Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng quan điểm của đảng về xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộ...

Tài liệu Vận dụng quan điểm của đảng về xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong xây dựng văn hóa kinh doanh ở việt nam hiện nay

.DOC
27
1639
63

Mô tả:

BÀI THẢO LUẬN NHÓM 7 ĐỀ TÀI Vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. MỤC LỤC A. Lời mở đầu B. Nội dung I. Cơ sở lý luận 1. Văn hóa và vai trò của nó đối với sự phát triển của con người và xã hội. a. Thuộc tính và định nghĩa của văn hóa. b. Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. c. Quan niệm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc 2. Văn hóa kinh doanh và nền văn hóa kinh doanh là gì? a. Văn hoá kinh doanh b. Nền văn hóa kinh doanh. II. Thực trạng xây dựng nền văn hóa kinh doanh ở nước ta hiện nay 1. Tại sao phải xây dựng nền văn hóa kinh doanh? 2. Thực trạng nền văn hóa kinh doanh ở nước ta a. Đặc điểm của nền văn hóa kinh doanh ở nước ta qua từng giai đoạn b. Thành tựu và hạn chế của văn hóa kinh doanh Việt Nam 3.Chiến lược xây dựng nền văn hóa kinh doanh ở Việt Nam C. Kết luận A. LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự định hướng của nhà nước đi kèm xu thế toàn cầu hóa, việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phải luôn đi kèm với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Sở dĩ cần phải xây dựng một nền văn hóa tiên tiến để chúng ta không tụt hậu so với thế giới, nhưng cần giữ vững bản sắc văn hóa của dân tộc để không bị mất đi những giá trị đích thực của dân tộc ta. Mỗi dân tộc trên thế giới có nền văn hóa của riêng mình. Khi tất cả đã mất, văn hóa là cái sẽ còn lại, và nó là cái để phân biệt dân tộc này với dân tộc kia. Văn hoá đóng góp vai trò điều tiết tinh thần, góp phần đắc lực vào việc khai thác những tích cực, hạn chế những tiêu cực của mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong xã hội, văn hoá góp phần h ì n h t h à n h m ộ t c o n đ ư ờ n g p h á t t r i ể n p h ù h ợ p v ớ i đ ặ c đ i ể m c ủ a d â n t ộ c v à x u hướng phát triển của thế giới. Gần đây các học giả quốc tế đã nghiên cứu nhiều về các yếu tố thành công của các nước có nền công nghiệp mới (Wics) đang phát triển trong khu vực Đông Á - Đông Nam Á (là những con rồng – con hổ trong phát triển kinh tế). Sự thành công và năng động đó được xác nhận là bắt nguồn từ các yếu tố văn hoá truyền thống, trong đó tính cộng đồng, tính ý thức dân tộc thể hiện cao trong quan hệ kinh doanh. Và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam với rất nhiều các quan hệ kinh tế đan xen nhau bên cạnh mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều mặt tiêu cực làm nảy sinh các hành vi kinh doanh thiếu đạo đức – phi văn hoá, chạy theo lợi nhuận ảnh hưởng đến văn hoá kinh doanh, đến các giá trị kinh doanh nền tảng của nền kinh tế thị trường – làm các giá trị đó bị đảo lộn, đe doạ sự bất ổn cho hoạt động kinh tế, chính vì tính cấp thiết của sự xuống cấp thang giá trị đó. Văn hoá kinh doanh là những phạm trù rộng lớn có nhiều mối quan hệ t á c đ ộ n g q u a l ạ i h ế t s ứ c đ a d ạ n g v à p h ứ c t ạ p c ho nên bài làm có thể có nhiều hạn chế nhất định. Nhóm em mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng quý báu của các bạn, cùng các thầy cô. B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận 1. Văn hóa và vai trò của nó đối với sự phát triển của con người và xã hội. a. Thuộc tính và định nghĩa của văn hóa Theo Edouard Herriot nhận xét: “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”. Vậy để nhận diện văn hóa là gì, ta cần vạch ra được thuộc tính của nó.  Thứ nhất: Văn hóa là cái thuộc tính bản chất của con người, chỉ có ở loài người và do con người sinh ra. Văn hóa dùng để chỉ đặc điểm và nhân tố nhân tính, nhân văn chung của loài người, nó có trong tất cả các mối quan hệ, hoạt động và sản phẩm của con người.  Thứ hai: Đối với một cộng đồng, dân tộc, văn hóa luôn có tính đặc thù, nó được thể hiện ra như một kiểu sống ( lối sống kiểu ứng xử và hành động… ) riêng biệt và ổn định của họ trong lịch sử, nó có tính di tồn và qua nhiều thế hệ.  Thứ ba: Cốt lõi của văn hóa và nhân tố quy định tính đặc thù của kiểu sống khác nhau trong xã hội là bảng giá trị của họ. Đó là một hệ thống các giá trị, gồm ba loại giá trị chính là chân - thiện - mỹ với nội dung có nhiều yếu tố khác nhau và được xếp theo những thang bậc khác nhau ở mỗi cộng đồng người. Từ sự phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa: Văn hóa là nguồn lực nội sinh của con người, là kiểu sống và bảng giá trị của các tổ chức, cộng đồng người, trung tâm là các giá trị chân – thiện – mỹ. b. Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân –gia đình –làng xã-Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc độc đáo. Có thể nói bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi trường xã hội- tự nhiên và với quá trình lịch sử mà dân tộc ta đã tồn tại. Nói chung, bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc , là quá trình dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển. Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, văn học nghệ thuật…., nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ. Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức mạnh gắn bó mọi thành viên trong cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa thân vào các giá trị của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo. Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện các giá nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong mọi ho;ạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo…, sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa nhân loại, song phải luôn luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc, gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hóa với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán và lề thói cũ. c. Quan niệm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung Ương Đảng - khoá VIII (1998), lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có đặc trưng tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thay cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội dung XHCN, có tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân được nêu ra trước đây. Đại hội VII chủ trương xây dựng nền văn hóa mới, tạo đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ; hướng tới chân thiện mĩ; khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần và xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mĩ ngày càng cao. Chống tư tưởng văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên XHCN. Xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.  VỀ TÍNH TIÊN TIẾN: Nền văn hóa hiện nay có những đặc điểm chủ yếu như: yêu nước, tiến bộ, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (là nội dung cốt lõi), vì con người (hạnh phúc. tự do, phát triển phong phú, toàn diện trong quan hệ hài hòa giữa con người và cộng đồng, xã hội với thiên nhiên), mở rộng giao lưu, tiếp thu văn minh văn hóa thế giới; quá trình xây dựng nền văn hóa hiện nay cũng là quá trình thực hiên chiến lược con người, đây là khâu trung tâm trong sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần. Cốt lõi của tính tiên tiến là độc lập dân tộc và cnxh theo tư tưởng hồ chí minh, tính tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà còn phải được thể hiện trong cách thức biểu hiện, chuyển tải nội dung.  VỀ BẢN SẮC DÂN TỘC bao gồm: Những giá trị văn hóa truyền thống bền vữngcủa cộng đồng và dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nướcvà giữ nước, đó là: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thứccộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tìnhnghĩa đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính độc đáo, vớinhững đặc trưng, sắc thái, thể hiện cốt cách dân tộc Việt. Như vậy, để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trước hết cần nắmchắc những quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước và những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung Ương 5- khóa VIII của Đảng. Những quan điểm đó là: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa dạng trongcộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; văn hóa là một mặt trận, xây dựngvà phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài. Bản sắc dân tộc và tính tiên tiến của nền văn hóa phải được thẩm đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có tư duy độc lập, co cách làm vừa hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại song phải luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản săc dân tộc được thể hiện ở các khía cạnh khác nhau: - Xây dựng con người Việt theo hướng chân, thiện mĩ - Xây dựng môi trường văn hóa đẹp - Phát triển sự nghiệp văn hóa nghệ thuật - Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa - Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ - Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số 2. Văn hóa kinh doanh và nền văn hóa kinh doanh là gì? Chưa bao giờ khái niệm văn hoá được đề cập nhiều trong học thuật cũng như trong thực tế đời sống như hiện nay. Bởi vì nói tới văn hoá là nói tới ý thức, cái gốc tạo nên 'tính người' cùng những gì thuộc về bản chất nhất làm cho con người trở thành chủ thể năng động, sáng tạo trong cuộc sống, trong lao động sản xuất. Trong bối cảnh thực tế như hiện nay, khi nhìn kỹ lại nền văn hoá truyền thống của dân tộc, bên cạnh mọi thế mạnh vốn có của nó chúng ta vẫn thấy còn những chỗ khiếm khuyết rất đáng lưu ý. Do hàng ngàn năm sống tự cấp tự túc bằng một nền kinh tế tiểu nông sản xuất nhỏ là phổ biến, với chế độ phong kiến nông nghiệp cổ truyền thường xuyên theo chính sách "trọng thương ức thương "là chủ yếu, hơn nữa lại mới vừa phải trải qua một cuộc chiến tranh dai dẳng với cơ chế quan liêu bao cấp đã hằn sâu trong nếp nghĩ, nếp làm mọi người thậm chí đã trở thành nếp vận hành của toàn bộ đời sống xã hội kéo dài tận sau ngày giải phóng thống nhất đất nước, đến hiện thời chúng ta vẫn chưa có được một nền văn hoá kinh doanh đúng nghĩa. Đi vào thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đi vào xã hội phát triển theo cơ chế thị trường hinh như đây là chỗ hạn chế lớn nhất của văn hoá Việt Nam?! a. Văn hoá kinh doanh Văn hoá kinh doanh (business culture) hay văn hoá thương mại (commercial culture) là những giá trị văn hoá gắn liền với hoạt động kinh doanh (mua bán, khâu gạch nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng) một món hàng hoá (một thương phẩm / một dịch vụ) cụ thể trong toàn cảnh mọi mối quan hệ văn hoá - xã hội khác nhau của nó. Đó là hai mặt mâu thuẫn (văn hoá: giá trị > < kinh doanh: lợi nhuận) nhưng thống nhất: giá trị văn hoá thể hiện trong hình thức mẫu mã và chất lượng sản phẩm, trong thông tin quảng cáo về sản phẩm, trong cửa hàng bày bán sản phẩm, trong phong cách giao tiếp ứng xử của người bán đối với người mua, trong tâm lý và thị hiếu tiêu dùng, rộng ra là trong cả quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh với toàn bộ các khâu, các điều kiện liên quan của nó... nhằm tạo ra những chất lượng - hiệu quả kinh doanh nhất định. Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ. Đối với một người làm kinh doanh hay một tổ chức kinh doanh cụ thể thì văn hóa tồn tại tiềm ẩn trong họ như một nguồn lực, hệ giá trị… mà muốn khơi dậy, phát huy được cần có thời gian, môi trường và sự tác động phù hợp. Văn hóa kinh doanh của các nhà kinh doanh, doanh nghiệp… được nhận biết từ hai phương diện chính. Một là: Các nhân tố văn hóa (hệ giá trị, tâm lý dân tộc, triết lý chung mà chủ thể lựa chọn từ văn hóa dân tộc) được vân dụng vào quá trình kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn hóa. Nói tóm lại, đây là lối kinh doanh có văn hóa, kiểu kinh doanh phù hợp với văn hóa các dân tộc. Hai là: Các giá trị, sản phẩm văn hóa như hệ giá trị triết lý, tập tục riêng, nghệ thuật… mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt động và làm nghề kinh doanh của họ, có tác dụng cổ vũ, biểu dương đối với kiểu kinh doanh có văn hóa mà họ đang theo đuổi. Nói gọn lại, đây là lối sống có văn hóa của các chủ thể kinh doanh. b. Nền văn hóa kinh doanh. Xét về bản chất, kinh doanh không chỉ gói gọn trong khâu lưu thông, phân phối các chiến lược "thâm nhập thị trường" của các doanh nghiệp đối với các sản phẩm của mình mà nó còn phải bao quát các khâu có quan hệ hữu cơ nhau tính từ sản xuất cho tới cả tiêu dùng. Có nghĩa rằng, xây dựng nền văn hoá kinh doanh là một việc làm có tính thực tế mà mục tiêu cụ thể là nhằm làm cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, tức yếu tố đóng vai trò rất quyết định đối với nền sản xuất của đất nước trở nên ngày càng mang tính văn hoá cao thể hiện trên cả ba mặt: - Văn hoá doanh nhân: Văn hoá thể hiện hết ở đội ngũ những con người (gồm cả các cá nhân và các tập thể) tham gia sản xuất kinh doanh chủ yếu thể hiện ở trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ và vốn tri thức tổng hợp, ở kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng, phương pháp tác nghiệp, ở năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh và sự nhạy bén với thị trường, ở đạo đức nghề nghiệp và phẩm hạnh làm người, ở ý thức công dân và sự giác ngộ về chính trị - xã hội v.v… - Văn hoá thương trường: Văn hoá thể hiện trong cơ cấu tổ chức, hệ thống pháp chế, các chính sách chế độ, trong mọi hình thức hoạt động liên quan quá trình sản xuất kinh doanh, gồm cả sự cạnh tranh v.v… tất cả nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi tốt đẹp… - Văn hoá doanh nghiệp: Văn hoá tập trung và tỏa sáng trong các thiết chế, các đơn vị tổ chức sản xuất kinh doanh thể hiện qua những biểu trưng (symbol) chung thuộc về hình thức (logo, đồng phục…) cùng các yếu tố tạo nên thương hiệu của doanh nghiệp, qua năng lực, phẩm chất, trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra chất lượng sản phẩm và những thành tích, truyền thống, qua phong cách giao tiếp, ứng xử thống nhất của toàn đơn vị (đối với nội bộ, đối với khách hàng) trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh v.v... Ba mặt trên là ba mặt, ba bộ phận hợp thành một nền văn hoá kinh doanh theo nghĩa toàn vẹn nhất, trong đó văn hoá doanh nghiệp có thể xem là bộ phận có vai trò, vị trí quan trọng mang tính quyết định, là đầu mối trung tâm của quá trình xây dựng nền văn hoá kinh doanh hiện nay. II. Thực trạng xây dựng nền văn hóa kinh doanh ở nước ta hiện nay 1. Tại sao phải xây dựng nền văn hóa kinh doanh? Văn hoá kinh doanh chính là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng văn hoá kinh doanh là một việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng không ít khó khăn. Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các yếu tố văn hóa vào hoạt động kinh doanh của chủ thể là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh,hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ Khi kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào chúng ta cũng đều phải chú trọng đến văn hóa riêng của từng lĩnh vực đó ví dụ như:văn hóa trong lĩnh vực du lịch thì khác so với văn hóa trong lĩnh vực ngân hàng, văn hóa trong lĩnh vực marketing lại khác so với văn hóa trong lĩnh vực kinh doanh. Vì vậy cần tạo ra cho doanh nghiệp một nét văn hóa riêng. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết “Quá khứ không chỉ ở sau lưng, quá khứ còn ở trước mặt”. Một câu thơ không nổi tiếng lắm nhưng thật là thông thái: Chúng ta cần và phải nhìn lại tiến trình của lịch sử dân tộc nếu muốn tìm ra con đường phát triển đất nước cho tương lai. Lịch sử thật hào hùng, nhưng chúng ta không thể dừng lại mà phải từ lịch sử hào hùng đó đi lên, phải giành lấy một tương lai tươi sáng. Bác Hồ đã dạy rằng nếu đất nước độc lập mà nhân dân vẫn không đạt cơm no áo ấm dù độc lập cũng là vô nghĩa. Vậy chúng ta còn thiếu những gì? Tại sao với rừng vàng biển bạc, có nhân dân cần cù, lại được lãnh đạo bởi một Đảng vững mạnh, giàu kinh nghiệm và ý chí, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu? Có quá nhiều lý do, cả chủ quan lẫn khách quan mà chúng tôi không định và cũng không thể đề cập hết tại đây. Nhưng có một lý do rất quan trọng, và ngày càng trở nên quan trọng hơn từ khi chúng ta tiến hành mở cửa, đổi mới và xây dựng một nền kinh tế thị trường - chúng tôi muốn nói đến một thực trạng là chúng ta chưa có một cộng đồng doanh nhân chuyên nghiệp cũng như một nền văn hóa kinh doanh. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là hoạt động kinh doanh liên quan, thậm chí động chạm đến lợi ích, cả vật chất lẫn tinh thần của nhiều người, nhiều tầng lớp trong xã hội nên cần phải được điều chỉnh trên những cơ sở mang tính văn hóa. Những tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh một mặt phải buộc các doanh nhân tuân theo những tiêu chuẩn nhân bản phổ quát, mặt khác phải tạo cho doanh nhân một không gian tự do để hoạt động có hiệu quả. Nó phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh quốc tế và phải nhận được sự đồng tình rộng rãi của cộng đồng doanh nhân cũng như toàn xã hội. Trong thời đại toàn cầu hóa sôi động hiện nay, một nền văn hóa kinh doanh như vậy sẽ góp phần để nền kinh tế Việt Nam cùng cả nước hội nhập vào đời sống kinh tế chính trị toàn cầu. Một nền văn hóa kinh doanh tiên tiến là điều kiện tiên quyết để chúng ta xây dựng thành công cộng đồng những doanh nhân chuyên nghiệp, hạt nhân của nền kinh tế thị trường. Chỉ với một nền văn hóa kinh doanh tiên tiến, các doanh nhân mới có thể phát huy được vai trò của mình, trở thành đồng minh kinh tế, chính trị của Đảng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Khi kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào chúng ta cũng đều phải chú trọng đến văn hóa riêng của từng lĩnh vực đó ví dụ như:văn hóa trong lĩnh vực du lịch thì khác so với văn hóa trong lĩnh vực ngân hàng, văn hóa trong lĩnh vực marketing lại khác so với văn hóa trong lĩnh vực kinh doanh. Vì vậy cần tạo ra cho doanh nghiệp một nét văn hóa kinh doanh riêng. 2. Thực trạng nền văn hóa kinh doanh ở nước ta a. Đặc điểm của nền văn hóa kinh doanh ở nước ta qua từng giai đoạn  VHKD cổ truyền Việt Nam Trong suốt lịch sử phát triển của nước ta, hoạt động kinh tế phổ biến là sản xuất nông nghiệp tự cung, tự cấp. Trong thời kỳ phong kiến, tư tưởng "trọng nông ức thương" rất phổ biến, chính vì vậy mà rất ít người giỏi về kinh doanh. Lương Văn Can, một nhà cách mạng, đồng thời là một người thầy lỗi lạc trong giới doanh thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, khi phân tích nguyên nhân không phát triển của thương mại nói riêng và của kinh tế Việt Nam nói chung, đã đưa ra 10 điểm. Đó là:  Người mình không có thương phẩm, tức là sản xuất kém, ít hàng hoá có uy tín;  Không có thương hội, tức là không biết liên kết với nhau trong kinh doanh;  Không có tín thực, tức là không biết giữ chữ tín;  Không có kiên tâm, ít theo đuổi một việc gì đến cùng;  Không có nghị lực, dễ làm khó bỏ;  Không biết trọng nghề, do chỉ chú trọng vào nghề nông, bỏ qua việc tìm hiểu và nâng cao các nghề khác;  Không có thương học, tức là không có kiến thức về kinh doanh;  Kém đường giao thiệp, do xã hội Việt Nam luôn đóng cửa với thế giới bên ngoài nên hễ ra ngoàilà dễ bị lạc lõng, không hoà nhập được;  Không biết tiết kiệm, người Việt Nam tuy nghèo nhưng không biết tận dụng những thứ mình có, thường hoang phí;  Khinh nội hoá với tâm lý chung là sính hàng ngoại. Như vậy, trong VHKD cổ truyền của chúng ta, yếu tố tích cực, phù hợp với kinh doanh có phần ít hơn những yếu tố tiêu cực. Nhận diện chính xác những yếu tố này sẽ giúp chúng ta lý giải được phần nào những hạn chế của nền kinh tế Việt Nam trong những giai đoạn tiếp sau.  VHKD Việt Nam trước thời kỳ đổi mới Dưới thời Pháp thuộc: sự giao lưu với văn hoá Pháp đã để lại một dấu ấn sâu đậm cho VHKD Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, kinh doanh trở thành một ngành độc lập, không phụ thuộc vào nông nghiệp. Các ngành sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đều phát triển hơn thời kỳ trước. Sự thành công bước đầu của một số nhà kinh doanh người Việt, cùng với việc tiếp thu những tư tưởng mới, đã cải thiện đáng kể hình ảnh doanh nhân và nghề kinh doanh trong con mắt người Việt. Thời kỳ này đã xuất hiện một tầng lớp tư sản dân tộc, giành lại được độc quyền thương mại từ tay tư sản nước ngoài và bắt đầu gây dựng lòng tự hào được làm nhà kinh doanh. Thương mại và ngoại thương đều phát triển nhanh chóng. Đặc biệt, theo học giả Đào Duy Anh, ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, Việt Nam, dưới tên là xứ Đông Pháp, đã đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, chỉ sau Mianma. Giai đoạn 1954-1986: trong giai đoạn 1954-1975, Việt Nam bị phân chia thành hai miền: miền Bắc được giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, tiến lên xây dựng CNXH, còn miền Nam bị chiếm đóng, thay đổi theo chế độ thực dân mới của Mỹ. Do sự khác biệt này mà VHKD ở miền Bắc và miền Nam cũng phát triển theo những chiều hướng khác nhau. VHKD miền Bắc mang đặc tính của VHKD XHCN, coi trọng công bằng xã hội nhưng không coi trọng hiệu quả, tiêm nhiễm bệnh chủ quan, duy ý chí, cơ chế quản lý cồng kềnh, mang nặng tính quan liêu, coi rẻ kinh doanh và thương nhân… ở miền Nam, qua giao lưu với văn hoá Mỹ, VHKD nơi đây tiếp thu được một số kiến thức, yếu tố cần thiết cho kinh tế thị trường như cơ sở hạ tầng, công nghệ, kiến thức kinh doanh hiện đại, tác phong làm việc công nghiệp… nhưng cũng tiêm nhiễm tâm lý vọng ngoại khá nặng nề, nhất là tôn sùng những gì của Mỹ, cùng một số thói xấu khác như chủ nghĩa thực dụng, lối sống gấp, thích hưởng thụ, xa rời bản sắc dân tộc… Sau năm 1975, đất nước thống nhất, hai miền Nam, Bắc cùng bước vào con đường xây dựng CNXH, hai nền VHKD dần hoà hợp với nhau, trở thành một nền VHKD thống nhất trong toàn quốc nhưng vẫn bảo tồn một số khác biệt giữa hai miền. Nền VHKD này tuy có bổ sung cho VHKD cổ truyền một số ưu điểm như: coi trọng công bằng xã hội, nâng cao vị thế cho phụ nữ, có tinh thần vượt khó vươn lên… nhưng lại làm tăng lên một số yếu tố tiêu cực cho kinh doanh như: tâm lý coi rẻ nghề buôn nói chung và kinh doanh nói riêng, tính chủ quan duy ý chí, cơ chế tổ chức quan liêu, thiếu hiệu quả, tính cứng nhắc, kém năng động với thị trường… Đây là một trở ngại khá nặng nề cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và các nhà kinh doanh Việt Nam nói riêng khi bước vào cơ chế thị trường.  VHKD Việt Nam thời kỳ đổi mới Thời kỳ đổi mới đã mang lại một luồng sinh khí mới cho hoạt động kinh doanh và đã làm thay đổi cơ bản VHKD Việt Nam. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, VHKD Việt Nam có 4 đặc điểm nổi bật: + Tính tập thể: Quan niệm tiêu chuẩn đạo đức của doanh nghiệp là do toàn thể thành viên doanh nghiệp tích luỹ lâu dài cùng nhau hoàn thành. + Tính quy phạm: VHKD có công năng điều chỉnh kết hợp: trong trường hợp lợi ích cá nhân và doanh nghiệp xảy ra xung đột thì công nhân viên chức phải phục tùng các quy phạm, quy định của VHKD đã đề ra, đồng thời doanh nghiệp cũng phải biết lắng nghe và cố gắng giải quyết hài hòa để xóa bỏ xung đột. + Tính độc đáo: Doanh nghiệp đều cố gắng xây dựng VHKD độc đáo trên cơ sở văn hóa của vùng đất mà doanh nghiệp đang tồn tại. VHKD phải bảo đảm tính thống nhất trong nội bộ từng doanh nghiệp, nhưng giữa các doanh nghiệp khác nhau cần phải tạo nên tính độc đáo của mình. + Tính thực tiễn: Chỉ có thông qua thực tiễn, các quy định của VHKD mới được kiểm chứng để hoàn thiện hơn nữa. Việc nhiều người có bằng cấp cao, thậm chí từng làm cán bộ quản lý trong cơ quan nhà nước vẫn chọn nghề kinh doanh, chứng tỏ xã hội đã thừa nhận tầm quan trọng của nghề này. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng được trẻ hoá, phần lớn đang ở độ tuổi sung sức. Động cơ kinh doanh và nhận thức của doanh nhân đã được cải thiện đáng kể: 41,4% số doanh nhân trả lời là "muốn làm gì có ích cho xã hội"; 27,3% trả lời là do "muốn tự quyết định công việc của mình"; 13,5% là do "muốn phát huy tối đa khả năng của mình"; 16,4% do "muốn tiếp tục công việc của gia đình hiện nay"; 9,7% do "muốn kiếm nhiều tiền hơn"; 5,1% do "công việc trước đây không thích hợp" và 1,3% do "không có việc làm". Theo Kết quả nghiên cứu về tinh thần kinh doanh do Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương phối hợp với tổ chức JICA (Nhật Bản). b. Thành tựu và hạn chế của văn hóa kinh doanh Việt Nam  Thành tựu: Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh dần dần xoá đi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung và đã vươn lên phát huy mạnh mẽ các tiềm lực của mình. Về mặt nông nghiệp, nước ta đạt được nhiều thành tựu nổi bất với các thời kỳ trước. Sản lượng lương thực phát triển tốt bảo đảm giữ vững an ninh lương thực quốc gia, tạo nguồn xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới...Về công nghiệp, nhìn chung các sản phẩm quan trọng có tác động đến các ngành kinh tế đều tăng khá như điện, sắt thép, phân bón...chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giành được sự tín nhiệm của người tiêu dùng, gần 100 mặt hàng được bình chọn là hàngViệt Nam chất lượng cao, có chỗ đứng trên thị trường. Có thể nói hàng Việt Nam chất lượng cao đã đáp ứng được phần nào nhu cầu, thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng ở hai khía cạnh: sản phẩm tiêu dùng và vật phẩm văn hoá. Ở đây, các nhà doanhnghiệp Việt Nam đã đưa các nhân tố văn hoá, bản sắc dân tộc vào hoạt động kinh doanh, họ đã biết gắn chặt chẽ và hài hoà giữa cái lợi với cái đúng, cái tốt, cái đẹp..