Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng lý luận mác - lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta...

Tài liệu Vận dụng lý luận mác - lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta

.DOCX
107
144
96

Mô tả:

LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sở hữu tư liệu sản xuất là một nhân tố cơ bản cấu thành hệ thống quan hệ sản xuất trong từng chế độ kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một trong những nội dung cơ bản cần phải giải quyết là phải tiến hành cải tạo các quan hệ sản xuất mà điểm xuất phát là cải biến quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sang quan hệ sở hữu công cộng để đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, quá trình chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu nhà nước được thực hiện thông qua quốc hữu hoá các tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản dưới hai hình thức không bồi thường và có bồi thường; chuyển sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tập thể thông qua phong trào hợp tác hoá để tập thể hoá tư liệu sản xuất. Việc làm đó đããđưa quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất vượt quá xa so với khả năng quản l› và trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và văn kiện các kỳ Đại hội Đảng từ Đại hội VII đến nay đều khẳng định thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể phải ngày cảng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Điều đó có nghĩa là song song với phát triển kinh tế tư nhân phải từng bước chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Thực hiện chủ trương đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta nói chung và sở hữu tư liệu sản xuất nói riêng đã được triển khai mạnh mẽ. Tuy vậy, đến nay trên một số lĩnh vực việc nghiên cứu lý luận vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chẳng hạn, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước đã được nhiều công trình nghiên cứu, nhưng vấn đề chuyển từ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng còn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ; quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chuyển sở hữu thuần túy của nhà nước sang sở hữu của các cổ đông đã làm cho nhiều người lầm tưởng đó là quá trình tư nhân hóa tư liệu sản xuất. Trong khi đó, trên thực tế quá trình cổ phần hóa đang được đẩy mạnh, quá trình chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng đã và đang diễn ra thường xuyên và phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Thực trạng đó phải được lý giải về mặt lý luận để làm cơ sở cho việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là lý do để tác giả lựa chọn “Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta” làm đề tài luận văn tốt nghiệp sau quá trình học tập hệ cao học chuyên ngành Kinh tế chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở Việt Nam, trong hơn hai thập niên vừa qua, liên quan đến vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất đã có nhiều công trình nghiên cứu, cụ thể là: - Luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Hồng Sơn với đề tài: Đa dạng hoá sở hữu ở nước ta hiện nay, xu hướng và vận dụng. Bảo vệ năm 1993, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Luận án phó tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Đình Kháng với đề tài: Sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần. Bảo vệ năm 1993 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Luận án phó tiến sĩ kinh tế của Đỗ Trọng Bá với đề tài: Vấn về sở hữu trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Bảo vệ năm 1994, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Luận án phó tiến sĩ triết học của Lương Minh Cừ với đề tài: Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội. Bảo vệ năm 1996 tại Viện Triết học. Năm 1998, Viện Thông tin khoa học xã hội xuất bản cuốn Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế trị trường, cũng năm này Nxb Chính trị quốc gia xuất bản cuốn Xu hướng biến động của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam do PGS.PTS Nguyễn Tĩnh Gia chủ biên. Tác phẩm Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam của hai tác giả PGS.PTS Nguyễn Đình Kháng và PTS Vũ Văn Phúc xuất bản năm 1999. Năm 2004, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản cuốn Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay do GS.TS Nguyễn Văn Thạo và TS Nguyễn Hữu Đạt đồng chủ biên. Cùng năm này, Nxb Khoa học xã hội cũng giới thiệu cuốn Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt nam của tác giả Nguyễn Văn Thức. Năm 2006, Nxb lý luận chính trị cho ra mắt bạn đọc cuốn Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam của hai tác giả PGS.TS Nguyễn Cúc và PGS.TS Kim Văn Chính. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và diễn đàn trên đã làm rõ vị trí, vai trò của từng hình thức sở hữu trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Song, việc nghiên cứu sự biến đổi sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất dưới các hình thức còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Do đó chưa làm rõ nội dung và yêu cầu xã hội hóa sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta để xác định phương hương và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với những nhận xét đó, luận văn mong muốn góp phần vào việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trên đây. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Khái quát hoá những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất và sự biến đổi của quan hệ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng những luận điểm đó vào thực tiễn nước ta thời kỳ trước và sau đổi mới, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất và sự biến đổi quan hệ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. - Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta giai đoạn trước và sau đổi mới. - Đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu 3.3.1. Về nội dung Lý luận Mác – Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất rất rộng lớn và trừu tượng, bao hàm nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, song luận văn chỉ tập trung vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự biến đổi quan hệ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tư liệu sản xuất bao gồm nhiều loại, nhưng luận văn chỉ phân tích làm rõ sự biến đổi quan hệ sở hữu về những tư liệu sản xuất do lao động của con người tạo ra thông qua sự chuyển hoá từ vốn tiền tệ thành tư liệu sản xuất và ngược lại. 3.3.2. Về thời gian Nghiên cứu sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta từ khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận - Những nguyên lý kinh tế, những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề sở hữu nói chung và sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. - Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết vấn đề sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. - Kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin, thông qua phương pháp trừu tượng hóa nhằm làm rõ các quan hệ lợi ích kinh tế từ sở hữu và sự cần thiết biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất để thực hiện lợi ích kinh tế. Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp cụ thể như điều tra khảo sát, thu thập và xử lý tư liệu để làm cơ sở cho việc phân tích và tổng hợp, rút ra những kết luận cần thiết. 5. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Làm rõ những cơ sở lý luận về sự biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta trong quá trình đổi mới. - Phân tích, đánh giá thực trạng biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong thời gian qua. - Đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta. - Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy và hoạch định chính sách về xã hội hóa sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. Chương 1 NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT 1.1. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ SỞ HỮU VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT 1.1.1. Khái quát một số luận điểm chủ yếu về sở hữu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin Sở hữu luôn là một vấn đề được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin quan tâm đặc biệt. Trong hầu hết các tác phẩm từ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đến bộ “Tư bản”, dù không dành riêng một phần nào để nói về sở hữu, về chế độ sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, nhưng khi bàn về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ông luôn đặt sở hữu lên vị trí hàng đầu và coi đó là vấn đề cơ bản mà các cuộc cách mạng xã hội phải giải quyết. Qua nghiên cứu những tư tưởng đã được nêu lên trong các tác phẩm của các nhà kinh điển xoay quanh các vấn đề về sở hữu, có thể rút ra những luận điểm chủ yếu về sở hữu như sau: Một là, sở hữu trước hết là quan hệ xã hội giữa người với người trong việc chiếm hữu sản phẩm tự nhiên và của cải do con người tạo ra. Sở hữu chính là phương thức chiếm hữu mang tính xã hội trong những điều kiện lịch sử cụ thể đối với những của cải vật chất và tinh thần được sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất ấy, hoặc để thỏa mãn mọi nhu cầu sinh hoạt của con người. Theo Mác: “Khoa kinh tế chính trị không nghiên cứu các vật phẩm, mà nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người, xét cho đến cùng là giữa giai cấp với giai cấp, nhưng các quan hệ đó bao giờ cũng gắn với các vật phẩm và biểu hiện ra như là những vật phẩm” [31, tr.615]. Cho nên, nói đến sở hữu là nói đến quan hệ xã hội giữa người và người đối với vật. Hai là, sở hữu được coi là điều kiện của nền sản xuất xã hội. Mác viết: “Bất cứ nền sản xuất nào cũng đều là việc con người chiếm hữu những vật phẩm của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định và thông qua hình thái đó. Theo ý nghĩa đó, nói rằng sở hữu (sự chiếm hữu) là một điều kiện của sản xuất...” [30, tr.860]. Mác lại nói “Nhưng khi người ta nói rằng, nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó cũng không thể có một nền sản xuất nào cả, do đó cũng không có một xã hội nào cả, thì đấy chỉ là một điều lắp lại” [30, tr.860]. Trên thực tế, sản xuất xã hội lại là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người, vì thế sở hữu là vấn đề trọng yếu trong lịch sử nhân loại. Ba là, quan hệ sở hữu luôn luôn biến đổi, không có một hình thức sở hữu nào tồn tại vĩnh viễn. Nguyên nhân của sự biến đổi đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất mới, đòi hỏi phải có quan hệ sở hữu mới phù hợp. F.Ăngghen viết: “Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa” [29, tr.467]. C.Mác cũng đã nói về sự chuyển biến liên tục của quan hệ sở hữu từ thấp đến cao: “Quan hệ sở hữu “cổ đại” đã bị quan hệ sở hữu “phong kiến” tiêu diệt, và quan hệ sở hữu phong kiến đã bị quan hệ sở hữu “tư sản” tiêu diệt. Như vậy, chính lịch sử đã phê phán những quan hệ sở hữu đã qua” [32, tr.41]. C.Mác cũng đã chỉ ra cơ sở khách quan quyết định sự tồn tại của một hình thức sở hữu nhất định nào đó chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất: Sự chiếm hữu đó nhất thiết phải có một tính chất phổ biến, phù hợp với những lực lượng sản xuất và sự giao tiếp. Bốn là, sự vận động, phát triển của quan hệ sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên. Một hình thái xã hội - với một hình thức sở hữu nhất định chỉ mất đi, một hình thái xã hội mới với một hình thức sở hữu mới chỉ ra đời trong những điều kiện nhất định nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Bởi vì, theo C.Mác: Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ [31, tr.15-16]. Năm là, quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa chuyển biến theo hướng xã hội hóa, quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng. C.Mác chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản trong quá trình sản xuất, theo đuổi giá trị thặng dư đã tạo ra những nhân tố kinh tế mang tính chất quá độ sang phương thức sản xuất mới là các công ty cổ phần và nhà máy hợp tác của công nhân. Những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, cũng như nhà máy hợp tác, đều phải được coi là những hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể, nhưng chỉ có điểm khác nhau là: trong những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn được giải quyết một cách tiêu cực, còn trong những nhà máy hợp tác, mâu thuẫn được giải quyết một cách tích cực [36, tr.673]. Điều đáng chú ý là, khi nghiên cứu công ty cổ phần, C.Mác đã thấy “chức năng tư bản tách rời với quyền sở hữu tư bản”, và Người cho rằng “đó là kết quả của sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa” [36, tr.670, 668]. Sự tách rời đó chính là sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng (quyền quản lý và quyền kinh doanh). Điều này cũng được C.Mác đề cập rất kỹ khi nghiên cứu về tư bản cho vay và địa tô. Với sự tách rời này cho phép huy động được nguồn vốn to lớn trong xã hội cho sự phát triển sản xuất. Sáu là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải là một quá trình lâu dài. Tư tưởng này được F.Ăngghen nêu rõ: Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Trả lời: Không, không thể được, cũng như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu [29, tr.469]. Khi bàn về cải tạo chế dộ tư hữu, Ph.Ăngghen còn nói rõ thêm: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” [29, tr.615], và “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác” [4, tr.618]. Vận dụng quan điểm này, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tuân theo di huấn của các nhà kinh điển: không nôn nóng xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, sử dụng các thành phần kinh tế dựa trên tiền đề sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đang phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất nhưng phải tìm cách hạn chế và ngăn cấm lợi dụng quyền sở hữu tư liệu sản xuất để nô dịch người lao động. Bảy là, sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong một giai đoạn nào đó của sự phát triển xã hội, bên cạnh một phương thức sản xuất chủ đạo còn phải kế thừa những tàn dư của các phương thức sản xuất tàn dư, điều đó khiến cho trong cùng một thời gian, trong một nước có thể cùng tồn tại nhiều hình thức sở hữu. C.Mác viết: Chúng ta đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ. Ngoài những tai họa của thời đại hiện nay ra, chúng ta còn phải chịu đựng cả một loạt những tai họa kế thừa do chỗ các phương thức sản xuất cổ xưa lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra [35, tr.19]. Sau này, V.I.Lênin đã khẳng định sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu và nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: “Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” [21, tr.362]. 1.1.2. Vị trí của sở hữu tư liệu sản xuất trong các cuộc cách mạng xã hội Trong lịch sử, các cuộc cách mạng xã hội đã diễn ra bao giờ cũng gắn liền với mục tiêu cải biến hoặc thay đổi chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm giữ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp đó nắm giữ quyền thống trị xã hội về mặt kinh tế và do đó thống trị chính trị, tư tưởng. Theo C.Mác: “Vấn đề sở hữu bao giờ cũng là vấn đề sống còn của giai cấp này hay giai cấp khác - tùy thuộc vào trình độ phát triển của công nghiệp” [29, tr.428]. Đối với những người cộng sản, sở hữu được coi là vấn đề hàng đầu, vấn đề cơ bản của mọi phong trào cách mạng. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản: “Tóm lại, ở tất cả mọi nơi, những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành. Trong tất cả phong trào ấy, họ đều đưa vấn đề sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào” [29, tr.645-646]. Xuất phát từ quan niệm cho rằng mọi cuộc cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ xã hội mới bao giờ cũng phải đưa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu, song mục đích của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ hoàn toàn mọi thứ sở hữu, cũng không tước bỏ mọi quyền chiếm hữu sản phẩm xã hội của người lao động, mà chỉ tước bỏ quyền chiếm hữu sản phẩm lao động ấy để nô dịch lao động của người khác. Khi coi chế độ sở hữu tư sản hiện đại là thứ sở hữu dựa trên “bóc lột lao động làm thuê”, thứ sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực: Tư bản và lao động, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Nhưng chế độ tư hữu hiện thời, chế độ sở hữu tư sản lại là biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia. Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu [29, tr.616]. Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, C.Mác đã chỉ rõ vị trí và vai trò của sở hữu trong sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản chi phối các yếu tố khác của đời sống xã hội. Mặt khác, bản thân chế độ sở hữu cũng là một yếu tố động, luôn có sự cải biến. Một trong những động lực chủ yếu, nguyên nhân chủ yếu của sự vận động, biến đổi, cải biến đó là sự phát triển không ngừng cả về trình độ, tính chất và quy mô của lực lượng sản xuất xã hội. Khi chế độ sở hữu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi mọi yếu tố khác trong cấu trúc xã hội, cuối cùng sẽ làm thay đổi toàn bộ hình thái kinh tế - xã hội, một chế độ xã hội nào đó. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội có một chế độ sở hữu cơ bản đặc trưng cho hình thái kinh tế - xã hội đó. Từ chế độ sở hữu, trong những quan hệ sở hữu, “bao giờ chúng ta cũng tìm được cái điều bí ẩn sâu xa nhất, cái nền móng thầm kín của toàn bộ kết cấu xã hội” [37, tr.499]. C.Mác chỉ ra rằng, giai cấp nào nắm giữ những tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất, nắm quyền phân phối sản phẩm xã hội. Giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các giá trị vật chất thì giai cấp đó cũng nắm quyền chi phối mọi lĩnh vực hoạt động khác của đời sống xã hội, là giai cấp thống trị trong xã hội. C.Mác đã nêu lên các giai đoạn phát triển của xã hội loài người, trải qua năm phương thức sản xuất, đánh dấu những bước tiến của lịch sử xã hội loài người, tương ứng với các giai đoạn phát triển đó là những hình thái (chế độ sở hữu) khác nhau: sở hữu bộ lạc, sở hữu công xã hay sở hữu nhà nước thời cổ, sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp, sở hữu tư sản, sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự thay thế chế độ sở hữu này bằng chế độ sở hữu khác là một tất yếu khách quan, là kết quả tác động của các quy luật khách quan, trong đó chủ yếu là tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. 1.1.3. Vị trí của sở hữu tư liệu sản xuất trong hệ thống các quan hệ sản xuất Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát trong hệ thống các quan hệ sản xuất. Ta biết rằng quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình tái sản xuất, do sự chi phối của ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối. Sở hữu là mặt đầu tiên, là cơ sở cho các mặt khác của quan hệ sản xuất. 1.1.3.1. Sở hữu - cơ sở của các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối Trong một xã hội nhất định, giai cấp nào, tập đoàn nào nắm quyền sở hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó, tập đoàn đó nắm quyền chi phối việc tổ chức quản lý sản xuất và phân phối kết quả sản xuất, quyết định hình thức thực hiện lợi ích kinh tế có lợi cho mình. Ngược lại, những giai cấp khác, tập đoàn khác không nắm được quyền quyết định về những tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ bị rơi vào tình trạng phụ thuộc và phục tùng, do đó mọi hoạt động sản xuất cũng như những thành quả thu được bởi lao động của họ chỉ nhằm phục vụ trước hết cho lợi ích của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, trên thực tế, từ khi quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng tư liệu sản xuất thì mâu thuẫn giữa chủ sở hữu tư liệu sản xuất với người lao động sử dụng tư liệu sản xuất xuất hiện. Vấn đề đầu tiên và cuối cùng mà người lao động quan tâm là phân phối như thế nào, tức là vấn đề lợi ích kinh tế. Chỉ thông qua lợi ích, các thành viên có liên quan trong hệ thống quan hệ sản xuất mới nhận thức đúng về quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ giữa người với người đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất là cơ sở quyết định vai trò cũng như việc thực hiện lợi ích kinh tế của mỗi người, mỗi tập đoàn, giai cấp. Nói cách khác, lợi ích là quan hệ phản ánh cái bản chất sâu thẳm bên trong của quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu. Lịch sử cho thấy, con người từ xưa đến nay tranh giành quyền sở hữu, quyền tổ chức quản lý sản xuất cuối cùng cũng chỉ để thực hiện lợi ích kinh tế mà thôi. Giai cấp bị trị xưa nay đi theo lực lượng tiến bộ thực hiện các cuộc cách mạng xã hội để cuối cùng có được lợi ích chính đáng của mình. Xác định điều này có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc xác định mối quan hệ trực tiếp giữa quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối. Khi lợi ích của người lao động không được bảo đảm thì sớm muộn gì cũng tạo ra mâu thuẫn với chủ sở hữu mà trước hết là mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế rồi tất yếu sau đó là mâu thuẫn về quyền lợi xã hội, chính trị. Tuy quan hệ sở hữu có vai trò quyết định đối với những mặt khác của quan hệ sản xuất, nhưng các quan hệ phân phối và tổ chức quản lý, đến lượt nó lại quyết định trở lại đối với việc bảo tồn hay phá vỡ quan hệ sở hữu. Nếu hệ thống tổ chức quản lý thích hợp, giải quyết hài hòa vấn đề lợi ích kinh tế thì nó duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sở hữu. Trái lại, không có một hệ thống tổ chức quản lý thích hợp và không giải quyết tốt vấn đề lợi ích thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá vỡ quan hệ sở hữu. Nói cách khác, nếu bỏ qua hai yếu tố quản lý và phân phối thì việc xác lập quan hệ sở hữu chỉ là hình thức, không có tác dụng tích cực trong thực tế. Vai trò của quan hệ quản lý và quan hệ phân phối là ở chỗ chúng làm cho quan hệ sở hữu từ chỗ được thừa nhận về mặt pháp lý trở nên có nội dung hiện thực, được cảm nhận rõ ràng và cụ thể ở việc thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu. Lịch sử cho thấy, nhờ cải cách trong quản lý tổ chức sản xuất và điều hoà vấn đề lợi ích giữa chủ sở hữu tư bản với người lao động mà xã hội tư bản vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Quyền sở hữu của chủ sở hữu sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có lợi ích kinh tế. Lợi ích sẽ được duy trì tương đối ổn định và trở thành động lực bên trong thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội khi chủ sở hữu và chủ sử dụng tư liệu sản xuất được thực hiện về mặt kinh tế trong quá trình tái sản xuất. Thực tiễn đổi mới trong 20 năm qua cho thấy vai trò to lớn của việc thực hiện đúng đắn lợi ích kinh tế quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ xã hội. 1.1.3.2. Sở hữu - cơ sở của chế độ chính trị - xã hội Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội giữ vai trò phương pháp luận để phân tích các thời đại lịch sử khác nhau. Để nhận thức đúng các giai đoạn lịch sử xã hội của các chế độ chính trị, nhất thiết phải căn cứ vào đặc tính quy định của hệ thống các quan hệ sản xuất, trong đó các quan hệ sở hữu và phương thức kết hợp các yếu tố sản xuất để thực hiện các lợi ích kinh tế được coi là hạt nhân quy định bản chất và phương thức vận động của toàn bộ hệ thống. Quan hệ sở hữu là cơ sở để phân định bản chất chế độ xã hội; là cơ sở phân kỳ lịch sử và phân biệt sự giống và khác nhau của các giai đoạn lịch sử xã hội. Sự biến đổi của quan hệ sở hữu là động lực bên trong thúc đẩy sự thay đổi một hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội. Chính trị bắt nguồn từ kinh tế, chính trị chẳng qua là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, do kinh tế và vì kinh tế. Cho nên chế độ chính trị thực chất là một hệ thống thiết chế nhằm bảo vệ chế độ sở hữu để thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu. Do vậy, sự biến đổi của cơ sở kinh tế, của chế độ sở hữu sẽ kéo theo sự biến đổi của chế độ chính trị với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Từ mối quan hệ tất yếu giữa chế độ sở hữu và chế độ chính trị cho phép chúng ta tin tưởng vào dự báo khoa học về tính tất yếu của cách mạng vô sản và sự ra đời của xã hội cộng sản văn minh. Một xã hội: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [29, tr.628]. Logic này cho phép chúng ta khẳng định cách mạng xã hội chủ nghĩa lấy việc xây dựng và phát triển chế độ công hữu về tư liệu sản xuất làm cơ sở là đúng đắn, xa rời mục tiêu này sẽ không còn mang ý nghĩa là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất không những là đặc trưng có ý nghĩa quyết định để phân biệt xã hội chủ nghĩa với tư bản chủ nghĩa, mà còn là cơ sở để các đặc trưng cơ bản khác của chủ nghĩa xã hội tồn tại và phát huy tác dụng. Trong kiến trúc thượng tầng thì chế độ chính trị là một bộ phận quan trọng nhằm bảo đảm quyền lực của giai cấp cầm quyền qua những thiết chế, thể chế tương ứng để thực thi quyền lực về chính trị - kinh tế - xã hội, chủ yếu là thực hiện lợi ích kinh tế trong đó vấn đề sở hữu là căn bản nhất. Không phải ngẫu nhiên mà tất cả các cuộc cách mạng xã hội đều coi việc xác lập quyền thống trị của mình đối với tư liệu sản xuất tài sản quốc gia như là điều kiện tiên quyết để giữ vững những thành quả cách mạng và phát triển kinh tế. Như vậy, chế độ sở hữu và chế độ chính trị là những thành phần cốt lõi nhất của một chế độ xã hội. Chế độ chính trị là một phạm trù lịch sử, nó biến động cùng với sự biến động của cơ sở kinh tế, của chế độ sở hữu. Quan hệ sở hữu lại phụ thuộc vào lực lượng sản xuất ở một trình độ phát triển nhất định. Thực chất quan hệ giữa chế độ sở hữu và chế độ chính trị là sự phản ánh mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong đời sống xã hội hiện thực. Do vậy, để xác định đúng mối quan hệ giữa sở hữu và chính trị chúng ta phải căn cứ vào đời sống hiện thực của xã hội. Chế độ sở hữu và chế độ chính trị có mối quan hệ biện chứng. Tuy sở hữu đóng vai trò là cơ sở của chế độ chính trị nhưng chế độ chính trị lại là nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và vận động của chế độ sở hữu. Thông thường trong lịch sử, khi quan hệ sở hữu lỗi thời, trở thành lực cản của lực lượng sản xuất thì tất yếu sẽ bị thay thế bởi quan hệ sở hữu tiến bộ hơn và theo đó chế độ chính trị phải tương ứng. Nhưng mặt khác, giai cấp thống trị cũng thông qua những thiết chế của hệ thống chính trị để tác động, xây dựng và bảo vệ chế độ sở hữu, duy trì quyền lợi kinh tế cho mình. Tùy theo chế độ chính trị và mức độ tác động của nó tại một thời điểm nhất định mà cơ cấu sở hữu ở các nước có sự khác nhau. Nếu trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển chế độ tư hữu là đặc trưng chủ yếu, thì trong các nước xã hội chủ nghĩa việc xây dựng chế độ công hữu là đặc trưng nền tảng cho một chế độ mới. Như vậy, trong cơ cấu sở hữu của hai chế độ xã hội tuy có những đặc trưng khác nhau, nhưng trong quá trình vận động vẫn có điểm tương đồng là cùng thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong quá trình phát triển kinh tế. Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua phát triển kinh tế thị trường cho nên không thể không thực hiện đa dạng hóa các loại hình sở hữu trong kinh tế, đồng thời cũng không thể không tăng cường các quyền lực chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa (thông qua việc từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị). Vì điều đó bảo đảm cho nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo đúng định hướng phục vụ lợi ích của quần chúng lao động và sự tự do sáng tạo trong mỗi con người. Trong việc hoàn thiện hệ thống chính trị, cần đặc biệt chú trọng vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong việc nhạy bén nắm bắt, xác lập, thừa nhận về mặt pháp lý các hình thức sở hữu được hình thành từ phong trào quần chúng cho phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân tích mối quan hệ giữa sở hữu và chế độ chính trị, nhất là vai trò tác động tích cực của hệ thống chính trị giúp chúng ta có cơ sở phương pháp luận trong việc hình thành những nguyên tắc và giải pháp hoàn thiện quan hệ giữa các loại hình sở hữu trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay. 1.2. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ SỰ BIẾN ĐỔI QUAN HỆ SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.2.1. Những luận điểm chủ yếu về sự biến đổi sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư bản tư nhân Sở hữu tư nhân cũng phát triển từ nhỏ đến lớn. Sự ra đời và phát triển của sở hữu tư nhân từ sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư bản tư nhân gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa, từ sản xuất hàng hóa nhỏ lên sản xuất hàng hóa lớn (còn gọi là sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa). Cách thức thực hiện lợi ích của chủ sở hữu nhỏ về tư liệu sản xuất là kết hợp trực tiếp sức lao động của bản thân với các thành viên trong gia đình với tư liệu sản xuất của chính mình sản xuất ra các sản phẩm để sử dụng trực tiếp gọi là sản xuất nhỏ tự cung tự cấp; hoặc thông qua trao đổi để sử dụng vào đời sống và sản xuất của gia đình họ, cách thức thực hiện lợi ích đó gọi là sản xuất hàng hóa nhỏ. Khi quy mô sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vượt quá khả năng sử dụng của các thành viên trong gia đình thì chủ sở hữu phải sử dụng sức lao động của những người ngoài gia đình để thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu các tư liệu sản xuất. Trong lịch sử, việc thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu ấy đã diễn ra như sau: thời cổ đại, chủ nô sử dụng lao động nô lệ; thời trung cổ, chủ sở hữu ruộng đất - địa chủ sử dụng lao động tá điền; thời hiện đại, chủ sở hữu tư bản sử dụng lao động công nhân làm thuê. Trong các thời đại ấy, sở hữu tư bản tư nhân là đỉnh cao nhất, là hình thái cuối cùng của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự chuyển hóa sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ sang sở hữu tư bản tư nhân được thực hiện trước hết là do sự tác động của quy luật giá trị đã làm phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ. Quy luật này đòi hỏi: trong quá trình sản xuất hàng hóa, người sản xuất phải thực hiện nguyên tắc hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là tiết kiệm lao động (cả lao động quá khứ và lao động sống) thì người sản xuất hàng hóa mới có lãi. Muốn vậy, người sản xuất hàng hóa phải tìm mọi cách để hạ thấp giá trị cá biệt của sản phẩm so với thời gian lao động xã hội cần thiết; còn trong trao đổi phải thực hiện nguyên tắc ngang giá, nghĩa là giá cả bằng giá trị, phải đảm bảo bù đắp được chi phí cho người sản xuất hàng hóa (dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết). Để tồn tại và phát triển, người sản xuất phải tìm mọi biện pháp để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm giá trị cá biệt so với giá trị xã hội của hàng hóa, bằng cách tăng năng suất lao động. Cơ sở nào biết cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng năng suất lao động cá biệt, nâng cao giá trị sử dụng của hàng hóa, đồng thời hạ thấp giá trị cá biệt sẽ chiến thắng các đối thủ cạnh tranh, có lãi cao, có điều kiện mở rộng sản xuất, thuê mướn nhân công, họ ngày càng giàu có, khối lượng tiền của ngày càng tăng và dần dần trở thành chủ sở hữu lớn tư bản. Ngược lại, đại bộ phận những người sản xuất hàng hóa nhỏ do những khó khăn không cải tiến được kỹ thuật, năng suất lao động cá biệt thấp, sản xuất ngày càng sa sút, dần dần đi đến phá sản, không còn tư liệu sản xuất, chỉ còn lại khả năng lao động. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, muốn tồn tại, họ phải bán sức lao động cho người tập trung được phần lớn tư liệu sản xuất - các nhà tư bản và trở thành lao động làm thuê. Trong thực tế, sự tác động phân hóa này của quy luật giá trị diễn ra chậm chạp, phải trải qua một thời kỳ lâu dài. Vì vậy, trong lịch sử, quá trình phân hóa này đã được đẩy nhanh thông qua tích lũy nguyên thủy tư bản. Trong quá trình phát triển của sản xuất hàng hóa nhỏ, từ khi tiền tệ ra đời là sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân hoạt động trên cơ sở mua rẻ, bán đắt để thu lợi nhuận. Tích lũy sự giàu có vào tầng lớp thương nhân, đến cuối thế kỷ XV, chủ thuyết làm giàu bằng cách mở rộng trao đổi không ngang giá được hình thành ở nhiều nước trên thế giới. Địa vị kinh tế của tầng lớp thương nhân ngày càng tăng, họ sử dụng lực lượng kinh tế thông qua thuế và tín dụng để chi phối nhà nước phong kiến, buộc nhà nước phong kiến phải ban hành các chính sách và xây dựng lực lượng đáp ứng yêu cầu của họ về tích lũy nguyên thủy tư bản. Trong trường hợp này, nhà nước có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Đó là vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng việc đưa ra các chính sách đẩy mạnh quá trình tích lũy nguyên thủy của tư bản. Thực chất của tích lũy nguyên thủy tư bản là dùng bạo lực để tước đoạt quyền sở hữu tư liệu sản xuất của những người sản xuất nhỏ, nhất là người nông dân để tập trung tiền của vào tay các nhà tư bản và biến họ thành những người lao động làm thuê. Điển hình của quá trình này là ở nước Anh, giai cấp tư sản dựa vào nhà nước phong kiến dùng bạo lực đuổi nông dân, biến đồng ruộng thành bãi chăn cừu. Đồng thời, ban hành các đạo luật hà khắc để buộc những người nông dân bị mất đất phải vào làm thuê trong các xí nghiệp tư bản. Tích lũy nguyên thủy tư bản còn được thực hiện bằng việc đi chinh phục và bóc lột thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen từ Châu Phi đến các vùng đất mới ở Châu Mỹ, thực hiện thương mại không bình đẳng,v.v… Tóm lại, quá trình chuyển sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư nhân tư bản được thực hiện thông qua tác động của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa nhỏ và thông qua tích lũy nguyên thủy tư bản. Trong đó, tác động của quy luật giá trị là nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện sở hữu tư nhân tư bản; tích lũy nguyên thủy tư bản là nhân tố trực tiếp tạo ra sở hữu tư bản tư nhân quy mô lớn và làm xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từ cuối thế kỷ XVII. 1.2.2. Những luận điểm chủ yếu về sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang sở hữu tư bản độc quyền và sở hữu tư bản độc quyền sang sở hữu tư bản độc quyền nhà nước
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất