Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh...

Tài liệu Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh

.PDF
34
258
64

Mô tả:

Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh LỜI MỞ ĐẦU Nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, để nêu lên tầm quan trọng của giáo dục cho thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần vào công học tập của các cháu”. Trước khi Người ra đi, trong bản di chúc Bác có dặn: “Phải giáo dục thế hệ trẻ để cho họ trở thành người vừa hồng vừa chuyên”. Hiện nay, khi khoa học kỹ thuật đang phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục vô cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống. Môn hoá học trong trường trung học phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người. Do vậy, người giáo viên dạy hóa học cần phải có phương pháp truyền đạt thật sự thu hút, gây hứng thú cho học sinh khi lĩnh hội kiến thức. Chính vì vậy, chúng tôi xin trình bày đề tài: “Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh”. Trong đề tài này chúng tôi xin trình bày 3 phần: Đặt vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận. Đề tài được áp dụng để học tập và giảng dạy cho học sinh cả 3 khối: 10, 11, 12 và đang được thực nghiệm. Hy vọng rằng đề tài sẽ giúp học sinh và giáo viên có được một số kiến thức bổ ích, hiểu biết thêm về một số sự vật hiện tượng trong cuộc sống. GV: Thái Hoàng Minh Trang 1 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh A - ĐẶT VẤN ĐỀ Định hướng chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu là giúp học sinh: phát triển toàn diện về đạo đức, trí lực, thể chất, thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động, sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân ….(theo Luật giáo dục 2005). Quyết định số 16/2006/QĐ. BGD & ĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nêu: Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. Để đạt các mục tiêu đó thì khâu đột phá là đổi mới phương pháp giáo dục từ lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực”. Làm cho “học” là quá trình kiến tạo: tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và xử lí thông tin,…Học sinh tự mình hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. “Dạy” là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh: cách tự học, sáng tạo, hợp tác,…dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai…Giúp học sinh nhận thức được những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân và cho sự phát triển xã hội. Với bộ môn hóa học, định hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng được coi trọng đó là: quan tâm và tạo mọi điều kiện để học sinh trở thành chủ thể hoạt động sáng tạo trong giờ học; để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng về hóa học bằng nhiều biện pháp như: + Khai thác đặc thù bộ môn tạo ra các hình thức hoạt động đa dạng, phong phú. + Đổi mới hoạt động học tập của học sinh và tăng thời gian dành cho học sinh hoạt động trong giờ học. + Tăng mức độ hoạt động trí lực, chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh như: thường xuyên sử dụng tổng hợp các phương pháp dạy học phức hợp, sử dụng phương pháp đặt vấn đề, dùng trực quan sinh động để giảng giải tư duy trừu tượng…. GV: Thái Hoàng Minh Trang 2 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Xuất phát từ những thực tế đó và một số kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn hóa học, chúng tôi nhận thấy đề tài: “Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh” sẽ giúp học sinh hiểu được vai trò ý nghĩa thực tiễn trong học hoá học, sẽ tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê trong học tập. Để thực hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với từng đối tượng học sinh ở từng khu vực thích hợp như ở thành thị hay nông thôn, ở miền núi hay đồng bằng …; đôi lúc cần quan tâm đến tính cách sở thích của đối tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi lúc có khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn hoá học. Tuy nhiên, thời gian dành cho vấn đề này là không nhiều, “nó như thứ gia vị trong đời sống không thể thay cho thức ăn nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống ”. I- CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN “Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh” bằng rất nhiều cách, chúng tôi có thể nêu ra một số như sau: 1. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hằng ngày sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo. 2. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để thỏa mãn tính tò mò của học sinh. Mặc dù vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ thông. 3. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có thể là GV: Thái Hoàng Minh Trang 3 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập. 4. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được bài toán hoá đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào? 5. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá. 6. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình …sau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn. 7. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực tiễn hàng ngày. 8. Ngoài việc giải thích những hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống trong các tiết học hằng ngày, giáo viên có thể đưa vào thành một chuyên đề để bồi dưỡng học sinh giỏi và đưa các câu hỏi giải thích những hiện tượng thực tiễn liên quan đến hóa học vào các buổi ngoại khóa, các cuộc thi kiến thức ở trường nhằm tạo sự hứng thú, niềm say mê, thích tìm tòi khám phá của các em đối với bộ môn hóa học vốn được cho là khô khan. II/ CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN 1/ Để tổ chức thực hiện được giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách như: bằng lời giải thích, hình ảnh, đoạn phim, …có thể tiến hành dạy GV: Thái Hoàng Minh Trang 4 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh trong hoàn cảnh dùng máy chiếu hay không dùng máy chiếu…Điều này cần phụ thuộc vào điều kiện ở mỗi trường, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và phong cách dạy khác nhau để huy động tối đa. Hiệu quả giáo dục với nội dung đề tài này, có những kinh nghiệm có thể áp dụng cho người này nhưng có những phong cách không thể áp dụng cho giáo viên khác. Bởi vì phong cách dạy “nó như tính cách của mỗi con người không thể ai cũng giống ai” nhưng đảm bảo được nội dung dạy học theo yêu cầu của chương trình. Mỗi giáo viên khi giải thích các hiện tượng trong thực tiễn liên quan đến bài học cần lựa chọn cách giải thích ngắn gọn, dễ hiểu theo từng đối tượng học sinh để gây được hứng thú đối với học sinh. 2/ Một số ví dụ minh họa thông qua một số hiện tượng trong thực tiễn trong số hàng nghìn, hàng vạn hiện tượng, tình huống thực tiễn có thể áp dụng Ví dụ 1: Đèn đá muối là gì? Có công dụng như thế nào? Himalaya đã tồn tại trên trái đất trên 40 triệu năm như một kỳ quan của thế giới, nơi chứa đựng nhiều câu chuyện linh thiêng bí ẩn, nơi cội nguồn của thánh địa Phật giáo và giáo phái Thiền. Ngăn cách giữa hai trung tâm văn hóa lớn nhất Châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc vẫn còn tồn tại vùng đất thiêng – cũng có tên gọi khác là Tây Tạng. Tinh thể muối Himalaya được tìm thấy ở vùng đất Tây Tạng là tinh thể rất tinh khiết, không ô nhiễm và không chịu tác động của môi trường, chúng không chứa bất kì một thành phần ô nhiễm nào từ môi trường. Những chất tự nhiên trong các tinh thể đèn đá muối giúp giảm mệt mỏi, lo lắng, phiền muộn, suy nhược, tình trạng mất ngủ thường xuyên, dị ứng, đau nửa đầu, cảm lạnh, ……. Các nhà khoa học khẳng định rằng khi đèn đá muối được thắp lên sẽ cung cấp nhiều ion âm trong không khí giúp cân bằng trong cuộc sống, ổn định tinh thần, xua đi mệt mỏi và căng thẳng, khơi gợi những tinh hoa phát tiết trong cơ thể, thăng hoa những cảm xúc và tăng sự lĩnh hội về cảm nhận. GV: Thái Hoàng Minh Trang 5 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh p dụng: vấn đề được giới thiệu là một vấn đề mới, giáo viên nên thận trọng giảng dạy, giáo viên cần phải kết luận thật khoa học, tránh hiện tượng tuyệt đối hóa trong công dụng, của một sản phẩm nào, tuy nhiên nên nhấn mạnh khả năng cung cấp ion âm trong không khí, của đèn đá muối. Vần đề được áp dụng trong bài “Liên kết ion”(lớp 10) hay bài “Kim loại kiềm và các hợp chất quan trọng của chúng” (lớp 12) Ví dụ 2: iện tượng mưa a it là gì? ác hại như thế nào? Mưa axit gây tổn hại cho các công trình bằng sắt thép, đá, cây cối. Mưa axit được phát hiện ra đầu tiên năm 1948 tại Thụy Điển. Mưa a ít là hiện tượng mưa mà nước mưa có độ pH dưới 5 hay 6. Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe máy) có chứa các khí 2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy) hoặc o on tạo ra axit sun uric và axit nitric. 2SO2 + O2 + 2H2 → 2H2SO4 2NO + O2 → 2N 4NO2 + O2 + 2H2 Axit H2SO4 và HN axit là H2SO4 còn HN 3 3 2 → 4HN 3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Vai trò chính của mưa đóng vai trò thứ hai. Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa axit ảnh hưởng xấu tới các thuỷ vực (ao, hồ). Các dòng chảy do mưa axit đổ vào hồ, ao sẽ làm độ pH của hồ, ao giảm đi nhanh chóng, các sinh vật trong hồ, ao suy yếu hoặc chết hoàn toàn. Hồ, ao trở thành các thuỷ vực chết. Mưa axit ảnh hưởng xấu tới đất do nước mưa ngấm xuống đất làm tăng độ chua của đất, hoà tan các nguyên tố trong đất cần thiết cho cây như canxi (Ca), magiê (Mg),... làm suy thoái đất, cây cối kém phát triển. Lá cây gặp mưa axit sẽ bị "cháy" lấm chấm, mầm sẽ chết khô, làm cho khả năng quang hợp của cây giảm, cho năng suất thấp. Mưa axit còn phá huỷ các vật liệu làm bằng kim loại như sắt, đồng, kẽm... làm giảm tuổi thọ các công trình xây dựng, làm lở GV: Thái Hoàng Minh Trang 6 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh loét bề mặt bằng đá của các công trình xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaC CaCO3 + H2SO4 → Ca 4 CaCO3 + 2HNO3 → Ca(N 3): + CO2↑ + H2O 3 )2 + CO2↑ + H2O p dụng: Ngày nay hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề ô nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rất chú trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp cho học sinh những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của nó nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời sau khi dạy xong phần ản u t a it sun uric - bài “ it sun uric uối sun at” (lớp 10), bài “Hợp ch t có o i của lưu huỳnh” (lớp 10) hoặc áp dụng trong bài : “ it nitric và muối nitrat” (lớp 11); bài “Hóa học và vấn đề môi trường” (lớp 12). Ví dụ 3: Vì sao có khí metan thoát ra từ ruộng lúa hoặc các ao (hồ)? Trong ruộng lúa, ao (hồ) thường chứa các vật thể hữu cơ. Khi các vật thể này thối rữa (hay quá trình phân hủy các vật thể hữu cơ) sinh ra khí metan. Người ta ước chừng 1/7 lượng khí metan thoát vào khí quyển hàng năm là từ các hoạt động cày cấy. Vận dụng hiện tượng này người ta đã làm các hầm biogas trong chăn nuôi heo, chăn nuôi bò tạo khí metan để sử dụng đun nấu hay chạy máy phát điện … vì thế giảm đáng kể chi phi sản xuất, kinh doanh. p dụng: Đây là hiện tượng thường gặp và là cơ sở giải quyết các vấn đề về môi trường ở các địa phương chăn nuôi nhỏ lẽ. Giáo viên đưa vấn đề này vào trong phần liên hệ thực tế bài “Ankan và đồng đẳng ankan” – lớp 11. Ví dụ 4: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc CO hoặc khí thiên nhiên CH4 mà không có o i để tránh khi uống giếng bị chết ngạt? Trong các giếng sâu ở một số vùng đồng bằng thường có nhiều khí độc C và CH4 và thiếu oxi. Vì lí do nào đó mà phải ta xuống giếng thì rất nguy hiểm. Đã có rất nhiều trường hợp tử vong do khi xuống giếng gặp nhiều khí độc và chết ngạt do thiếu oxi. Điều tốt nhất là tránh phải xuống giếng, nếu có xuống thì nên mang theo bình thở oxi. Trước khi xuống giếng cần thử xem trong giếng có nhiều khí độc hay không bằng cách cột một con vật như gà, vịt rồi thả xuống giếng. Nếu gà, vịt chết thì chứng tỏ dưới giếng có nhiều khí độc. GV: Thái Hoàng Minh Trang 7 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh p dụng: Đây là hiện tượng hay xảy ra vào mùa khô. Mọi người không hề biết được sự nguy hiểm khi xuống giếng sâu. Thực tế là đã có nhiều cái chết thương tâm xảy ra mà báo đài đã nêu trong thời gian qua. Giáo viên cần đưa vào bài giảng để nhắc nhở học sinh và mọi người. Vấn đề này có thể xen vào bài “Hợp chất của cacbon” hay bài “Ankan” (ở lớp11). Ví dụ 5: Khí gì sinh ra khi đốt lò than? Nếu lò than để trong phòng kín thì sẽ như thế nào? Khi đốt lò than nên để nơi thông thoáng gió, nếu đốt trong phòng kín thì sẽ sinh ra khí CO và CO2, SO2….. Khí CO2 không duy trì sự sống còn khí C , SO2 là khí rất độc. Con người nếu hít phải khí C , 2 sẽ rất nguy hiểm có thể sẽ dẫn đến tử vong. Ví dụ: như trước đây ở thành phố Hải Phòng, 6 thanh niên đóng kín cửa, nổ máy ôtô, bật đèn để lấy ánh sáng,… kết quả là tử vong cả 6 người. Hay ở thành phố Cần Thơ, một gia đình gồm 3 người, mới mua một chiếc xe máy, tối đến đóng kín cửa, để xe nổ máy trong phòng để chạy ro-đai, kết quả là cả nhà 3 người đều tử vong. p dụng: đây là vấn đề rất thực tế, hiểu biết khoa học rất có ý nghĩa, mang tính sống còn đối với con người. Giáo viên cần lồng ghép vào trong bài giảng, để giáo dục học sinh, ngoài ra giáo viên có thể dẫn dắt thêm bằng cụm từ, “đừng chết vì thiếu hiểu biết” để kích thích học sinh tiếp thu kiến thức trong cuộc sống. Vấn đề này có thể xen vào bài “Hợp chất của cacbon” (ở lớp11). Ví dụ 6: Vì sao ném đất đèn uống ao làm cá chết? Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua (CaC2), khi tác dụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hidroxit. CaC2  2H 2O  C2 H 2  Ca(OH )2 (H  0) Axetilen có thể tác dụng với nước tạo ra andehit axetic (CH3CH ). Các chất này làm tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm chết cá. GV: Thái Hoàng Minh Trang 8 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh p dụng: Đây là hiểu biết về khoa học có thể gây thiệt hại khi đánh rơi đất đèn xuống ao cá nuôi. Giáo viên có thể đưa vào bài “Andehit – xeton” (lớp 11). Ví dụ 7: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau? Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit omic (HC H). Vôi là chất ba ơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau. 2HCOOH  Ca(OH )2   HCOO 2 Ca  2H 2O p dụng: Giáo viên có thể lựa chọn vấn đề thực tế này vào bài “Axit cacboxylic” (lớp 11) Ví dụ 8: Vì sao nước rau muống đang anh, khi vắt chanh vào thì chuyển sang màu đỏ? Có một số chất trong tự nhiên có chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu của dung dịch thay đổi khi độ axit thay đổi. Trong rau muống (và vài loại rau khác như bắp cải tím,…) có chất chỉ thị này. Trong chanh có 7% axit citric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi màu nước rau. Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh lét là chứa chất kiềm canxi. p dụng: Giáo viên có thể xen vào trong bài giảng về “Axit – ba ơ – muối” (lớp 11) Ví dụ 9: Vì sao sau khi ăn trái cây thì không nên đánh răng ngay? Các nhà khoa học khuyến cáo: Ai ăn trái cây thì phải một giờ sau mới được đánh răng. Tại sao vậy? Vì chất chua (axit hữu cơ) trong trái cây sẽ kết hợp với những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công các kẽ răng và gây tổn thương lợi (nướu). Bởi vậy phải đợi đến khi lượng nước bọt trung hòa axit trong trái cây, nhất là táo, cam, nho, chanh, ta mới đánh răng. Ta đã biết thức ăn vào dạ dày phải lưu giữ lại từ 1−2 giờ. Nếu sau bữa ăn, ta ăn trái cây liền sau đó, sẽ làm tăng thêm sự lưu trệ trong dạ dày, mặt khác các vitamin trong trái cây có thể kết hợp với một số thành phần trong thức ăn tạo nên hợp chất không tốt cho sức khỏe (ví dụ: trong các loại động vật có vỏ: như tôm nước ngọt có GV: Thái Hoàng Minh Trang 9 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh nhiều hợp chất asen hóa trị 5 sau khi ăn nếu uống vitamin C hay ăn những thức ăn có chứa vitamin C như ớt, cà chua, mướp đắng, cam quýt, chanh... sẽ làm cho asen hóa trị 5 biến thành asen hóa trị 3, túc là chất thạch tín có độc, có thể chết. Vì vậy đã uống vitamin C và ăn các thứ có vitamin C thì tuyệt đối không được ăn các loại động vật có vỏ sống trong nước. p dụng: Giáo viên có thể xen vào trong bài giảng về axit (lớp 11). Ví dụ 10: Vì sao khi cơm bị khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi? Do than củi xốp có tính hấp phụ nên hấp phụ mùi khét của cơm làm cho cơm ít mùi khê. p dụng: Đây là mẹo vặt thường được dùng khi không may cơm bị khê. Người ta còn dùng than xốp dạng bột mịn để hấp phụ các khí độc ứng dụng trong các khẩu trang chứa than hoạt tính, trong mặt nạ phòng độc…. Giáo viên có thể nêu hiện tượng trên khi dạy phần tính chất vật lí hoặc trong phần nêu ứng dụng của cacbon trong bài “Cacbon” – lớp 11 – hay bài “Tinh bột” – lớp 12 – cho học sinh suy nghĩ rồi sau đó giáo viên nhận xét và bổ sung. Ví dụ 11: Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây anh trong nhà? Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quang hợp, hấp thụ C 2 và giải phóng khí 2. as 6nCO2  5nH 2O  (C6 H10O5 )n  6nO2  clorophin Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và quá nhiều khí C 2 2 và thải ra khí CO2 làm cho phòng thiếu khí sẽ gây nguy hiểm cho con người. p dụng: giáo viên có thể xen vào bài “Tinh bột – xenlulo ơ” (lớp 12). Ví dụ 12: Vì sao axit nitric HNO3 đặc lại phá thủng quần áo? Khi làm thí nghiệm hóa học, nếu quần áo bạn dính phải axit nitric HN 3 đặc thường sẽ bị thủng một lỗ; khi dùng axit không đặc, nhìn bên ngoài thì không thấy gì, nhưng sau khi phơi khô bạn sẽ thấy ngay lỗ thủng. GV: Thái Hoàng Minh Trang 10 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh Quần áo chúng ta mặc thường ngày được dệt bằng sợi bông, thành phần hóa học của sợi bông là xenlulo ơ. Xenlulo ơ không tan trong nước cũng như không tan trong đa số các dung môi khác nhưng dễ tan trong axit HN 3 đặc nên làm thủng quần áo. Khi bị axit HN 3 loãng dính vào quần áo, tuy quần áo không bị thủng ngay, nhưng khi quần áo khô, nồng độ axit HN thủng quần áo. Ngoài ra, axit HN 3 3 càng ngày càng đặc, cuối cùng sẽ làm loãng có thể có tác dụng hóa học với xenlulo ơ tạo thành xenlulo ơ trinitrat dễ phân hủy thành đơn chất (dễ nổ). p dụng: Giáo viên có thể nêu vấn đề trên khi nói về tính chất hóa học của axit nitric trong bài “Axit nitric” (lớp 11) hoặc đặt câu hỏi sau khi dạy xong bài “Xenlulo ơ” (lớp 12) để nhắc nhở học sinh thật cẩn thận khi tiếp xúc với axit HN 3 đặc. Ví dụ 13: ại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng, người ta thường ngửi thấy mùi khai? Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu chất đạm, như: nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ… lượng ure trong các chất hữu cơ sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của men urea a của các vi sinh vật, ure bị phân hủy thành CO2 ( NH 2 )2 CO  2H 2O  CO2  2 NH3 và NH3: Lượng NH3 sinh ra hoà tan trong nước dưới dạng một cân bằng động: NH3  H 2O   NH 4  OH  (H  0) Như vậy, khi trời nắng (nhiệt độ tăng), cân bằng trên sẽ dịch chuyển theo chiều nghịch, tức là NH3 sinh ra do phản ứng phân hủy ure không bị hoà tan trong nước mà bị tách ra, bay vào không khí làm cho không khí xung quanh sông, hồ có mùi khai khó chịu. p dụng: Vấn đề này giúp học sinh hiểu hơn tính thiết thực của hóa học trong đời sống, giáo viên có thể vận dụng vào bài “Amoniac” (lớp 11). Ví dụ 14: ại sao khi nấu, ào thịt, đậu phụ (đậu hủ) không nên cho muối ăn (chứa NaCl) vào quá sớm? Vì trong đậu, thịt chứa protein (protit), vốn có tính keo tụ khi gặp những chất điện ly mạnh, sẽ bị ngưng tụ thành những “óc đậu” khi nấu, xào nếu như cho muối ăn vào sớm, gây khó khăn cho thẩm thấu vào đậu, thịt và bị đông tụ cứng lại không có lợi cho tiêu hoá… GV: Thái Hoàng Minh Trang 11 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh p dụng: Vấn đề này giúp học sinh hiểu hơn tính thiết thực của hóa học, giáo viên có thể vận dụng vào bài “Axit – ba ơ – muối” (lớp 11). Ví dụ 15: iệu ứng nhà kính là gì? Có ảnh hưởng gì đến đời sống? Hiệu ứng nhà kính, xuất phát từ “effet de serre” trong tiếng Pháp, do Jean Baptiste Joseph Fourier lần đầu tiên đặt tên Khí cacbonic C 2 trong khí quyển chỉ hấp thụ một phần những tia hồng ngoại (tức là những bức xạ nhiệt) của Mặt Trời và để cho những tia có bước sóng từ 50.000 đến 100.000 đi qua dễ dàng đến mặt đất. Nhưng những bức xạ nhiệt phát ra ngược lại từ mặt đất có bước sóng trên 140.000 bị khí C 2 hấp thụ mạnh và phát trở lại Trái Đất làm cho Trái Đất ấm lên. Theo tính toán của các nhà khoa học thì nếu hàm lượng C 2 trong khí quyển tăng lên gấp đôi so với hiện tại thì nhiệt độ ở mặt đất tăng lên 4oC, nếu nhiệt độ tăng cao thêm sẽ làm tan băng ở 2 địa cực, làm nhấn chìm nhiều vùng trên thế giới. Và nhiệt độ thay đổi làm biến đổi khí hậu gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với các quốc gia như những cơn siêu bão, sóng thần, lốc xoáy.... Về quan điểm hấp thụ bức xạ nhiệt, lớp C 2 ở trong khí quyển giống như với lớp thủy tinh của các nhà kính dùng để trồng cây, trồng hoa ở xứ lạnh. Do đó hiện tượng làm cho Trái Đất ấm lên bởi khí C 2 được gọi là hiệu ứng nhà kính. p dụng: Ngày nay hiện tượng “hiệu ứng nhà kính” trở thành một vấn đề có ảnh hưởng mang tính toàn cầu. Mục đích vấn đề giúp học sinh biết được nguyên nhân và tác hại của hiệu ứng nhà kính nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Giáo viên có thể đặt vấn đề này khi dạy phần Cacbon đio it - bài “Hợp ch t của Cacbon” lớp 11) hay bài “Hóa học và vấn đề môi trường” (lớp 12). GV: Thái Hoàng Minh Trang 12 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh Ví dụ 16: Vì sao sau nh ng cơn giông, không khí trở nên trong lành, mát mẻ hơn ? au những cơn mưa, nếu dạo bước trên đường phố, đồng ruộng, người ta cảm thấy không khí trong lành, sạch sẽ. ở dĩ như vậy là có hai nguyên nhân:  Nước mưa đã gột sạch bụi bẩn làm bầu không khí được trong sạch.  Trong cơn giông đã xảy ra phản ứng tạo thành o on từ oxi: tia löûa ñieän 3O2   2O3 Ozon sinh ra là chất khí màu xanh nhạt, mùi nồng, có tính oxi hóa mạnh. on có tác dụng tẩy trắng và diệt khuẩn mạnh. Khi nồng độ o on nhỏ, người ta cảm giác trong sạch, tươi mát. Do vậy sau cơn mưa giông trong không khí có lẫn ít o on làm cho không khí trong sạch, tươi mát. Bên cạnh đó, ngày nay ứng dụng tính diệt khuẩn của o on, con người sử dụng o on để diệt trùng nước uống, một số còn sử dụng trong máy giặt, máy rửa rau quả…. p dụng: Đây là một hiện tượng tự nhiên không xa lạ với học sinh. Một số học sinh cho rằng đây là điều hiển nhiên vì “sau cơn mưa trời lại sáng”. Tuy nhiên nhìn dưới góc độ hóa học thì ta có thể giải thích được r ràng vấn đề này. Giáo viên có thể đề cập trong phần ứng dụng của o on hay đặt câu hỏi trên sau khi dạy xong bài “O i Ozon” (lớp 10). Ví dụ 17: Vì sao khi sử dụng máy photocopy phải chú đến việc thông gió? GV: Thái Hoàng Minh Trang 13 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh Chúng ta đều biết khi máy photocopy làm việc thường xảy ra hiện tượng phóng điện cao áp do đó có thể sinh ra khí o on theo phản ứng: tia löûa ñieän 3O2   2O3 Với một lượng ít o on trong không khí thì có tác dụng diệt khuẩn, diệt vi trùng. Nhưng nếu lượng o on lại vượt qua giới hạn cho phép sẽ gây tổn hại cho đại não, phá hoại khả năng miễn dịch bệnh, gây mất trí nhớ, biến đổi nhiễm sắc thể, gây quái thai ở phụ nữ mang thai, v.v..Thậm chí o on còn là chất gây ung thư nên tác hại của o on không thể kể hết được. Hiển nhiên là lượng o on do máy photocopy sinh ra rất bé nên nếu ngẫu nhiên mà tiếp xúc với nó cũng chưa có thể gây nguy hại cho cơ thể. Nhưng nếu tiếp xúc với o on trong thời gian dài và nếu không chú ý làm thông gió căn phòng thì do o on tập hợp nhiều trong phòng đến mức vượt tiêu chuẩn an toàn thì sẽ có ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Cho nên khi sử dụng máy photocopy cần chú ý đến việc thông gió cho phòng máy. p dụng: Giáo viên có thể đề cập vấn đề trên khi nói về tác hại của o on trong bài “O i - Ozon” (lớp 10). Ví dụ 18: Vì sao chất CFC bị cấm sử dụng? Như đã biết, bầu khí quyển gồm 5 tầng theo trật tự từ mặt đất: tầng đối lưu, tầng bình lưu, tầng giữa, tầng nhiệt quyển và tầng ngoại quyển. Tầng bình lưu nằm trên tầng đối lưu với ranh giới trên dao động trong khoảng độ cao 50 km. Ở độ cao khoảng 25 km trong tầng bình lưu tồn tại một lớp không khí giàu khí ozon (O3) thường được gọi là tầng o on. Hàm lượng khí ozon trong không khí rất thấp, chiếm một phần triệu, chỉ ở độ cao 25 - 30 km, khí o on mới đậm đặc hơn (chiếm tỉ lệ 1/100.000 trong khí quyển). Người ta gọi tầng khí quyển ở độ cao này là tầng ozon. GV: Thái Hoàng Minh Trang 14 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh Tháng 10 năm 1985, các nhà khoa học Anh phát hiện thấy tầng khí o on trên không trung Nam cực xuất hiện một "lỗ thủng" rất lớn, bằng diện tích nước Mỹ. Năm 1987, các nhà khoa học Đức lại phát hiện tầng khí o on ở vùng trời Bắc cực có hiện tượng mỏng dần, có nghĩa là chẳng bao lâu nữa tầng o on ở Bắc cực cũng sẽ bị thủng. Tin này nhanh chóng được truyền khắp thế giới và làm chấn động dư luận. Các nhà khoa học đều cho rằng, nguyên nhân này có liên quan tới việc sản xuất và sử dụng clorofluorocacbon (viết tắt là CFC): CFC là những hoá chất do con người tổng hợp để sử dụng như là chất làm lạnh trong ngành công nghiệp lạnh (tủ lạnh, máy lạnh…), trong quá trình sử dụng khí này đi vào không khí và từ đó xâm nhập vào khí quyển. CFC 11 hoặc CFCl3 hoặc CFCl2 hoặc CF2Cl2 (còn gọi là reon 12 hoặc F12) là những chất thông dụng của CFC. Một lượng nhỏ CFC khác là CHC1F2 (hoặc F22), CCl4 và CF4 cũng xâm nhập vào khí quyển. CFC có tính ổn định cao và không bị phân huỷ. Khi CFC đạt tới thượng tầng khí quyển chúng sẽ được các tia cực tím phân huỷ. Tốc độ phân huỷ CFC sẽ rất nhanh khiến tầng ô ôn bị tổn thương và các bức xạ cực tím tới được những tầng khí quyển thấp hơn. Không những tủ lạnh, máy lạnh cần dùng đến reon mà trong dung dịch giặt tẩy, bình cứu hoả cũng sử dụng reon và các chất thuộc dạng reon. Trong quá trình sản xuất và sử dụng các hoá chất đó không tránh khỏi thất thoát một lượng lớn hoá chất dạng reon bốc hơi bay lên phá huỷ tầng o on. Qua đó chúng ta thấy rằng, tầng on bị thủng chính là do các chất khí thuộc dạng reon gây ra, các hoá chất đó không tự có trong thiên nhiên mà do con người tạo ra. R ràng, con người là thủ phạm làm thủng tầng o on, đe dọa sức khoẻ của chính mình. ớm ngừng sản xuất và sử dụng các hoá chất dạng reon là biện pháp hữu hiệu nhất để cứu tầng o on. Nhiều hội thảo quốc tế đã bàn tính các biện pháp khắc phục nguy cơ thủng rộng tầng o on. 112 nước thuộc khối Cộng đồng Châu Âu (EEC) đã nhất trí đến cuối thế kỷ 20 sẽ chấm dứt sản xuất và sử dụng các hoá chất thuộc dạng reon. Vì vậy các nhà khoa học đang nghiên cứu sản xuất loại hoá chất khác thay thế các hoá chất ở dạng reon, đồng thời sẽ chuyển giao công nghệ sản xuất cho các nước đang phát triển. Có như vậy, việc ngừng sản xuất reon mới trở thành hiện thực. Muốn đạt được yêu cầu thiết thực này, không chỉ riêng một vài nước mà cả thế giới đều phải cố gắng thì mới có thể bảo vệ được tầng o on của Trái đất. Hiện nay chất làm lạnh GV: Thái Hoàng Minh Trang 15 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh được thay thế bằng khí amoniac (NH3) lỏng, trên vỏ thùng chứa những máy làm lạnh, đều có in dòng chữ “N N CFC” tức là không sử dụng CFC. p dụng: “Lỗ thủng tầng O on” hiện nay đang là vấn đề được cả thế giới quan tâm. Giáo viên có thể nêu vấn đề này khi dạy về “ ng dụng của lo” – Bài “ Flo – Brom – Iot” (lớp 10) ; bài “ n u t halog n của Hiđrocacbon” (lớp 11) hoặc bài “Hóa học và v n đề môi trường” (lớp 12). Ví dụ 19: ại sao không dùng bình thủy tinh đựng dung dịch F? Tuy dung dịch axit HF là một axit yếu nhưng nó có khả năng đặc biệt là ăn mòn thủy tinh. Do thành phần chủ yếu của thủy tinh là silic đioxit i 2 nên khi cho dung dịch HF và thì có phản ứng xảy ra: SiO2 + 4HF → iF4↑ + 2H2O p dụng: Đây là phần kiến thức mà bất kì học sinh nào cũng phải biết được sau khi học bài “Flo và hợp chất của nó”. Học sinh biết giải thích và vận dụng trong thực tiễn tránh việc dùng bình thủy tinh đựng dung dịch HF. Giáo viên có thể hỏi học sinh sau khi dạy xong bài “ Flo – Brom – Iot” (lớp 10) hay bài “ ilic và Hợp ch t silic” (lớp11). Ví dụ 20: Làm thế nào có thể khắc được thủy tinh ? Muốn khắc thủy tinh người ta nhúng thủy tinh vào sáp nóng chảy, nhấc ra cho nguội, dùng vật nhọn khắc hình ảnh cần khắc vào lớp sáp trên bề mặt, rồi nhỏ dung dịch HF vào thì thủy tinh sẽ bị ăn mòn ở những chỗ lớp sáp bị cào đi SiO2 + 4HF → iF4↑ + 2H2O Nếu không có dung dịch HF thì thay bằng dung dịch H2SO4 đặc và bột CaF2. Làm tương tự như trên nhưng ta cho bột CaF2 vào chỗ cần khắc, sau đó cho thêm GV: Thái Hoàng Minh Trang 16 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác đặt trên chỗ cần khắc. au một thời gian, thủy tinh cũng sẽ bị ăn mòn ở những nơi cạo sáp. CaF2 + 2H2SO4 → Ca au đó i 2 + 4HF → 4 + 2HF↑ (dùng tấm kính che lại) iF4↑ + 2H2O p dụng: Đây là một vấn đề rất thực tế khi mà nghề khắc thủy tinh đang phát triển ở nước ta. au bài học, học sinh không những biết được phương pháp khắc thủy tinh mà còn có thể giải thích được vấn đề này. Thậm chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi gợi niềm đam mê học tập, học sinh có thể tự làm thí nghiệm này trong tiết thực hành. Giáo viên có thể lồng vào bài “ Flo – Brom – Iot” (lớp 10); bài “Flo” (lớp 10) khi dạy phần tính chất hóa học hoặc giáo viên nêu vấn đề trên để dẫn dắt vào bài giảng “ ilic và Hợp ch t silic”( lớp 11). Ví dụ 21: ại sao nước máy ở các thành phố lại có mùi khí clo ? Trong hệ thống nước máy ở thành phố, người ta cho vào một lượng nhỏ khí clo vào để có tác dụng diệt khuẩn. Một phần khí clo gây mùi và một phần tác dụng với   HCl + HClO nước: Cl2 + H2O   Axit hipoclorơ HCl sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng khử trùng, sát khuẩn nước. p dụng: Vấn đề này đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay ở các nhà máy nước cung cấp nước cho các thành phố, thị xã, thị trấn. Giải thích được hiện tượng này giúp học sinh hiểu được vai trò và ứng dụng của clo trong cuộc sống mà học sinh có thể kiểm nghiệm thật dễ dàng. Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh suy nghĩ để trả lời trong phần ứng dụng của clo trong bài “Clo” (lớp 10). GV: Thái Hoàng Minh Trang 17 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh Ví dụ 22: Vì sao trước khi luộc rau muống cần cho thêm một ít muối ăn NaCl ? Dưới áp suất khí quyển 1 atm thì nước sôi ở 100oC. Nếu cho thêm một ít muối ăn vào nước thì nhiệt độ sôi cao hơn 100oC, khi đó luộc rau sẽ mau mềm, xanh và chín nhanh hơn là luộc bằng nước không. Bên cạnh đó khi luộc rau ta thường dùng lửa lớn để thời gian rau chín nhanh nên ít bị mất vitamin. p dụng: Đây là một vấn đề rất quen thuộc mà nếu không chú ý thì học sinh sẽ không biết. Học sinh dễ dàng làm thí nghiệm ngay khi nấu ăn. Từ đó góp phần tạo nên kinh nghiệm nấu ăn cho học sinh, rất thiết thực trong cuộc sống. Giáo viên có thể nêu vấn đề trên sau khi kết thúc bài “Clo” (lớp 10) hoặc bài “Các hợp ch t quan trọng của kim loại kiềm” (lớp 12). Ví dụ 23: ại sao phải ăn muối iot? Trong cơ thể con người có tồn tại một lượng iot tập trung ở tuyến giáp. Ở người trưởng thành lượng iot này khoảng 20-50 mg. Hàng ngày ta phải bổ sung lượng iot cần thiết cho cơ thể bằng cách ăn muối iot. ôt có trong muối ăn dạng K và K 3. Nếu lượng iot không cung cấp đủ thì sẽ dẫn đến tuyến giáp trạng sưng to thành bướu cổ, nặng hơn là đần độn, vô sinh và các chứng bệnh khác. p dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi kết thúc bài giảng phần “Iot” bài “ Flo – Brom – Iot” (lớp 10) nhằm giúp cho học sinh hiểu được ích lợi của việc ăn muối iot và tuyên truyền cho cộng đồng. GV: Thái Hoàng Minh Trang 18 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh Ví dụ 24: Vì sao chất Florua lại bảo vệ được răng? Răng được bảo vệ bởi lớp men cứng, dày khoảng 2 mm. Lớp men này là hợp chất Ca5(PO4)3 H và được tạo thành bằng phản ứng:   Ca5(PO4)3OH (1) 5Ca2+ + 3PO43- + OH-   Quá trình tạo lớp men này là sự bảo vệ tự nhiên của con người chống lại bệnh sâu răng. au các bữa ăn, vi khuẩn trong miệng tấn công các thức ăn còn lưu lại trên răng tạo thành các axit hữu cơ như axit axetic và axit lactic. Thức ăn với hàm lượng đường cao tạo điều kiện tốt cho việc sản sinh ra các axit đó. Lượng axit trong miệng tăng làm cho pH giảm, làm cho phản ứng sau xảy ra: H+ + OH- → H2O Khi nồng độ H- giảm, theo nguyên lí Lơ- a-tơ-li-ê, cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều nghịch và men răng bị mòn, tạo điều kiện cho sâu răng phát triển. Biện pháp tốt nhất phòng sâu răng là ăn thức ăn ít chua, ít đường và đánh răng sau khi ăn. Người ta thường trộn vào thuốc đánh răng NaF hay SnF2, vì ion F- tạo điều kiện cho phản ứng sau xảy ra: 5Ca2+ + 3PO43- + F- → Ca5(PO4)3F Hợp chất Ca5(PO4)3F là men răng thay thế một phần Ca5(PO4)3OH Ở nước ta, một số người có thói quen ăn trầu, việc này rất tốt cho việc tạo men răng theo phản ứng (1), vì trong trầu có vôi tôi Ca( H)2, chứa các ion Ca2+ và H- làm cho cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều thuận. p dụng: Vấn đề sâu răng và phòng ngừa sâu răng được mọi người quan tâm. Nhưng ít ai biết rằng vì sao răng bị sâu và cơ chế phòng ngừa như thế nào. Học sinh sẽ rất tò mò về vấn đề này. Giáo viên có thể đề cập vấn đề này trong phần giảng hái niệm về pH – bài “ ự điện ly của nước pH Ch t chỉ thị a it – ba ơ” hay ứng dụng GV: Thái Hoàng Minh Trang 19 Vận dụng liên hệ thực tiễn trong hóa vô cơ nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh của lo - bài “ Flo – Brom – Iot” (lớp 10) nhằm giúp cho học sinh có thói quen bảo vệ răng bằng cách đánh răng sau các bữa ăn. Ví dụ 25: Vì sao ta hay dùng bạc để đánh gió khi bị bệnh cảm? Khi bị bệnh cảm, trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượng khí H 2 tương đối cao. Chính lượng H2 sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi. Khi ta dùng Ag để đánh gió thì Ag sẽ tác dụng với khí H2 . Do đó, lượng H2 trong cơ thể giảm và dần sẽ hết bệnh. Miếng Ag sau khi đánh gió sẽ có màu đen xám: 4Ag + 2H2S + O2 → 2Ag2 ↓(đen) + 2H2O Một số đồng bào dân tộc ít người có thói quen dùng trang sức bằng bạc hay trước đây các bậc vua chúa thường sử dụng đồ dùng bằng bạc một phần cũng để phòng bệnh tật. p dụng: Hiện tượng “đánh gió” đã được ông bà ta sử dụng từ rất xa xưa cho đến tận bây giờ để chữa bệnh cảm. Cách làm này có cơ sở rất khoa học mà mọi người cần phải biết. Giáo viên có thể nêu hiện tượng trên khi dạy phần trạng thái tự nhiên của hiđro sun ua bài “Hiđro sun ua – Lưu huỳnh dio it – Lưu huỳnh trio it” (lớp 10) cho học sinh biết cách chữa bệnh “dân gian” này. Ví dụ 26: Vì sao không nên đ nước vào a it sun uric đậm đặc mà ch có thể đ a it sun uric đậm đặc vào nước? GV: Thái Hoàng Minh Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan