Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Phần I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Con người và xã hội là một bộ phận đặc thù – đặc biệt của thế giới tự
nhiên, được sinh ra trong tự nhiên và tồn tại trong tự nhiên. Bản thân con
người và xã hội loài người luôn mang bản tính của một thưc thể tự nhiên.
Nhận thức đúng đắn về mối quan hệ hữu cơ giữa con người và tự nhiên, xác
định một cách có ý thức tích cực các hoạt động thực tiễn của con người phù
hợp với quy luật tự nhiên – đó là cơ sở để giải quyết mọi vấn đề về môi
trường sinh thái.
Hiện nay chúng ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường. Sự nghiệp đó không thể không liên
quan chặt chẽ đến những vấn đề thuộc về môi trường – sinh thái – nhân văn.
Trong thực tế chúng ta đang sống trong môi trường sinh thái có chiều
hướng suy giảm. Trong vòng vài chục năm trở lại đây, loài người mới giật
mình vì thấy Trái Đất có quá nhiều người, môi trường quá ô nhiễm, còn quá ít
tài nguyên. Quá nhiều sự cố môi trường, diễn biến bất thường của thời tiết
đang hàng ngày đe dọa con người.
Vì thế, vấn đề môi trường sống hiện nay đã vượt ra ngoài phạm vi sinh
thái học thông thường, mà nó đã trở thành một vấn đề kinh tế - chính trị - xã
hội của toàn cầu. Bảo vệ môi trường trở thành nhiệm vụ cấp bách đối với mọi
người, mọi dân tộc, mọi quốc gia trên Trái Đất. Để giải quyết được vấn đề
này thì công việc giáo dục bảo vệ môi trường là một trong những biện pháp
hữu hiệu nhất, tinh tế nhất, có tính bền vững và sâu rộng nhất trong số các
biện pháp để thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đất
nước.
Trong số các môn học ở trường THPT thì môn Công Nghệ là một trong
những môn học thực nghiệm, nó cung cấp cho học sinh rất nhiều các kiến
Đỗ Thị Nhung
1
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
thức cơ bản về thế giới tự nhiên nói chung và về môi trường xung quanh. Vì
thế qua môn học này, mỗi khi cung cấp một đơn vị kiến thức cơ bản có liên
quan đến môi trường thì GV có thể tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào
từng đơn vị kiến thức này hoặc từng bài giảng của mình.
Để việc tích hợp giáo dục BVMT vào trong từng bài giảng có liên quan
đến môi trường đạt hiệu quả cao nhất thì theo tôi chúng ta cần phải làm sao để
không những gây được hứng thú học tập cho các em về môn học này mà
chúng ta còn có thể lồng ghép kiến thức về môi trường và vấn đề BVMT để
rồi từ đó xây dựng ý thức BVMT cho các em.
Trên cơ sở tìm tòi những tư liệu về BVMT, thu thập thông tin qua báo
đài và internet, đặc biệt là nắm bắt về phương pháp dạy học có tích hợp
GDMT bộ môn Công Nghệ. Bên cạnh đó dựa vào việc tìm ra những đơn vị
kiến thức trong chương trình Công Nghệ 10 có liên quan đến việc giáo dục
BVMT, tôi đã chọn đề tài “Vận dụng một số biện pháp tích hợp GDMT
trong dạy học chương 1- Công Nghệ 10”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích nội dung kiến thức liên quan đến BVMT trong chương 1:
Trồng trọt, lâm nghiệp đại cương – Công nghệ 10.
- Vận dụng một số biện pháp tích hợp nhằm giáo dục BVMT trong
chương 1: Trồng trọt, lâm nghiệp đại cương – Công nghệ 10. Từ đó nâng cao
hiệu quả dạy học nói chung và hình thành ở học sinh những kiến thức, kỹ
năng, thái độ BVMT của học sinh THPT.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc GDMT trong dạy học Công nghệ 10.
- Nghiên cứu thực trạng GDMT và BVMT ở trường THPT.
- Phân tích nội dung kiến thức chương 1- Công nghệ 10 – THPT làm cơ
sở cho việc tích hợp GDMT.
Đỗ Thị Nhung
2
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Đề xuất nội dung và một số biện pháp nhằm tích hợp GDMT trong dạy
học Công nghệ 10.
- Thiết kế một số bài giảng vận dụng tích hợp GDMT trong dạy học
chương 1 – Công nghệ 10.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung SGK Công nghệ 10 – THPT.
- Học sinh lớp 10 – THPT.
- Nhiệm vụ của môn học Công nghệ 10 – THPT.
- Các hình thức dạy học có tích hợp GDMT trong Công nghệ 10 –
THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phần 1, chương 1: Trồng trọt, lâm nghiệp đại cương.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan tới việc GDMT làm cơ sở lí luận
cho đề tài, nghiên cứu nhiệm vụ của môn Công nghệ - THPT.
6.2. Phương pháp điều tra
- Điều tra thực trạng vận dụng các biện pháp tích hợp GDMT trong dạy
học Công nghệ 10 của giáo viên và nhận thức của học sinh về vấn đề BVMT,
thông qua dự giờ, nghiên cứu giáo trình, bằng phiếu, phỏng vấn trực tiếp.
6.3. Phương pháp chuyên gia
- Xin ý kiến của những GV – THPT có kinh nghiệm về phương pháp
dạy học môn Công nghệ và khả năng tích hợp GDMT vào dạy học Công nghệ
10.
7. Những đóng góp của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lí luận của việc tích hợp GDMT trong
dạy học Công nghệ 10.
Đỗ Thị Nhung
3
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Góp phần phản ánh thực trạng GDMT và BVMT trong dạy học Công
nghệ ở trường THPT.
- Phân tích nội dung tích hợp GDMT trong phần 1, chương 1: Trồng
trọt, lâm nghiệp đại cương – Công nghệ 10.
- Thiết kế được một số giáo án có ví dụ tích hợp GDMT trong dạy học
chương 1 - Công nghệ 10.
Đỗ Thị Nhung
4
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Phần II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN GDMT TRONG DẠY HỌC CÔNG NGHỆ 10
1.1. Khái niệm về môi trường và ô nhiễm môi trường
1.1.1. Khái niệm về môi trường
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, phát triển của con người và thiên nhiên (Điều 1, Luật BVMT của
Việt Nam, 1993).
Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần
thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên,
không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội...
Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên, mà chỉ
bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc
sống con người. Ví dụ: môi trường của học sinh gồm nhà trường với thầy
giáo, bạn bè, nội quy của trường, lớp học, sân chơi, phòng thí nghiệm, vườn
trường, tổ chức xã hội như Đoàn, Đội với các điều lệ hay gia đình, họ tộc,
làng xóm với những quy định không thành văn, chỉ truyền miệng nhưng vẫn
được công nhận, thi hành và các cơ quan hành chính các cấp với luật pháp,
nghị định, thông tư, quy định.
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở
để sống và phát triển.
1.1.2. Khái niệm về ô nhiễm môi trường
Theo định nghĩa trong Luật bảo vệ môi trường của nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam: Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của
môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường.
Đỗ Thị Nhung
5
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Theo cách hiểu chung, ô nhiễm môi trường là hiện tượng một chất nào
đó có mặt trong môi trường với thành phần và lượng chất có khả năng ngăn
cản các quá trình tự nhiên vận hành một cách bình thường hoặc làm cho các
quá trình này xảy ra theo xu hướng không như mong muốn, gây nên những
ảnh hưởng có hại đối với sức khoẻ và sự sinh tồn của con người hoặc của các
loài sinh vật khác sinh sống trong môi trường đó.
Ô nhiễm môi trường là khái niệm để chỉ sự xuất hiện của một chất lạ
trong môi trường tự nhiên hoặc làm biến đổi thành phần, tỷ lệ về hàm lượng
của các yếu tố có sẵn, gây độc hại cho cơ thể sinh vật và con người nếu như
hàm lượng của các chất đó vượt khỏi giới hạn thích nghi tiềm tàng của cơ thể.
1.2. GDMT trong dạy học Công Nghệ
1.2.1.
Thực trạng môi trường Việt Nam
Xếp hạng thứ 5 khu vực châu Á - Thái Bình về mức độ ô nhiễm khói
bụi ở thành phố đông dân, nồng độ khí thải tăng cao và nhanh, hiện tượng
nhiều dòng sông cục bộ chết, việc xuất hiện các làng ung thư... là những điểm
nóng, cung cấp những bức tranh nhỏ lẻ, khiến người dân bức xúc về thực
trạng môi trường Việt Nam hiện nay.
Vấn đề này ngày càng trầm trọng, đe doạ trực tiếp sự phát triển kinh tế
- xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai.
Ô nhiễm môi trường hoàn toàn không phải là một hiện tượng mới. Từ
thời thượng cổ, con người đã có những hoạt động làm ô nhiễm môi trường,
nhưng chưa đáng kể vì dân số ít, khoa học kĩ thuật chưa phát triển. Dần dần
những tác động của con người gây ô nhiễm môi trường ngày càng rõ rệt và
tăng lên đáng kể (đặc biệt là trong nửa cuối thế kỉ 20).
Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên
phát triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát
triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa chú trọng đúng mức. Tình trạng tách
Đỗ Thị Nhung
6
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra phổ
biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường
diễn ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng.
Ô nhiễm môi trường gây ra do những nguyên nhân chính sau:
-
Sự gia tăng dân số và tốc độ đô thị hoá diễn ra ngày càng nhanh.
-
Sự ô nhiễm môi trường có thể là hậu quả của các hoạt động tự nhiên,
hoạt động núi lửa, thiên tai lũ lụt, bão,…hoặc các hoạt động do con người
thực hiện trong công nghiệp, giao thông, chiến tranh và công nghệ quốc
phòng.
-
Sự gia tăng chất thải độc hại do con người sử dụng quá nhiều loại hoá
chất mới trong các ngành sản xuất công - nông nghiệp cũng như để đáp ứng
các nhu cầu sinh hoạt, trong khi chưa có biện pháp kiểm soát hữu hiệu, đặc
biệt là các chất phân huỷ ảnh hưởng đến khả năng tự thanh lọc của môi
trường.
Chất gây ô nhiễm môi trường rất đa dạng về nguồn gốc và chủng loại,
tuy vậy chúng được phân chia thành ba nhóm lớn: chất thải rắn, chất thải lỏng
và chất thải khí. Mỗi dạng có thể chứa đựng nhiều chất, từ các hoá chất, các
kim loại nặng, đến chất phóng xạ và vi trùng. Nhiệt cũng là tác nhân trực tiếp
hay gián tiếp gây nên sự ô nhiễm môi trường.
Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của
nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các
đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm
nước và ô nhiễm không khí.
Môi trường không khí: Chất lượng không khí ở Việt Nam nói chung
còn khá tốt, đặc biệt là ở nông thôn và miền núi. Thế nhưng vấn đề bụi lại
đang trở thành vấn đề cấp bách ở các khu đô thị và các khu công nghiệp. Việc
gia tăng các phương tiện giao thông cũng đang gây ô nhiễm không khí ở
Đỗ Thị Nhung
7
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
nhiều nơi. Nồng độ chì, khí CO khá cao, trực tiếp gây hại đến sức khoẻ của
những người tham gia giao thông. Nhiều vụ cháy rừng gần đây làm suy giảm
chất lượng không khí và gây ra một số hiện tượng thiên nhiên không bình
thường khác.
Ô nhiễm không khí, việc xả khói chứa bụi và các chất hóa học
vào bầu không khí. Ví dụ về các khí độc là cacbon mônôxít, điôxít lưu huỳnh,
các chất cloroflorocacbon (CFCs), và ôxít nitơ là chất thải của công nghiệp và
xe cộ. Ôzôn quang hóa và khói lẫn sương (smog) được tạo ra khi các ôxít nitơ
phản ứng với nước trong không khí (chính là sương) xúc tác là ánh sáng mặt
trời.
Môi
trường
nước: Chất
lượng nước ở thượng lưu các con
sông còn khá tốt nhưng vùng hạ
lưu phần lớn bị ô nhiễm, nhiều nơi
ô nhiễm nghiêm trọng. Chất lượng
nước suy giảm mạnh: nhiều chỉ
tiêu như BOD, COD, NH4, tổng N, tổng P cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều
lần. Nước ngầm ở một số vùng, đặc biệt là một số khu công nghiệp và đô thị
có nguy cơ cạn kiệt vào mùa khô và ở một số nơi đã có dấu hiệu bị ô nhiễm
do khai thác bừa bãi và không đúng kỹ thuật.
Đỗ Thị Nhung
8
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Ô nhiễm nước xảy ra khi nước bề mặt chảy qua rác thải sinh
hoạt, nước rác công nghiệp, các chất ô nhiễm trên mặt đất, rồi thấm xuống
nước ngầm.
Môi trường đất: Có xu thế thoái hoá do xói mòn, rửa trôi, mất chất hữu
cơ; khô hạn, sa mạc hoá, ngập úng, lũ; trượt, sạt lở đất; mặn hoá, phèn hoá...
dẫn đến nhiều vùng đất bị cắn cỗi, không còn khả năng canh tác và tăng diện
tích đất bị hoang mạc hoá.
Ô nhiễm đất xảy ra khi đất bị nhiễm các chất hóa học độc hại
(hàm lượng vượt quá giới hạn thông thường) do các hoạt động chủ động của
con người như khai thác khoáng sản, sản xuất công nghiệp, sử dụng phân bón
hóa học hoặc thuốc trừ sâu quá nhiều,... hoặc do bị rò rỉ từ các thùng chứa
Đỗ Thị Nhung
9
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
ngầm. Phổ biến nhất trong các loại chất ô nhiễm đất là hydrocacbon, kim loại
nặng, MTBE, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, và các hydrocacbon clo hóa.
Rừng và độ che phủ
thảm thực vật: Độ che
phủ rừng tăng nhưng chất
lượng rừng chưa được cải
thiện, vẫn tiếp tục bị suy
giảm. Rừng tự nhiên đầu
nguồn và rừng ngập mặn
bị tàn phá nghiêm trọng.
Đỗ Thị Nhung
10
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Môi trường biển ven
bờ: Việt Nam có bờ biển
dài hơn 3.200km nhưng
trong vòng 20 năm qua,
diện tích rừng ngập mặn
nước ta giảm hơn một nửa.
Lũ quét, triều cường, sóng
biển dẫn tới sạt lở bờ biển
làm cho các loài sinh vật
bị mất nơi cư trú, suy giảm
mạnh về chủng loại và số
lượng.
Đa dạng sinh học: Việt
Nam là một trong mười quốc
gia có đa dạng sinh học thuộc
dạng cao nhất trên thế giới.
Tuy nhiên, những năm gần
đây, đa dạng sinh học nước ta
bị suy giảm mạnh do cháy
rừng, do chuyển đổi mục đích
sử dụng đất đai, làm thu hẹp
nơi cư trú của các giống loài.
Đỗ Thị Nhung
11
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Nạn khai thác và đánh bắt quá mức, buôn bán trái phép động vật, thực vật quý
hiếm vẫn tiếp diễn...
Ô nhiễm môi trường đang trở thành hiểm hoạ đối với đời sống
của sinh giới và cả đối với con người ở bất kì phạm vi nào, từ quốc gia, khu
vực đến toàn cầu. Ô nhiễm môi trường là sản phẩm của quá trình công nghiệp
hoá và đô thị hoá diễn ra hơn 200 năm nay. Ô nhiễm hiện nay đã lan tràn vào
mọi nơi, từ đất, nước đến khí quyển, từ bề mặt đất đến các lớp sâu của đất và
của đại dương.
Việt nam chúng ta đang trong quá trình hiện đại hoá, công nhiệp hoá
đất nước, hơn nữa sự đô thị hoá cũng như giao thông vận tải chưa phát triển vì
thế sự ô nhiễm môi trường nói chung chưa xảy ra trên diện rộng, nhưng ô
nhiễm môi trường đã xảy ra cục bộ, từng lúc, từng nơi.
1.2.2.
Khái niệm GDMT
Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục
chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kỹ
năng và giá trị tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền
vững về sinh thái.
Giáo dục môi trường cũng được quan niệm là: “Một quá trình thường
xuyên qua đó con người nhận thức được môi trường của họ và thu được kiến
thức, giá trị, kỹ năng, kinh nghiệm cùng quyết tâm hành động giúp họ giải
quyết các vấn đề môi trường hiện tại và tương lai, để đáp ứng các yêu cầu của
các thế hệ hiện nay mà không vi phạm khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế
hệ tương lai” (Dự án VIE/95/041, 1997).
1.2.3.
Mục tiêu GDMT
- Quan tâm: Giúp các tổ chức xã hội và cá nhân biết cảm thụ và quan tâm
đến môi trường nói chung và vấn đề môi trường nói riêng.
Đỗ Thị Nhung
12
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Tri thức : Giúp các tổ chức xã hội và cá nhân có được nhiều trải nghiệm
về môi trường và các vấn đề của nó, có tri thức cơ bản về môi trường và
các vấn đề của nó.
- Thái độ: Giúp các tổ chức và cá nhân có được động cơ tham gia tích cực
cải thiện và bảo vệ môi trường, có tình cảm và giá trị quan đối với môi
trường.
- Kỹ năng : Giúp các tổ chức và cá nhân có kỹ năng xác định và giải quyết
các vấn đề môi trường.
- Tham gia: Cung cấp cho mọi người cơ hội được tham dự tích cực vào
mọi hoạt động có mục tiêu giải quyết vấn đề môi trường.
1.2.4.
Nguyên tắc GDMT
- Giáo dục về môi trường: Xem môi trường là một đối tượng khoa học,
người dạy truyền đạt cho người học các kiến thức của bộ môn khoa học
về môi trường, cũng như phương pháp nghiên cứu về đối tượng đó.
- Giáo dục trong môi trường: Xem môi trường thiên nhiên hoặc nhân tạo
như một địa bàn một phương tiện để giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Với
cách tiếp cận này, môi trường sẽ trở thành “phòng thí nghiệm thực tế” đa
dạng, sinh động cho người dạy và người học. Xét về hiệu quả học tập
kiến thức, kỹ năng, nghiên cứu có thể hiệu quả rất cao.
- Giáo dục vì môi trường: Truyền đạt kiến thức về bản chất, đặc trưng của
môi trường hình thành thái độ, ứng xử, ý thức trách nhiệm, quan niệm
giá trị nhân cách, đạo đức đúng đắn về môi trường, cung cấp tri thức kỹ
năng, phương pháp cần thiết cho những quyết định, hành động BVMT
và phát triển bền vững.
1.2.5.
Nội dung GDMT
- Huy động kinh nghiệm của đối tượng giáo dục, tức là khai thác những
kinh nghiệm thực tế sống phong phú và làm việc của bản thân. Không
Đỗ Thị Nhung
13
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
ngừng nâng cao nhận thức về MT của đối tượng giáo dục, làm cho người
học hiểu rõ bản chất, tầm quan trọng của các vấn đề MT và trách nhiệm
của họ đối với các vấn đề này.
- Xem xét thái độ và quan niệm về giá trị, tức là xem xét tính đúng đắn và
sự phù hợp của thái độ và quan niệm của người học về các vấn đề môi
trường.
- Xây dựng ý thức trách nhiệm, nghĩa là thái độ và quan niệm về giá trị
phải được thể hiện thành ý thức trách nhiệm, cam kết của người học đối
với các vấn đề MT cụ thể mà họ gặp.
- Tăng cường hiểu biết về các vấn đề MT cần xử lý cũng như cần phòng
ngừa và khả năng khoa học, công nghệ, quản lý để thực hiện các việc
này.
- Cung cấp kỹ năng: Đó là những kỹ năng cụ thể để quan sát, phân tích,
quyết định, hành động, và tổ chức hành động.
- Khuyến khích hành động: Các nội dung nêu trên cần được thể hiện trong
thực tế thành hành động cụ thể của người học.
1.2.6.
Phương pháp GDMT
Thường chú ý sử dụng 7 phương pháp sau:
- Giáo dục qua kinh nghiệm thực tế của người học, người học được tiếp
xúc trực tiếp với đối tượng học tập nghiên cứu.
- Tham quan, khảo sát thực địa.
- Phương pháp giải quyết vấn đề.
- Nghiên cứu những vấn đề môi trường thực tế,những trường hợp cụ thể
của địa phương hoặc cơ sở nơi người học ở hoặc làm việc.
- Học tập theo thực tiễn dự án.
- Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.
Đỗ Thị Nhung
14
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Phát triển thái độ, cách ứng sử, đạo đức cần có về MT cụ thể thông qua
lồng ghép các vấn đề giá trị trong bài giảng, giảng giải ý nghĩa trong và
ngoài bài giảng.
1.3.Nhiệm vụ của chương trình Công Nghệ 10-THPT
1.3.1.
Nhiệm vụ trí dục phổ thông
- Chương trình Công nghệ Nông nghiệp ở phổ thông có nhiệm vụ trang
bị cho HS những kiến thức kĩ thuật nông nghiệp phổ thông, cơ bản hiện đại và
phù hợp với thực tiễn sản xuất Nông nghiệp ở nước ta.
- Kiến thức phổ thông: Là những kiến thức cần thiết tối thiểu cho thanh
thiếu niên đủ điều kiện tham gia lao động sản xuất và các hoạt động xã hội.
- Kiến thức cơ bản hiện đại: Là kiến thức được lựa chọn dựa trên các học
thuyết quy luật cơ bản và phù hợp với sự phát triển khoa học hiện đại.
Trong chương trình Công nghệ 10 – THPT, kiến thức cơ bản nhất là hệ
thống các kiến thức các khái niệm, các quy luật được phát triển theo một trình
tự logic chặt chẽ. Các kiến thức này đặt nền móng cho việc tiếp tục học lên
hoặc vào các trường trung học chuyên nghiệp – dạy nghề có liên quan hoặc ra
đời, hòa nhập với cộng đồng, tham gia lao động sản xuất và các công việc
trong ngành nghề khác.
Khoa học kĩ thuật ngày càng hiện đại, lượng thông tin ngày một tăng lên
nhanh chóng. Vì vậy, những kiến thức phổ thông cũng cần phải cập nhật, đổi
mới. Ngoài việc cải cách thay SGK theo chu kì từng giai đoạn, thì người giáo
viên cũng cần phải thường xuyên cập nhật tri thức, tìm kiếm tích lũy thông tin
khoa học Công nghệ.
Qua quá trình dạy học HS phải hiểu, nhớ và vận dụng được, theo nguyên
lí giáo dục đi đôi với thực hành, lí luận kết hợp với thực tiễn, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, việc giảng dạy môn Công nghệ phải quán triệt tinh thần
giáo dục kĩ thuật tổng hợp. Thông qua môn Công nghệ giúp HS nắm vững cơ
Đỗ Thị Nhung
15
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
sở khoa học của những công cụ kĩ thuật, quy trình sản xuất cơ bản có liên
quan đến các đối tượng sống. Nguồn tri thức cung cấp cho HS thông qua con
đường giáo dục là nguồn tri thức có mục đích, đã được chọn lọc, sắp xếp có
hệ thống, quy định trong chương trình SGK và được GV thể hiện trong quá
trình hướng dẫn HS theo kế hoạch hợp lí.
1.3.2.
Nhiệm vụ phát triển tư duy
Trong quá trình dạy học, GV phải tạo cơ hội thuận lợi để HS tập dượt,
phát triển các kĩ năng và phẩm chất trí tuệ nhằm nâng cao hiệu quả nhận thức,
để HS rèn luyện các thao tác, kĩ năng, kĩ xảo, xây dựng thói quen vận dụng
kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Nhiệm vụ phát triển tư duy bao gồm hai mặt liên quan chặt chẽ với nhau
là: Phát triển năng lực nhận thức và phát triển năng lực hành động.
- Năng lực nhận thức: Bao gồm hệ thống các kĩ năng giúp cho quá trình
nhận thức thuận lợi và có hiệu quả hơn như: kĩ năng quan sát, kĩ năng
làm thí nghiệm, kĩ năng suy luận, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng
hóa,...
- Năng lực hành động: Đó là phẩm chất tư duy, biểu hiện ở tính tích cực,
độc lập, sáng tạo trong học tập như: tự học, tự nghiên cứu, năng lực phát
hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh trong thực tế.
Trong quá trình dạy học Công nghệ ở trường THPT, GV cần chú ý
phát triển các kĩ năng nhận thức sau:
a. Kĩ năng quan sát
Biết quan sát không phải chỉ là sự tinh tường của các giác quan mà điều
quan trọng hơn còn là biết định hướng quan sát sao cho tư liệu tri giác được
vừa phong phú, lại vừa phù hợp với mục đích nhận thức đối tượng và hiện
tượng sống.
Đỗ Thị Nhung
16
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Trong dạy học, để hình thành năng lực quan sát, GV phải tập cho HS
biết xác định mục đích, nội dung, phương pháp và phương tiện quan sát. Đó
là những kĩ năng giúp HS quan sát thu được các tài liệu tri giác về đối tượng.
Những gì thu được từ hoạt động quan sát trong tự nhiên, trong thực tiễn sản
xuất và đời sống, trong thực nghiệm khoa học cần phải được tiếp tục gia
công, xử lý để có thể trở thành các biểu tượng rồi từ đó khái quát thành các
khái niệm, quy luật sinh học. Hoạt động gia công, xử lí này đòi hỏi phải sử
dụng các biện pháp logic như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, rút
ra kết luận.
b. Kĩ năng làm thí nghiệm
Thông qua việc thực hiện các thí nghiệm trên lớp, GV rèn luyện, giúp
HS biết cách xác định mục đích thí nghiệm, xây dựng kế hoạch tiến hành. Kĩ
năng thí nghiệm bao gồm: Lựa chọn, lắp ráp các dụng cụ thí nghiệm, bố trí thí
nghiệm. Giúp HS biết ghi chép diễn biến kết quả của thí nghiệm, giải thích
các hiện tượng và biết tường trình tổng kết rút ra kết luận.
c. Phát triển các biện pháp, phương pháp tư duy lôgic
Mọi hoạt động đều cần tới tư duy. Tư duy là đặc trưng của hoạt động
nhận thức. Nói tư duy, chủ yếu muốn đề cập tới hai con đường logic là quy
nạp, diễn dịch và các thao tác tư duy bao gồm phân tích, tổng hợp, so sánh,
trừu tượng hóa, khái quát hóa. Mỗi con đường đều sử dụng các thao tác tư
duy đó.
Quy nạp: Là quá trình tư duy đi từ các sự kiện riêng rẽ đến các quy luật,
quy trình, nguyên lý chung. Quy nạp bắt đầu từ việc tích lũy những hiểu biết
của nhiều sự kiện và hiện tượng cùng loại. Nhờ so sánh, phân tích các nhóm
đối tượng cùng loại mà người ta phát hiện được các dấu hiệu và thuộc tính
chung của chúng. Quy nạp chỉ có kết quả khi đã tích lũy được đầy đủ những
sự kiện quan sát, thực nghiệm.
Đỗ Thị Nhung
17
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Diễn dịch: Là con đường tư duy đi từ những quy luật khái niệm đến nhận
thức các sự vật hiện tượng cụ thể. Suy lí diễn dịch thường dùng khi vận dụng
khái niệm đã biết vào các trường hợp cụ thể, qua đó mà nắm vững thêm khái
niệm. Nhờ có diễn dịch mà trong dạy học hình thành những tri thức cụ thể,
cùng loại được nhanh chóng, đầy đủ và chính xác.
Quy nạp và diễn dịch là hai mặt của quá trình tư duy thống nhất, luôn bổ
sung hỗ trợ cho nhau và thường được sử dụng đồng thời trong quá trình dạy
học. Cả hai con đường quy nạp và diễn dịch mục đích cuối cùng là làm sao
cho HS nắm chắc các khái niệm.
1.3.3.
Nhiệm vụ giáo dục
Trong quá trình dạy học, môn Công nghệ cũng góp phần vào nhiệm vụ
giáo dục cho HS, bao gồm các nội dung sau:
- Giáo dục thế giới quan khoa học
- Giáo dục đạo đức
- Giáo dục lao động
- Gáo dục hướng nghiệp
- Giáo dục môi trường
Cung cấp cho HS những nhận thức đúng đắn về vị trí của việc BVMT
thiên nhiên.
Cung cấp cho HS những kiến thức hiểu biết về môi trường.
Phải biến những nhận thức và kiến thức hiểu biết đó thành những hành
động thiết thực để tham gia bảo vệ môi trường.
Hiện nay vẫn còn nặng giáo dục về MT, nhưng chưa chuyển được
thành giáo dục vì MT. Chính vì thế mà ý thức của mọi người đối với MT còn
chưa cao.
Đỗ Thị Nhung
18
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Ba nhiệm vụ dạy học có mối quan hệ khăng khít với nhau, không tách rời
nhau và phải thực hiện đồng thời trong từng tiết học, từng chương và cả quá
trình dạy học.
Trong đó, nhiệm vụ trí dục là nhiệm vụ hàng đầu bởi phải có một vốn
tri thức nhất định mới hình thành và phát triển được thao tác tư duy và mới có
thể biến kiến thức thành niềm tin, thành hành vi đạo đức.
Nhiệm vụ phát triển tư duy chỉ có thể thực hiện được thông qua quá
trình nhận thức, nhưng khi đạt đến trình độ tư duy nhất định sẽ giúp cho quá
trình tiếp thu kiến thức thuận lợi hơn.
Nhiệm vụ giáo dục là kết quả tất yếu và cũng là mục đích cuối cùng
của quá trình dạy học khi HS đã có những nhận thức đúng đắn nhiệm vụ học
tập của mình, có ý thức tự giác học tập thì kết quả học tập sẽ tốt hơn.
Chương 2
TÍCH HỢP GDMT TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG 1,
CÔNG NGHỆ 10 - THPT
2.1. Khái niệm tích hợp
Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp
Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu
cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các
môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống
Đỗ Thị Nhung
19
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến
trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó.
Tích hợp trong phạm vi GDBVMT là một khái niệm chung, nói về một
phương thức, một cách tiến hành giảng dạy về môi trường cho HS. Cách này
không đòi hỏi phải có một môn học riêng, bởi vì các kiến thức GDMT được
đưa xen vào nội dung các môn học đã có ở trường phổ thông. Tích hợp là một
cách có hệ thống các kiến thức GDBVMT và kiến thức môn học thành một
nội dung thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau dựa trên những mối liên hệ về
lí luận và thực tiễn được đề cập trong bài học. Như vậy, kiến thức GDBVMT
không phải muốn đưa vào bài học nào cũng được, mà phải căn cứ vào nội
dung của bài học có liên quan với vấn đề môi trường mới có thể tìm chỗ thích
hợp để đưa vào.
Tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định
lẫn nhau, là tính liên kết và tính toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể
toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn
dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp
đặt các thành phần bên cạnh nhau. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức,
kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết,
phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình
huống.
2.2. Phương pháp tích hợp GDMT trong dạy học
Dạy học Công nghệ theo định hướng tích hợp vẫn theo đuổi quan điểm
“lấy HS làm trung tâm”, tích cực hoá hoạt động học tập của HS trong mọi
mặt, mọi khâu của quá trình dạy học; tìm mọi cách phát huy năng lực tự học,
năng lực sáng tạo của HS. Do vậy, việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp
dạy học cần chú ý bảo đảm các yêu cầu sau:
Đỗ Thị Nhung
20
Khoa Sinh - KTNN
- Xem thêm -