Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Bài giảng điện tử Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động k...

Tài liệu Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại

.DOC
15
18225
122

Mô tả:

Trường Đại học Ngoại thương Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Đề tài: Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Sinh viên thực hiện: Họ và tên: Bùi Hải Lê Lớp - Khối - Ngành - Khóa: Anh 3-Khối 1-Kinh doanh Quốc tế-K53 Giảng viên hướng dẫn: PGS TS Đoàn Văn Khái 1 Mục lục Lời mở đầu I/ Lý luận về quan điểm lịch sử-cụ thể trong Triết học MácLênin: 1. 2. 3. 4. 5. Biện chứng và phép biện chứng Phép biện chứng duy vật Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử-cụ thể Yêu cầu của quan điểm lịch sử-cụ thể Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong hoạt động kinh tế đối ngoại II/ Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở nước ta: 1. 2. 3. 4. 5. 6. Đổi Mới Những tiền đề của tư tưởng Đổi Mới Đổi Mới về kinh tế Đổi Mới về chính trị Đổi Mới về văn hòa Đổi Mới về các mặt khác Danh sách tài liệu tham khảo Trang 03 04 04 05 05 07 08 08 10 13 14 14 15 Lời mở đầu Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn 2 hiện thực. Một số quan điểm cơ bản được rút ra từ nội dung của phép biện chứng duy vật giữ vai trò định hướng cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Nguyên tắc quan điểm lịch sử-cụ thể là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn ấy. Bên cạnh đó, kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Kinh tế đối ngoại được ví như một mắt xích quan trọng trong guồng máy của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng, nhất là trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, không những góp phần đắc lực vào quá trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế cả về các lĩnh vực khác. Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh tranh như hiện nay, mỗi quốc gia phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực thế giới và thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động, phát triển không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác - Lênin vào quá trình đổi mới, phát triển kinh tế là rất cần thiết. Quán triệt quan điểm lịch sử-cụ thể vào quá trình đối mới kinh tế sẽ giúp cho nền kinh tế thế giới có được hướng đi đúng đắn. Để đạt được mục đích trên em xin chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” cho bài tiểu luận triết học của mình. Bài tiểu luận gồm hai phần lớn là Lý luận về quan điểm lịch sử-cụ thể và Vận dụng quan điểm lịch sử-cụ thể của phép biện chứng trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Do những hạn chế về mặt kiến thức và thời gian bài tiểu luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn! Phần I: Lý luận về quan điểm lịch sử-cụ thể trong Triết học Mác-Lênin: 1/ Biện chứng và phép biện chứng: 1.1. Biện chứng: 3 a) Khái niệm: Biện chứng là khái niệm chỉ sự liên hệ, vận động, chuyển hóa và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. b) Các loại biện chứng: - Biện chứng khách quan: biện chứng của thế giới vật chất. - Biện chứng chủ quan: biện chứng của tư duy, ý thức, là kết quả phản ánh biện chứng khách quan vào bộ não con người. 1.2. Phép biện chứng: a) Khái niệm: Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của tự nhiên, xã hội và tư duy thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học. b) Các hình thức cơ bản của phép biện chứng: 3 hình thức - Phép biện chứng chất phác thời cổ đại: chủ yếu dựa trên quan sát. - Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức: biện chứng của ý niệm (tinh thần) là bản gốc sinh ra biện chứng của thế giới vật chất. - Phép biện chứng duy vật: triết học Mác-Lênin. 2/ Phép biện chứng duy vật: 2.1.Lịch sử vấn đề: Phương pháp duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là một bộ phận của học thuyết triết học do Karl Marx đề xướng. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng. Marx đã kế thừa tư tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel và lý luận về chủ nghĩa duy vật của Ludwig Andreas von Feuerbach và phát triển nên phương pháp luận này. Các nhà triết học Marx-Lenin cho rằng phương pháp duy vật biện chứng là cơ sở triết học cho hệ tư tưởng của họ. 4 2.2. Nội dung và đặc trưng của phép biện chứng duy vật: - Nội dung: Biện chứng của thế giới vật chất có trước sinh ra biện chứng của thế giới tinh thần. - Đặc trưng: coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên nền tảng thế giới quan duy vật khoa học và có sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng (không chỉ giải thích thế giới mà còn có vai trò cải tạo thế giới). 3/ Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hòan toàn bản chất của sự vật, bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử-cụ thể khác nhau đó. Theo triết học Mác-Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sử của thế giới khách quan trong quá trình lịch sử-cụ thể của sự phát sinh, phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng; biểu hiện tính lịch sử- cụ thể của sự phát sinh và các giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong không gian và thời gian khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử- cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại. 4/Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể: Quan điểm lịch sử có 6 yêu cầu: - Thứ nhất: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử-cụ thể. Nguyên tắc lịch sử-cụ thể được V.I.Lê nin nêu rõ và cô động: “Xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử-cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử-cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngăt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó. -Thứ hai: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng. -Thứ ba: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hóa của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hóa thành trạng thái khác hay thành các mặt đối lập của nó thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù, nhận thức được bản chất của nó. -Thứ tư: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con người. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử-cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học trước đó. -Thứ năm: Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử-cụ thể nói riêng và đối với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử-cụ thể không kết hợp các sự kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa và vai trò của chúng để tạo nên bức tranh khoa học về các quá trình lịch sử. -Thứ sáu: Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử-cụ thể là cần thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng; tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng, không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu. 5/ Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại: Các hoạt động kinh tế đối ngoại có tầm quan trọng và ảnh hưởng vô cùng to lớn trong việc liên kết hoạt động ở mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của các nước trên toàn cầu, qua đó mở rộng giao lưu, học hỏi kinh nghiệm giữa các nước. Tuy nhiên, mỗi nước, mỗi khu vực trên thế giới lại có những đặc thù về lịch sử, kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội khác nhau. Do đó, các nhà cầm quyền cần vận dụng linh hoạt kiến thức, áp dụng các chính sách phát triển đúng thời điểm, đúng chỗ, sử dụng quan điểm lịch sử-cụ thể chính xác làm cho nền kinh tế nước nhà tăng trưởng hơn nữa, tạo tiền đề và bước đệm cho nền kinh tế thế giới khởi sắc và phát triển vượt bậc. Kết luận: Ta có thể thấy rõ ràng rằng ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải quyết. Nắm vững phép biện chứng duy vật, vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật giúp nhận thức được tính biện chứng của thế giới, tính tất yếu của công cuộc đổi mới và nhu cầu cấp bách phát triển kinh tế hiện nay. Thực tiễn cho thấy những con đường thúc đẩy kinh tế, phải triển thế giới không tuân theo những công thức có sẵn, bất biến mà chúng được vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, luôn đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn. Ví dụ thuyết phục nhất là con đường của cách mạng Việt Nam được xác định là Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là con đường duy nhất đúng, thể hiện sự nhận thức và vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin nói chung, các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phần II: Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại: Một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại tiêu biểu nhất cho việc vận dụng và phát triển sáng tạo, hiệu quả Chủ nghĩa Mác Lê – nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta chính là chính sách Đổi Mới. 1/ Đổi Mới: Đổi Mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi Mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986. Đổi Mới về kinh tế được thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu thế kỷ 21, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã hội, chính trị, tư duy, cơ chế, văn hóa… Tuy nhiên, chính trị không có những thay đổi nhiều so với kinh tế. Đổi Mới ở Việt Nam tương tự chính sách kinh tế mới của Liên Xô giai đoạn Lenin lãnh đạo (1921-1924), Cải Cách Khai Phóng ở Trung Quốc và Đổi Mới ở Lào. 2/Những tiền đề của tư tưởng Đổi Mới: 2.1. Kinh tế thị trường: Những người theo chủ nghĩa Stalin (không nhầm lẫn với chủ nghĩa Marx nguyên bản) nhiều lần nhấn mạnh rằng cơ chế thị trường là một cơ chế hoạt động kém, cần phải được thay bằng cơ chế kế hoạch hóa có ý thức. Một trong những mục đích của việc xóa bỏ hệ thống sở hữu tư nhân chính là để chấm dứt cách điều phối sản xuất thị trường một cách mù quáng và dọ dẫm, để thay thế nó bằng kế hoạch có ý thức. Oscar Lange đã phác họa một nền kinh tế mà các công ty sở hữu công cộng có thể tối đa hóa lợi nhuận của mình hoặc hoạt động theo công thức tối ưu hóa gần như thế. Cơ quan kế hoạch trung ương cố gắng thiết lập các giá cả cân bằng và làm trong sạch thị trường bằng cách mô phỏng cơ chế thị trường: khi thấy nhu cầu tăng, nó tăng giá lên và khi thấy nhu cầu giảm, nó giảm giá xuống. Ông khẳng định rằng một hệ thống như vậy có khả năng cân bằng giữa cung và cầu. Tuy nhiên, Friedrich von Hayek đã bác bỏ tư tưởng trên của Lange bằng lập luận: vấn đề lớn thực sự của chủ nghĩa xã hội không phải là việc liệu nó có thiết lập được giá cả cân bằng hay không mà là vấn đề có những động cơ khuyến khích gì để thu thập và áp dụng nhanh chóng những thông tin nhất thiết là tản mạn, lẫn lộn ở nhiều chỗ khác nhau. Những thông tin tản mạn đó được Hayek gọi là tri thức riêng phần, những tri thức được sở hữu và chỉ được sử dụng tốt nhất bởi mỗi cá nhân. Trong bài luận "Sử dụng tri thức trong xã hội" (The Use of Knowledge in Society) đăng trên chuyên san American Economic Review năm 1945, Hayek cho thấy rằng kế hoạch hóa kinh tế tỏ ra kém hiệu quả hơn so với tự do hóa kinh tế bởi vì kế hoạch hóa không thể giải được bài toán của hệ thống giá cả là một hệ thống tự phát giúp con người truyền tải tri thức cần thiết từ người này sang người khác để phối hợp với kế hoạch cá nhân riêng rẽ. Chính vì thế, Hayek chủ trương rằng cần phải để nền kinh tế hoạt động tự do trên nguyên tắc của cơ chế thị trường. 2.2.Kinh tế thị trường và học thuyết xã hội chủ nghĩa: Chúng ta không nên lầm tưởng kinh tế thị trường chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa xã hội thì không. Quan niệm này xuất phát từ mô hình kinh tế bao cấp của Liên Xô và Đông Âu trước kia. Thực ra, theo lý luận của Lenin thì chủ nghĩa xã hội là bước chuyển giữa chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Trong đó mô hình kinh tế là hỗn hợp, đan xen giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với kinh tế tư bản tư nhân. Theo đó, Lenin đã đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP), theo đó nhà nước cho phép một số thị trường được tồn tại, các ngành công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của mình. Sau khi Lenin mất, Stalin đã xóa bỏ NEP và xây dựng mô hình kinh tế bao cấp, khiến nhiều người lầm tưởng chủ nghĩa xã hội chỉ gắn liền với kinh tế bao cấp. Những lý luận đầu tiên về chủ nghĩa xã hội thị trường được nhà kinh tế Enrico Barone người Ý nêu ra vào năm 1908 trong tác phẩm "Il Ministro della Produzione nello Stato Collettivista", tạp chi Giornale degli Economisti, số 2, tháng Chín-Mười, trang 267-293. Barone đã đưa ra một mô hình toán về một nền kinh tế tập thể, theo đó các quan hệ tiền tệ hàng hóa trong nền kinh tế đều có thể tính toán được và từ đó có thể điều chỉnh để sao cho phúc lợi tập thể đạt mức tối ưu. Năm 1929, Fred Manville Taylor người Mỹ trong công trình "The Guidance of Production in a Socialist State," tạp chí American Economic Review, số 19(1), trang 1-8, đã nêu ra những điều kiện để nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể, về mặt lý thuyết, đạt được hiệu quả trong phân phối nguồn lực. Trên cơ sở mô hình của Barone, vào năm 1936 nhà kinh tế người Ba Lan Oskar Ryszard Lange đã công bố cuốn sách của mình mang tên Lý thuyết kinh tế về chủ nghĩa xã hội trong đó ông kết hợp kinh tế học Marxist với kinh tế học tân cổ điển. Lange ủng hộ việc sử dụng các công cụ thị trường (giá cả) và đồng thời ủng hộ việc kế hoạch hóa. Lange cho rằng các nhà làm kế hoạch có thể tính toán và đặt ra các mức giá và chờ đợi phản ứng của thị trường để điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy nền kinh tế sẽ có hiệu quả cao hơn thay vì để cho thị trường quyết định hoàn toàn. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy Chủ nghĩa xã hội kết hợp với yếu tố thị trường còn được gọi là Con đường thứ ba (để phân biệt với hai con đường khác là kinh tế thị trường tự do (hay kinh tế tư bản chủ nghĩa) và kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các nước Đông Âu và Liên Xô cũ đã rời bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các nước tư bản phát triển như Mĩ, Anh, Đức, Pháp và Nhật trong thế kỉ 20 cũng điều chỉnh mô hình kinh tế theo hướng tăng cường sự can thiệp của bộ máy nhà nước (kinh tế hỗn hợp). Chủ nghĩa xã hội thị trường là đường lối phát triển kinh tế chủ đạo của một số nước phát triển nhất thế giới tại Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch... Các quan điểm về Đổi Mới kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu trên các kinh nghiệm cải cách của các nước Đông Âu và Trung Quốc. 3/ Đổi mới về kinh tế: Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình thực hiện. Ngày nay, Đổi Mới về kinh tế được Nhà nước Việt Nam định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nềnkinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 3.1. Đặc điểm của Đổi Mới về kinh tế:  Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần kinh tế (Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX quy định có 6 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp). Tuy nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo.  Cơ chế kinh tế là kinh tế thị trường xã hội, một trường phái kinh tế học mà đại biểu tiêu biểu của nó là Paul Samuelson- Nobel kinh tế năm 1970- với lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp. Luận điểm của nó là nền kinh tế thị trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế được vận hành bởi hai bàn tay: thị trường và Nhà nước. Điều này có ưu điểm là nó phát huy tính tối ưu trong phân bổ nguồn lực xã hội để tối đa hóa lợi nhuận thông qua cạnh tranh, mặt khác, sự quản lý của Nhà nước giúp tránh được những thất bại của thị trường như lạm phát, phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế...  Định hướng xã hội chủ nghĩa: Theo quan điểm trước Đổi Mới, Nhà nước Việt Nam cho rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản và hoạt động không tốt. Sau Đổi Mới, quan điểm của Nhà nước Việt Nam là kinh tế thị trường là thành tựu chung của loài người, không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là vẫn giữ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế, vì theo quan điểm của chủ nghĩa Marx về chủ nghĩa xã hội thì mọi tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước đại diện cho nhân dân.  Nền kinh tế chuyển từ khép kín, đóng cửa, sang mở cửa, hội nhập với thế giới. 3.2. Quá trình Đổi Mới về kinh tế:  Giai đoạn, đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế-xã hội nổ ra, lạm phát tăng lên mức phi mã đặc biệt sau hai cuộc tổng điều chỉnh giá-lươngtiền.  Từ 12 đến 19 tháng 7 năm 1983, lúc Lê Duẩn đi nghỉ ở Liên Xô cũ; ba vị lãnh đạo cấp cao của Việt Nam là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Chí Công đang nghỉ ở Đà Lạt, Nguyễn Văn Linh (lúc đó là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh) đã tổ chức "Hội nghị Đà Lạt" - Ông và một số Giám đốc các cơ sở kinh doanh sản xuất làm ăn có lãi đã trực tiếp gặp gỡ các vị lãnh đạo cấp cao (từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 7) để báo cáo tình hình sản xuất, kinh doanh và đề đạt nguyện vọng. Ngày 17 tháng 7, Nguyễn Văn Linh mời các vị lãnh đạo thăm cơ sở chế biến tơ tằm và xí nghiệp chè của Thành phố Hồ Chí Minh tại Bảo Lộc. Ngày 19 tháng 7, Nguyễn Văn Linh có buổi làm việc riêng với các vị lãnh đạo này, ông đã báo cáo tất cả tâm tư mà cá nhân mình đang nung nấu. "Hội nghị Đà Lạt" diễn ra trong thời gian vừa đúng một tuần lễ. Nội dung tư tưởng của các cuộc gặp trong sự kiện này đã được Nguyễn Văn Linh vận dụng vào việc chuẩn bị văn kiện Đại hội Đảng VI của Đảng Cộng sản Việt Nam - Khởi xướng công cuộc Đổi mới của Việt Nam.[2]  1986: Sau khi Lê Duẩn qua đời, Trường Chinh giữ chức Tổng Bí thư chính thức phát động công cuộc Đổi Mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức thực hiện Đổi Mới, bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa.  1/3/1987: giải thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các tuyến đường nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa.  18/5/1987: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười sang thăm Liên Xô. Gorbachyov giục Việt Nam cải cách kể cả thông thương với các nước tư bản.  5/4/1988: Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQ về Đổi Mới quản lý kinh tế nông nghiệp (hay còn gọi là Khoán 10).  24/5/1988: 19 tỉnh miền Bắc đói to. Chính quyền chính thức yêu cầu Liên Hiệp Quốc viện trợ nhân đạo khẩn cấp.  12/6/1988: Nghị quyết bỏ hẳn chính sách hợp tác hóa nông nghiệp để tăng gia sản xuất.  1989 Việt Nam đã xuất khấu gạo đứng thư 3 thế giới(sau Thái Lan và Hoa Kì)  1989: Trung Quốc xảy ra sự kiện Thiên An Môn. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ. Tuy nhiên, đánh giá về các sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định tiếp tục Đổi mới theo con đường đã chọn và vẫn thực hiện chủ nghĩa xã hội.  1990: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời nhằm thể chế hóa chính thức và đầy đủ hơn chủ trương phát triển kinh tế tư nhân [3]. Bắt đầu có chủ trương thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.  Tháng 5 năm 1990: pháp lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp lệnh ngân hàng chính thức chuyển ngân hàng từ một cấp sang hai cấp.  1993: Bình thường hóa quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính quốc tế.  2000: Luật Doanh nghiệp ra đời.  2001: ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ký kết Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ.  2002: tự do hóa lãi suất cho vay VND cho các tổ chức tín dụng.  2005: Luật Cạnh tranh chính thức có hiệu lực.  2006: Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận cho đảng viên làm kinh tế tư nhân.  7/11/2006: Việt Nam là thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới. 4/ Đổi Mới về chính trị:  Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì Đổi Mới không phải là từ bỏ việc thực hiện chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ quyền lãnh đạo duy nhất. Đổi Mới chỉ là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.  Cho đến nay, Đổi Mới về chính trị ở Việt Nam là chuyển từ việc lãnh đạo kinh tế chủ quan, duy ý chí sang tôn trọng quy luật khách quan của thị trường.  Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam chuyển từ chú trọng quan hệ hợp tác với các nước XHCN sang chú trọng quan hệ hợp tác đa phương, làm bạn với tất cả các nước, trên quan điểm bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập các tổ chức khu vực ASEAN, APEC, WTO...  1994: bắt đầu thực hiện chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với các thành viên Chính phủ.  Đại hội Đảng lần X lần đầu tiên lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, lần đầu tiên cho phép Đảng viên tự ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 5/ Đổi Mới về văn hóa: Đổi Mới trên mặt văn hóa ở Việt Nam thì được biết dưới tên Cởi Mở, tương tự như chính sách Glastnost của Nga Xô. Quá trình này bắt đầu cùng với Đổi Mới Kinh tế nhưng sau đó dừng lại trong thập niên 1991 . Việc đổi mới văn hóa là điều cần thiết để hòa nhập với xu thế của đất nước, nhưng những tinh hoa văn hóa nên được bảo toàn và gìn giữ, lưu truyền cho các thế hệ sau. 6/ Đổi Mới trên các mặt khác: Đổi Mới trên các mặt khác vẫn đang diễn ra và vẫn chưa có những tổng kết khoa học về vấn đề này. Ví dụ như Việt Nam đang thực hiện Đổi Mới giáo dục: chuyển từ lối giáo dục từ chương (vốn là truyền thống trong cách giáo dục Á Đông) sang phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm, tăng tính chủ động cho học sinh và tấn công vào căn bệnh thành tích. => Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã thực hiện công cuộc Đổi mới, thay đổi mô hình xây dựng đất nước, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế, xã hội, phá vỡ chiến lược bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc, từng bước phát triển kinh tế và đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt: chính trị ổn định, giáo dục được cải thiện và có bước tiến bộ vượt bậc, văn hóa đa dạng, hiện đại nhưng vẫn giữ được nét truyền thống, hòa nhập nhưng không hòa tan, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia; có quan hệ hợp tác chiến lược với 14 nước, trong đó có 4 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn độ... Hoa Kỳ hiện là đối tác toàn diện của Việt Nam. Đời sống nhiều mặt của nhân dân ta được nâng lên đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2013 đạt khoảng 1.960 USD. Từ một trong những nước nghèo nhất thế giới (khi bước vào công cuộc đổi mới, 1986), đến nay, Việt Nam bắt đầu được ghi tên vào danh sách các nước có mức sống trung bình trên thế giới. => Kết luận: Nhìn chung, Đảng và Nhà nước đã vận dụng tốt quan điểm lịch sửcụ thể, đặt nền kinh tế Việt Nam trong tính lịch sử và tính cụ thể để đề ra những kế hoạch phát triển có lợi nhất cho đất nước. Việt Nam từ một nước có mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu với bạn bè năm châu bốn bể, làm cho nền kinh tế Việt Nam trở nên đa dạng phong phú và vô cùng khởi sắc. Qua đó, ta thấy rằng nguyên tắc lịch sử-cụ thể xuyên suốt phép biện chứng duy vật. Để thấy rõ hơn tầm quan trọng của nguyên tắc này, sẽ là bổ ích hơn nếu ta mở rộng nghiên cứu những lý do nguyên tắc lịch sử-cụ thể là linh hồn phương pháp luận của chủ nghĩa Mác. Như vậy, triết học Mác-Lênin nói chung và nguyên tắc lịch sử-cụ thể nói riêng đã chứng minh được tính khoa học và thực tiễn của mình, đóng vai trò vô cùng thiết yếu trong việc phát triển thế giới. Danh mục tài liệu tham khảo: - Bài giảng của PGS.TS Đoàn Văn Khái - luanvan.co - qdnd.vn – Quân đội Nhân dân Online - wikipedia-Bách khoa toàn thư mở
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan