phẩm đã cho độc giả cái nhìn khá đầy đủ và toàn diện về các làng biển
Quảng Bình như Ngư Thuỷ, Bảo Ninh, Quang Phú, Thanh Trạch…
Một công trình nghiên cứu khác cũng không thể không nhắc đến đó
là đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp bộ của tác giả Th.S Trần Hoàng
với nội dung Tìm hiểu sinh hoạt văn hoá dân gian cổ truyền làng biển Cảnh
Dương. Đề tài được hoàn thành năm 2003 với sự dày công nghiên cứu về
văn hoá dân gian làng Cảnh Dương. Công trình đã thể hiện sự đầu tư về
thời gian và công sức rất lớn của tác giả khi đã đưa ra những nghiên cứu rất
có giá trị, đặc biệt là phần phụ lục về văn học dân gian và những tài liệu qu{
như Bổn xã khai khẩn truyện k{, khoán lệ cựu dịnh, tân tăng khoán lệ, kim
tham nghĩ khoán lệ, chước nghĩa khoán lệ. Ngoài ra đề tài còn đưa ra
những nhận xét cũng như những giải pháp kế thừa và phát huy di sản văn
hoá dân gian cổ truyền. Song những nội dung nghiên cứu của đề tài như
một bức tranh tổng thể, trong đó đề cập đến hầu hết các vấn đề như sinh
hoạt văn hoá vật thể, phi vật thể… mà không đi sâu nghiên cứu kỹ từng loại
hình văn hoá dân gian.
Ngoài ra, Cảnh Dương còn được nhắc đến trong tác phẩm được ra
đời trong thời gian gần đây đó là Những nét đẹp về văn hoá cổ truyền
Quảng Bình của tác giả Nguyễn Tú. Trong tác phẩm này, chúng ta có thể tìm
7
thấy rất nhiều thông tin về những nét văn hoá đặc trưng của Quảng Bình,
trong đó Cảnh Dương được giới thiệu về những sinh hoạt văn hoá dân gian
độc đáo như tục bơi trải các làng biển (từ trang 620 đến trang 621).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Tìm hiểu một số hiện tượng văn hoá dân gian độc đáo của
làng Cảnh Dương, từ đó có sự phân tích, đi sâu l{ giải các hiện tương văn
hoá đó. Đồng thời có sự so sánh để thấy được những nét tương đồng và
khác biệt của văn hoá dân gian làng Cảnh Dương so với các làng khác; tìm ra
các giải pháp để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá dân gian trong
bối cảnh hiện nay.
Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
- Khảo sát, miêu tả một số hiện tượng văn hoá dân gian đặc trưng
của làng Cảnh Dương.
- Phân tích, so sánh, tìm ra những nét chung và riêng trong từng hiện
tượng văn hoá đồng thời có sự nhận xét, đánh giá những hiện tượng văn
hoá đó theo sự diễn trình lịch sử.
- Từ sự phân tích, so sánh để rút ra những giá trị, đặc trưng của các
hiện tượng văn hoá dân gian làng Cảnh Dương, góp phần vào quá trình bảo
tồn, làm giàu và phát huy những giá trị các hiện tượng văn hoá đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được xác định là văn hoá dân gian làng Cảnh
Dương. Đối tượng khảo sát là những hiện tượng văn hoá dân gian tiêu biểu
của làng Cảnh Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, luận văn tập trung nghiên cứu địa bàn làng (xã) Cảnh
Dương, thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Về nội dung, vì đề tài luận văn khá rộng nên tác giả chỉ xin được khảo
sát một số hiện tượng văn hoá dân gian tiêu biểu của làng Cảnh Dương, cụ
thể như sau: Trong phần kiến trúc dân gian, chỉ khảo sát các công trình như:
Đình Lớn; Chùa làng; Miếu thờ cá Ông. Trong phần tín ngưỡng dân gian, chỉ
khảo sát các hiện tượng: Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng; Tín ngưỡng thờ
cúng cá Ông. Trong phần lễ hội dân gian, chỉ khảo sát các hiện tượng: Lễ tế
Thành hoàng làng; Hội bơi trải; Hội đánh cờ người; Hội cơm thi, cơm cần.
Trong phần diễn xướng dân gian, chỉ khảo sát các hiện tượng: Hò chèo cạn;
Hát ru. Trong phần ngữ văn dân gian, chỉ khảo sát chủ yếu một số truyện kể
dân gian và văn vần dân gian. Trong phần tri thức dân gian, ngoài những nội
dung đã đề cập trong phần ngữ văn dân gian, tác giả khảo sát về nghề
truyền thống và văn hoá ẩm thực.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
9
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác- Lênin về kế thừa vốn văn hoá truyền thống cũng như quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc giữ gìn và phát huy vốn di sản
văn hoá dân tộc để xây dựng nền văn hoá mới.
5.2. Phương pháp cụ thể
Luận văn sử dụng các phương pháp chuyên ngành về nghiên cứu văn
hoá dân gian như phương pháp điền dã thực địa, phương pháp tiếp cận hệ
thống, phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ nét các hiện tượng văn hoá dân gian đặc
trưng và tiêu biểu của làng Cảnh Dương, đi sâu vào l{ giải, so sánh và rút ra
một số nhận xét. Từ đó có cái nhìn tổng thể về văn hoá dân gian Cảnh
Dương trong bức tranh chung văn hoá dân gian Quảng Bình.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu về văn hoá dân gian của các làng ven biển ở Quảng Bình và các tỉnh
miền Trung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận
văn được kết cấu ba chương, mười một tiết.
10
11
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ LÀNG CẢNH DƯƠNG
1.1. Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Trên đường thiên l{ Bắc Nam, qua đèo Ngang chưa đầy 10km về phía
Đông Nam, đứng trên cầu Ròn nhìn về hướng biển, chúng ta sẽ thấy hiện ra
quang cảnh đầy ấn tượng về một vùng quê trù phú xinh đẹp nằm duyên
dáng bên bờ biển thơ mộng, tấp nập thuyền bè vào ra. Đó là làng Cảnh
Dương, một trong bát danh hương của Quảng Bình. Tác giả Nguyễn Tú
trong tác phẩm Những nét đẹp văn hoá cổ truyền Quảng Bình đã nhận định:
Làng Cảnh Dương "là một làng nổi tiếng văn vật, làng học, làng nghề, làng
chiến đấu, một làng có vị trí phong thuỷ hết sức phong phú". Sở dĩ khẳng
định như vậy vì Cảnh Dương ở vào vị trí địa l{ khá độc đáo, có cảnh quan
sông núi, có biển bao la ôm ấp...
Làng Cảnh Dương nằm trên cửa biển Di Luân với toạ độ:
170,50 - 170,52 vĩ Bắc
1060,26 - 1060,27 kinh Đông
Cảnh Dương được ví như "một con thuyền đang thả neo trên sông
nước" [73,8+ hay như một bán đảo nhỏ.
- Phía Đông là biển cả mênh mông bao bọc
- Phía Tây là con Kênh Xuân Hưng lịch sử
12
- Phía Bắc là sông Ròn
- Phía Nam là bãi cát vàng trải dài
Địa thế này còn được phác họa trong Văn tế tổ với những câu thơ
khá mượt mà:
"Phía đông ngọc đổng chầu về
Rùa vàng mũi vích nằm kề phía Tây
Bảng vàng phía Bắc gần đây
Phượng Hoàng chất ngất núi xây nghìn trùng
Phía Nam bãi cát một vùng
Như hình xa thổ vốn cung chầu về
Chung quanh nước bọc ba bề
Nghiên tần, bút tốn nằm kề Loan giang"
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Sông Loan núi Phượng hữu tình
Bảng vàng ấn ngọc phân minh chầu về
Nếu là người con của Cảnh Dương, hoặc đã từng đến Cảnh Dương
không ai không biết đến hai câu thơ đầy { nghĩa này. Đây là những dòng thơ
đã từng được khắc trên một văn bia dựng ở đầu làng, trên đường đi vào
cổng làng trước năm 1945. Không phải ngẫu nhiên mà câu thơ lại được đặt
13
vào vị trí trang trọng đó, phải chăng nó thay lời giới thiệu, như một lời nhắn
gửi hay { nghĩa hơn là một thông điệp muốn gửi gắm đến tất cả những ai
đã, đang và sẽ đến Cảnh Dương. Bởi ẩn chứa trong đó không chỉ là cảnh
vật, con người mà cả tâm hồn của người dân nơi đây. "Đây là cảnh quan
trên bến dưới thuyền, là cảnh quan sông núi âm dương hoà hợp trong bức
tranh sơn thuỷ" [73,14+. Hình ảnh "sông Loan", "núi Phượng" tạo cho Cảnh
Dương vẻ thơ mộng, độc đáo và đầy sức quyến rũ, tạo nên cảm hứng bất
tận cho các nhà văn, nhà thơ: "Cái đẹp! Ôi, cái đẹp, đến các bậc thánh như
cụ Khổng Tử còn mê cái đẹp, huống chi các cụ nho sĩ nhà ta" *74, 29+. Cái
đẹp chẳng phải ở đâu quá xa vời mà chính là đây, là non xanh, là nước biếc,
là sự kết hợp hài hoà đến ngỡ ngàng khiến các bậc hiền tài không thể không
viết thành thơ. "Sông Loan, núi Phượng như một bức tranh đẹp, hài hoà và
cân xứng làm nên cảnh sắc riêng của xứ Ròn, mà làng Cảnh Dương chính là
một điểm son rực rỡ trong bức tranh thiên nhiên kz thú đó" *27,9].
Sông Loan hay còn được gọi là sông Ròn, sông Di Luân, sông Nể
Giang. Mặc dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng "tên gọi nào cũng mang
dấu ấn văn hoá đẹp" [68, 139]. Cụ Tố Như Nguyễn Du khi đương chức cai
bạ Quảng Bình thời Gia Long, nhớ quê Tiên Điền ngoài huyện Nghi Xuân, Hà
Tĩnh, đến Di Luân đứng bên sông Ròn làm thơ chữ Hán cũng đành gọi tên
sông theo bọn người Hán thuở quận Nhật Nam, bộ Giao Chỉ là Nể Giang:
Nể giang trào trướng bạch hàm thiên.
(Sông Nể lồng lộng bóng trời trắng xoá khi thuỷ triều lên)
Sông Ròn là một trong năm con sông lớn của Quảng Bình và là con
sông ở miền Trung phát nguyên từ dãy Hoành Sơn. Phải chăng vì thế mà
người ta ví sông Ròn chính là "người bạn tình" của dãy Hoành Sơn? Tuy là
14
một con sông lớn nhưng sông có chiều dài chỉ khoảng 30 km, lưu vực sông
khoảng 260 km2. Sông có hai nguồn chính là hai con suối tạo thành, một
nguồn là khe Hùng Sơn bắt đầu từ khe Chùa Thông, vùng Đá Đen (xã Quảng
Hợp), nguồn khác là khe Thai bắt đầu từ vùng Đá Bạc (xã Quảng Kim). Sông
chảy qua các xã Quảng Kim, Quảng Châu, Quảng Tùng, Quảng Phú rồi ra
biển qua cửa Cảnh Dương. Cửa sông hẹp, sông lại cạn nên không thuận lợi
cho các loại thuyền bè ra vào (chỉ thích hợp với một số loại thuyền nhỏ).
Sông Ròn là người bạn tri kỷ, gắn bó thân thiết với người dân nơi đây.
Tự bao giờ, theo dòng chảy của tự nhiên, con sông như nhịp cầu nối liền
những con người, vùng đất lại với nhau và hơn thế, nó đã chảy vào tâm hồn
mỗi người những tìm cảm, sự sẻ chia và cộng cảm. Đâu đó đã không còn
khoảng cách giữa con người và thiên nhiên, tất cả như hài hoà, đan xen.
Người Cảnh Dương đã không biết bao nhiêu lần, trên con sông này, họ tìm
đến những vùng đất khác để làm ăn, buôn bán, đánh bắt tôm, cá... và
không hiểu từ khi nào, hình ảnh con sông đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi
người, như một nét văn hoá khó phai mờ.
Trong bức tranh tuyệt đẹp của tạo hoá, sông Ròn sẽ trở nên mềm
mại hơn, thơ mộng hơn khi xuất hiện dãy Hoành Sơn sừng sững, hùng vĩ và
đầy sức sống. Vì thế Hoành Sơn được ví như con chim Phượng đang mạnh
mẽ dang rộng đôi cánh: "chim đang bay ra biển Đông, hai cánh xoè ra hai
bên. Cánh trái của chim là phía Hà Tĩnh, cánh phải là Quảng Bình, chỗ cao
nhất của chim có bình độ 1.089 m, và nơi mỏ chim cúi xuống biến là đỉnh
Đèo Ngang (cũ) có cổng Hoành Sơn Quan, phân chia địa giới hai tỉnh". [68,
47].
15
Hoành Sơn có chiều dài 129km, đỉnh cao nhất là đỉnh Chóp Chài cao
1.044 km ngăn cách giữa hai vùng Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên. Đèo Ngang
và Hoành Sơn được xem là "địa đầu bình phong cho cả hai miền Bắc và
Nam - Hoành Sơn nhất đái - cho nên vua Minh Mạng cũng lấy Hoành Sơn
làm trường thành án ngữ - dĩ Hoành Sơn vi án" *73,15+. Nơi đây đã từng
diễn ra trận chiến giữa hai nước Việt Chăm và "vết tích Lâm Ấp vẫn còn in
dấu" [27, 9+. Đại Nam nhất thống chí ghi:
"Thạch thành Lâm ấp trúc
Lục lộ Tử An bình"
Dịch nghĩa: Thành đá Lâm Ấp đắp
Đường bộ Tử An xây (Bùi Quang dịch)
Trên đỉnh Đèo Ngang hiện vẫn sừng sững uy nghi một cổng thành
Hoành Sơn Quan. Về gốc tích của Hoành Sơn Quan, tác giả Nguyễn Tú nhận
định: "Năm thứ tư, đời vua Minh Mạng, Quảng Bình bộ tâu nói: Hoành Sơn,
chỗ giáp giới tỉnh Quảng Bình với Hà Tĩnh, núi cao, lại giáp biển là chỗ quan
trọng, xin đặt quan ải ở đây. Vua nghe lời tâu mà đặt tên là Hoành Sơn
Quan, sai công bộ Thị lang Đoàn Công Phú đốc xuất việc làm và dụ rằng:
Nay phương Nam phương Bắc họp thành một nhà, bốn mặt biên thuz đều
không xảy ra việc gì, dải núi Hoành Sơn mà đặt thêm quan ải để xét hỏi bọn
gian phi, không cần cao rộng lắm..." [68, 49].
Đến tháng 3 năm 1842, vua Thiệu Trị, con vua Minh Mạng, ông vua
thứ ba triều Nguyễn, ngự giá ra Bắc đón nhận lễ sắc phong của Hoàng đế
Trung Quốc ngang qua Đèo Ngang đã làm bài thơ vịnh cổng thành, khắc vào
bia bên cạnh cửa như sau:
16
Nhất đái miên thành hạn tiết san
Uyển diên khởi phục hải tần quan
Dịch nghĩa:
Hoành Sơn một dải núi như dải lụa chắn ngang
Nhấp nhô trùng điệp uốn khúc bên bờ biển
Hoành Sơn quan không chỉ có { nghĩa về mặt lịch sử mà nó còn kết
tinh giá trị văn hoá vô cùng qu{ giá. Mặc dù trải qua biết bao thăng trầm
của lịch sử, chứng kiến biết bao đổi thay của đất nước, nhưng Hoành Sơn
quan không vì thế mà nhạt phai trong tâm thức của mỗi người. Đến tận
hôm nay, khi đặt chân đến chốn này, tận mắt chứng kiến sự tồn tại, thách
thức với thời gian của Hoành Sơn quan - một trong những công trình được
đánh giá là "chắc chắn hơn cả những cổng thành chốn kinh kz" [70, 49]
chúng ta mới hiểu hết sức sống tiềm tàng đang ẩn chứa đâu đây: "... trải
bao nhiêu gió núi, mưa ngàn, chịu đựng trước biết bao cơn bão ác liệt, cả
bão trời lẫn bão bom đạn của địch mà vẫn vững chãi, chắc chắn, thi gan
cùng tuế nguyệt, thách đố với thời gian. Đứng trước Hoành Sơn Quan, nhìn
lên vòm cửa cao ngất, tưởng như núi non xung quanh đều thấp xuống mà
tự thấy con người lớn lên, vít được tầng mây, nhìn suốt được biển trời bát
ngát, mà động lòng hoài cổ, tưởng tượng ra những điều kz diệu!" [70, 49].
“Việc xây dựng Hoành Sơn Quan, người ta không hiểu, người xưa, với hai
bàn tay không, lưng trần chân đất, không một tấc sắt thép, máy móc, họ
làm sao đưa lên ngọn núi này một khối lượng đá gạch, vôi vữa, bằng con
đường bậc thang tưởng như chọc trời này, để xây một cổng thành, đến nay
trải hơn 150 năm, vẫn còn vững chắc tưởng như chưa hề hư hỏng” *68, 50].
17
Hoành Sơn không chỉ có { nghĩa quan trọng về mặt kinh tế đối với
người dân Cảnh Dương nói riêng và người dân vùng phía Bắc Quảng Bình
nói chung mà còn rất đỗi thiêng liêng đối với Cảnh Dương: "Nằm trước mặt
làng, Hoành Sơn cách Cảnh Dương (nơi gần nhất) 4 cây số, là một kz quan
mà thiên nhiên ban tặng cho con người, miền đất "Địa linh, nhân kiệt".
Người Cảnh Dương xưa đã chọn làm hướng làng.
"Tả Thanh long: Di lộc, Di Luân; hữu Bạch Hổ: Trung Hoà, Cương
giáng"
"Trái thi vạn con nước, phải thu về vạn ngọn đá ngầm"
"Di Hoành sơn vi án" (Trích Phạm tộc phả k{)
Con người tắm mình trong cảnh quan sông núi, cảnh quan sông núi
tiềm ẩn trong lòng người đã hình thành một tình cảm đẹp, một triết l{ đẹp,
một lối sống đẹp - đấy là niềm tự hào chính đáng về quê hương". *73,
11,12]
Phải, làm sao không tự hào được khi Cảnh Dương từ xưa đến nay
như đẹp hơn, rạng ngời hơn và anh linh hơn bởi sở hữu riêng cho mình một
vị trí phong thuỷ hết sức độc đáo: có sông, có núi và biển cả bao la...
Sẽ thật là khiếm khuyết nếu nhắc đến Cảnh Dương mà chúng ta
không nói đến sự hiện hữu của biển trong đời sống kinh tế và văn hoá của
nhân dân Cảnh Dương. Ngay từ những năm đầu mới lập làng, quay mặt ra
biển là sự lựa chọn được đánh giá là "có tầm nhìn" của các bậc tiền hiền,
điều đó đã góp phần đưa Cảnh Dương nhanh chóng trở thành một làng
biển trù phú và thịnh vượng bậc nhất của châu Bố Chính xưa. Phía Đông của
18
làng được bao bọc bởi mênh mông biển cả, đây là vùng biển thuộc vịnh Bắc
Bộ với sự đa dạng về địa hình như bãi ngang, rạng ngầm, hải đảo...
Vùng biển Cảnh Dương có thể chia làm 2 vùng với đặc điểm hoàn
toàn khác nhau, vùng cửa lạch Ròn lên phía Bắc và vùng cửa lạch Ròn xuống
phía Nam.
Vùng cửa lạch Ròn lên phía Bắc là vùng có địa hình phức tạp với khá
nhiều đảo, rạng ngầm... hay còn gọi là vùng biển san hô. Do có dãy Hoành
Sơn đâm ngang ra biển, thường là đá hoa cương nham thạch cứng - là tàn
dư của các kiến tạo của dãy Trường Sơn - tạo nên các mũi đá cách nhau
khoảng vài ba km. Tính từ hướng Bắc vào có các mũi biển với những tên gọi
ấn tượng, dân dã như Mũi Đao, Mũi Độc, Mũi Ông, Mũi Rồng. Sở dĩ có
những tên gọi này là xuất phát từ hình dáng của các mũi biển, theo quan sát
của người dân thì Mũi Đao có hình giống thanh đao, Mũi Độc giống hình
con rắn, Mũi Rồng giống hình đầu rồng. Giản đơn vậy thôi nên rất dễ nhớ,
dễ đi vào lòng người bởi tính mộc mạc và gần gũi của nó. Ngoài ra, phần
cuối của dãy Hoành Sơn đâm ra biển tạo thành những hình dáng khác nhau
của các mỏm núi: có nơi vách núi thẳng đứng sừng sững như một bức
thành cao với chân móng cắm sâu xuống biển, có nơi các hòn núi nhỏ rải
rác, nổi lên trên mặt nước khiến người ta liên tưởng đến hình thù các con
vật như "hoặc như trầu nằm, hoặc như ngựa nhảy, hoặc như chim lượn, én
bay, lại có những mỏm núi có hang sâu nằm sát mép nước, mỗi lần sóng vỗ
vào trắng xoá như con quái vật phun nước ra... [68, 197].
Nối liền giữa các mỏm đá là bãi cát trắng phẳng lz, trắng tinh viền
quanh chân núi như "sân chơi của thiên nga", là nơi l{ tưởng cho những ai
19
muốn nghỉ chân để chiêm ngưỡng quang cảnh nơi đây, bởi ai đã từng qua
đây đều thấy lòng mình ngây ngất bởi cảnh non xanh nước biếc" [73, 14].
Ở phía nam của Mũi Rồng, dưới chân đèo Ngang, biển lấn sâu hình
thành một cái vũng gọi là Vũng Chùa - là vùng biển kín gió nên đây là nơi l{
tưởng để tàu thuyền trú ngụ khi trời trở gió. Người Cảnh Dương không ai
không thuộc hai câu thơ:
Đông Bắc thì dựa Vũng Chùa
Nồm Nam dựa Chụt bốn mùa như ao
Đứng từ Vũng Chùa phóng tầm mắt ra xa, sẽ hiện lên hình ảnh của ba
hòn đảo với thế đứng chân vạc là Hòn Nồm, Hòn La và Hòn Cỏ. Đảo La (hay
còn gọi là Đảo Yến) cách bờ biển khoảng 3 - 4 km, là con mắt tiền tiêu của
cửa ngỏ vùng biển phía Bắc Quảng Bình.
Từ cửa biển Cảnh Dương nhìn ra khơi xa, còn có một hòn đảo gọi là
Hòn Ông. Hòn Ông còn có tên gọi khác là Hòn Gió, sở dĩ có tên gọi này là vì
hình dạng của nó thường thay đổi theo gió nước, bầu trời. Có khi có hình
chóp nón, có khi giống hình cỗ xôi, cái nấm...
Ngoài Vũng Chùa, các mỏm đá, hòn đảo..., vùng biển này còn có
những rạng ngầm dài hàng chục km với đặc điểm độc đáo. Đó là những
rạng đá san hô có nhiều hang hốc, nhiều tầng, nhiều lớp vì thế đây là nơi
trú ngụ của nhiều loài cá, tôm, cua... Đặc biệt hơn cả là Rạng Lố (Hòn Lố)
được ví là "toà lâu đài có nhiều biệt thự trên con đường giao lưu của các
luồng cá". Vì thế người dân Cảnh Dương có câu tục ngữ: "Tháng tám Hòn
La, tháng ba Hòn Lố". Tháng ba là tháng mà có nhiều rong rêu nhất, vì thế
rất nhiều loài cá qu{ hội tụ về đây sinh sôi, nảy nở như cá Tho, cá Dưa, cá
20
- Xem thêm -