Đó cũng chính là lợi thế cạnh tranh của giới doanh nhân Việt Nam trên thương trường. Để thấy được số doanh nghiệp biết xây dựng cho mình “đạo đức kinh doanh” thông qua hàng Việt Nam chất lượng cao. Trong lĩnh vực dịch vụ, ngành thương mại đã đạt có sự tăng trưởng vượt bậc. Xuấtkhẩu năm 2000 tăng gấp 6 lần so với năm 1990, tổng mức bánlẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ở thị trường trong nước tăng 6 lần so với cùngkỳ...Qua đó, thấy được nét văn hoá trong kinh doanh được thể hiện rõ ở các điểm: kinhdoanh đạt năng suất cao, giá thành hạ, tạo ra nhiều sản phẩm (giá trị) và giá trị thặng dư cho xã hội, sản phẩm đạt chất lượng cao, được xã hội và người tiêu dùngtrong và ngoài nước chấp nhận, hoạt động kinh doanh đảm bảo chính sách, tuânthủ pháp luật, làm tròn nghĩa vụ với nhà nước (thuế) tạo ra lòng tin (chữ tín) vữngchắc, ổn định đối với khách hàng trong và ngoài nước. Các đơn vị như nông trườngSông Hậu ở Cần Thơ...Công ty mía đường Lam Sơn (Thanh Hoá). Công ty sữa Việt Nam Vinamilk là những điển hình về văn hoá kinh doanh  Hạn chế:  Thiếu tính liên kết cộng đồng Hiện nay, không ít doanh nghiệp không thể cởi mở, liên kết với nhau, thậm chí có khi còn chơi xấu, cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Hệ quả là không những không nâng cao sức cạnh tranh mà còn yếu đi vì sự tranh mua tranh bán, thậm chí hạ uy tín của nhau.  Nhẹ chữ tín Giữ chữ tín là điều kiện của thành công, sự thất bại đối với doanh nghiệp, doanh nhân không giữ chữ tín là sự thất bại báo trước, thời gian chỉ có thể là sớm hay muộn mà thôi. Theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam không coi trọng chữ tín, hay việc dẫn cá lý do khách quan để khước từ vịc thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Từ cá nhân đến cơ chế, phải đau lòng nhận ra là người Việt chưa tin người Việt  Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục diện chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong những bước đầu, sau đó các doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối phó lẫn nhau và sẵn sàng giành giựt quyền lợi riêng cho công ty mình mà không nghĩ đến cục diện chung. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng tổ chức thực thi sản xuất và kinh doanh ở quy mô lớn cho cùng loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường; Theo báo cáo mới nhất của UNDP về 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam thì chúng ta chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam cũng chỉ tương đương với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước phát triển  Tầm nhìn hạn hẹp tư duy ngắn hạn Vì không có tầm nhìn dài hạn nên các doanh nhân Việt Nam thường không xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế hoạch đầu tư thích hợp. Đa số các doanh nhân khi lập doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc xây dựng một công ty hàng đầu Việt Nam, ít khi nghĩ xa hơn tới việc xây dựng các thương hiệu toàn cầu, tham gia vào giải quyết các bài toán tiêu dùng cho toàn thế giới. Vì thiếu tầm nhìn nên doanh nghiệp không đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu dài và lao theo xu hướng “ăn xổi”, đầu tư vào những lĩnh vực không thuộc chuyên môn của mình. Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi ích kinh doanh dài hạn ở Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam đang tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư mang tính đầu cơ- như kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán- mà quên đi các lĩnh vực kinh doanh cốt lõi.  Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt” , dựa dẫm Ở nước ta đặc tính coi trọng quan hệ cá nhân, xu hướng cá nhân hóa cá mối quan hệ kinh doanh, ỷ lại vào bảo hộ của nhà nước vẫn tồn tại khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời gian và tiền bạc cho một hoặc một số nhân vật quan trọng của đối tác, cho các mối quan hệ cá nhân giữa người kinh doanh mà cụ thể hơn là người bán hoặc người mua với người có thẩm quyền quyết định của bên đối tác mua hoặc bán một số lại câu kết với những người xấu trong bộ máy nhà nước. Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào mối quan hệ rộng hơn là nhờ vào năng lực. Xu hướng dựa vào quan hệ rộng như là một chủ bài - mạnh hơn là cả năng lực, và xu hướng nhờ vả, chạy chọt hiện đang tồn tại ở mức đáng kể. Lợi ích quá nhiều từ quan hệ cá nhân, tranh giành đất đai, dùng quan hệ để thắng thầu bất chính, thậm chí dùng cả quyền lực chính sách để bóp méo lực lượng thị trường như phân phối quota xuất nhập khẩu… chính là những hiện tượng phổ biến, gây bức xúc trong toàn xã hội 3. Chiến lược xây dựng nền văn hóa kinh doanh ở Việt Nam Xây dựng nền văn hoá kinh doanh về thực chất chính là việc thực hiện các điều kiện khách quan, chủ quan trên cơ sở phát huy các nhân tố tích cực, tự giác nhằm đẩy nhanh quá trình văn hoá hoá trong toàn bộ mọi yếu tố cấu thành nền sản xuất kinh doanh của đất nước, trước hết tập trung lấy phát triển văn hoá doanh nghiệp làm điểm tựa đầu tiên. Trong điều kiện thực tế hiện nay, theo cách thức đó chúng ta có thể tạo ra quá trình tích hợp và phát huy mạnh mẽ những giá trị vốn có trong nền văn hoá truyền thống của dân tộc (thí dụ những truyền thống yêu nước và thương người, đoàn kết cộng đồng và trong tín nghĩa, cần cù, năng động và linh hoạt v.v…) kết hợp với các thành tựu văn hoá thế giới (thí dụ về nếp tư duy, phong cách và trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ, về phương pháp, năng lực tổ chức quản lý kinh tế - xã hội trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá - hiện đại hoá v.v…)… nhằm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta sẽ ngày càng được trật tự, lành mạnh và đạt hiệu quả cao hơn, hướng đến những mục tiêu kinh tế - xã hội toàn diện, bền vững lâu dài của đất nước đồng thời vừa có thể đem lại những lợi ích thiết thực ngay trước mắt cho các doanh nghiệp. Cụ thể hơn, xây dựng văn hoá doanh nghiệp để góp phầnvào chiến lược phát triển văn hoá kinh doanh Việt Nam hiện nay không thể khác đó là việc nâng cao bản lĩnh, trình độ đội ngũ doanh nhân theo hướng ngày càng "chuyên nghiệp hoá" nhiều hơn, trước hết ở cung cách, khả năng sử dụng tốt các phương tiện, các thành tựu khoa học kỹ thuật trong lao động, tổ chức sản xuất, năn lực cạnh tranh và hội nhập với thị trường (nội địa lẫn quốc tế), trong giao tiếp với khách hàng, tuyên truyền quảng bá thương hiệu, giới thiệu và bán sản phẩm… Bên cạnh đó việc nâng cao năng lực và điều kiện, biện pháp để chăm lo đội ngũ (cả về đời sống văn hoá cá nhân lẫn đời sống văn hoá tập thể), không ngừng tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cùng một nề nếp, kỷ cương hoạt động theo phon cách công nghiệp, hiện đại dựa trên nền tảng phát huy tốt những giá trị văn hoá truyền thống ( đạo lý, nghĩa tình…) kết hợp xây dựng bản chất tiên tiến của giai cấp công nhân (kỹ thuật, khoa học…) cho mọi lực lượng lao động vì mục tiêu xây dựng hệ thống doanh nghiệp Việt Nam vững mạnh toàn diện cả về chuyên môn lẫn tư tưởng, tổ chức v.v… tất cả đều là những công việc có ý nghĩa rất chiến lược. Từ những rào cản, những bất cập trên, có thể đề xuất một số giải pháp cho vấn đề hội nhập và văn hóa kinh doanh Việt Nam trong những năm tiếp theo là: - Thích ứng với tập quán kinh doanh quốc tế Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những cơ hội tiếp cận thị trường thế giới rộng lớn nhưng cũng buộc các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam phải đối mặt với một môi trường nhiều rủi ro hơn và cạnh tranh gay gắt hơn. Hội nhập kinh tế đồng nghĩa với cam kết tham gia vào thị trường thế giới được điều tiết bằng những luật chơi rõ ràng, những định mức, tiêu chuẩn khắt khe; phải tuân thủ các luật lệ, cam kết về không phân biệt đối xử, giảm thuế, mở cửa thị trường, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn về lao động và cam kết xã hội…Kinh doanh quốc tế dựa trên một loạt các thông lệ và quy chuẩn. Các thông lệ và quy chuẩn này là thành tựu chung của loài người. Chúng cấu thành nên một phần không thể thiếucủa văn hóa kinh doanh. Không nắm vững các thông lệ và quy chuẩn khó có thể được coi là có văn hóa trong kinh doanh, và cũng rất khó kinh doanh. Khi hội nhập, văn hóa doanh nghiệp sẽthay đổi và trở thành thách thức, mọi nhân viên thuộc doanh nghiệp sẽ phải thay đổi thích nghivới các qui trình kinh doanh mới, được chuẩn hóa. Ở một cấp độ cao hơn, còn có thể xảy ra"xung đột văn hóa" trong nội bộ doanh nghiệp. Khi tham gia WTO và kinh doanh trong "thế giới phẳng", các doanh nghiệp phải vượt qua chính mình, phải hiểu biết và thành thạo "luật chơi" mới, biết liên kết với đối tác đáng tin cậy trên toàn cầu. Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung vẫn còn rất “bỡ ngỡ” với các tiêu chuẩn cho hội nhập như trách nhiệm xã
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan