Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính...

Tài liệu Vận dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu nghiên cứu tại các trung tâm dịch vụ việc làm khu vực miền đông nam bộ

.PDF
94
125
136

Mô tả:

1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trên đường xây dựng một nhà nước hiện đại, công nghiệp hóa, Chính phủ nhận thấy cần phải tiến hành đổi mới cả khu vực kinh tế nhà nước và tư nhân nhằm xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập hơn với nền kinh tế thế giới . Nếu Việt Nam muốn cạnh tranh một cách hiệu quả trong quá trình toàn cầu hóa và trong Cộng đồng ASEAN thì ngày càng phải hài hòa hơn nữa với thế giới và khu vực. Trong bối cảnh đó, việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế trong cả khu vực kinh tế tư nhân và nhà nước là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một nền kinh tế mở. Chuẩn mực kế toán sẽ giúp cải thiện chất lượng, độ tin cậy và mức độ tương thích của thông tin tài chính qua các báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là một bộ phận không thể thiếu trong công cụ quản lý, là bộ phận cấu thành của Hệ thống kế toán Nhà nước với chức năng hệ thống thông tin toàn diện, liên tục về tình hình tiếp nhận và kiểm soát chi các nguồn kinh phí, quỹ, tài sản công ở các đơn vị sử dụng kinh phí Nhà nước. Báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách dùng để tổng hợp tình hình về tài sản, tiếp nhận và sử dụng kinh phí ngân sách của Nhà nước; tình hình thu, chi và kết quả hoạt động của đơn vị hành chính sự nghiệp trong kỳ kế toán, cung cấp thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh giá tình hình và thực trạng của đơn vị, là căn cứ quan trọng giúp cơ quan nhà nước, lãnh đạo đơn vị kiểm tra, giám sát điều hành hoạt động của đơn vị. Việt Nam là một Quốc gia đang phát triển, để tận dụng sự giúp đỡ của các Quốc gia và các tổ chức Quốc tế khác tài trợ cho Việt Nam cũng như đầu tư vào việc nam thì báo cáo tài chính công của Việt Nam càng phải minh bạch, rỏ ràng, tiếp cận với các chuẩn mực Quốc tế. Tuy nhiên trong các đơn vị sự nghiệp công nói chung và các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ nói riêng, thì việc lập báo cáo tài chính nhiều khi còn mang tính hình thức, chưa tiếp cận được với các chuẩn mực của kế 2 toán công Quốc tế. Để góp phần khắc phục tồn tại hiện nay và từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý, tác giả đã lựa chọn đề tài “Vận dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu. Nghiên cứu tại các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ” để thực hiện nghiên cứu. 2. Tổng quan các công trình nghiên cứu trƣớc đây có liên quan đến đề tài 2.1. Các công trình nƣớc ngoài Trong khuôn khổ đề tài tác giả xin được giới thiệu tóm tắt một vài những nghiên cứu (1) IPSASB (2005), “International Public Sector Accounting Standards and statistical bases of financial reporting: an analysis of differences and recommendations for convergenc”', Research report. Qua nghiên cứu về các chuẩn mực kế toán công giúp giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc trình bày báo cáo tài chính theo mục đích chung của các đơn vị thuộc khu vực công. Thông qua bài báo này sẽ giúp xác định các cơ sở thống kê để lập báo cáo trong kế toán công, tìm hiểu những điểm khác nhau trong trình bày thông tin, những tiêu chí khác nhau trong các hệ thống khác nhau nhằm hướng đến việc cung cấp các giải pháp giảm sự khác biệt. Bài viết còn đưa ra một số giải pháp cơ bản trong việc hội tụ với xu hướng chung thế giới với chuẩn mực quốc tế. (2) James, C. L. (2005), “IPSAS and government accounting reform in developing countries”, University Illinois at Chicago, Business Administration College - Accounting Department. Thông qua bài viết tác giả trên nhấn mạnh, để đạt được các mục tiêu về kinh tế xã hội, các quốc gia đang phát triển yêu cầu các định chế trong khu vực công phải thiết lập và thực hiện các chính sách công và thực hiện việc cải cách kế toán công. Vì thế giá trị về phương diện xã hội của việc cải cách kế toán nhà nước sẽ góp phần vào mục tiêu phát triển chung và bao gồm kể cả việc giảm nghèo của quốc gia. Ngoài ra bài này còn nhấn mạnh đến việc đảm bảo sự trung thực tài chính và quá trình vận dụng IPSAS để cải cách kế toán chính phủ hiệu quả hơn đối với 3 các quốc gia đang 2.2. Các công trình trong nước Bên cạnh những nghiên cứu của nước ngoài tác giả cũng giới thiệu thêm một số nghiên cứu trong trong nước bao gồm: (1) Tài liệu Hội thảo: "Định hướng và lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế vào Việt Nam". Do Bộ Tài chính và Ngân hàng thế giới tổ chức Hà Nội ngày 23.4.2007, và tài liệu Hội thảo "Về hệ thống chuẩn mực kế toán công quốc tế và lộ trình xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán công Việt Nam". Do Bộ Tài chính tổ chức tại Hà Nội, ngày 6.2.2011. Với mục tiêu của 2 hội thảo này là nghiên cứu, xây dựng, ban hành và công bố hệ thống chuẩn mực kế toán công áp dụng tại Việt Nam trên cơ sở chuẩn mực kế toán công quốc tế. Hệ thống chuẩn mực kế toán công phải đảm bảo yêu cầu hội nhập kinh tế của đất nước, đồng bộ với việc cải cách, đổi mới chính sách quản lý kinh tế, chính sách quản lý tài chính công Việt Nam. Là cơ sở để cung cấp thông tin tài chính kịp thời, trung thực nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả, tính công khai minh bạch trong quản lý các nguồn lực của Chính phủ. Đến năm 2020, các chuẩn mực kế toán công chủ yếu phải được nghiên cứu, xây dựng, ban hành và công bố áp dụng tại Việt Nam. (2) Nguyễn Chí Hiếu (2010), “Thiết lập hệ thống tài khoản và báo cáo tài chính trong điều kiện áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế vào đơn vị hành chính sự nghiệp tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ . Trường Đại Học Kinh Tế thành phố Hồ Chí Minh. Bằng việc vận dụng bộ chuẩn mực kế toán công quốc tế, đề tài đã tiến hành thiết lập hệ thống tài khoản kế toán cũng như báo cáo tài chính trong các đơn vị hành chính sự nghiệp. Đề tài đã sử dụng các nền tảng chung nhất trong chuẩn mực quốc tế để có những áp dụng cơ bản trong chế độ kế toán hành chính sự nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, xét về chi tiết, đề tài chỉ mới dừng lại ở việc giới thiệu các báo cáo tài chính cơ bản có thể lập theo hướng vận dụng các hướng dẫn của quốc tế mà chưa đi vào việc thiết lập biểu mẫu, quy cách, hình thức trình bày, cách lập số liệu của các báo cáo. (3). Hà Thị Ngọc Hà (2011), “Sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán hành chính 4 sự nghiệp mới ban hành theo Thông tư số 185”, Tạp chí Kiểm toán, Số 2, Tr. 54-58 năm 2011. Qua bài viết của tác giả tập trung làm rõ những quy định bổ sung thêm vào chế độ kế toán hành chính sự nghiệp như bổ sung các tài khoản mới, nghiệp vụ kinh tế phát sinh chủ yếu được đề cập trong Thông tư số 185 được ban hành năm 2010 của Bộ tài chính. (4). Mai Thị Hoàng Minh (2008), "Cần thiết ban hành chuẩn mực Kế toán công", Tạp chí Kế toán Việt Nam. Số 69. Tháng 12.2008. Qua Bài viết tác giả trên đã khẳng định xu thế hội nhập, các quốc gia phải lập BCTC hợp nhất cho toàn bộ lĩnh vực công theo khuôn mẫu thống nhất của chuẩn mực kế toán công quốc tế để phản ánh tình hình tài chính, kết quả hoạt động và xác định thặng dư, thâm hụt thuần theo từng năm để có sự so sánh trên phạm vi toàn cầu và có sự thừa nhận của quốc tế đối với quốc gia. (5 ). Phạm Quang Huy (2010), “Phân tích nội dung của khuôn mẫu lý thuyết nền tảng và một số chuẩn mực áp dụng trong khu vực công trong hệ thống chuẩn mực kế toán công quốc tế”, Tạp chí kiểm toán số 10, Tháng 10 năm 2010. Qua bài viết tác giả trên đã tiếp cận để nghiên cứu bộ khung lý thuyết do Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế ban hành bộ chuẩn mực kế toán công. Trong bản này hướng dẫn chi tiết lịch sử hình thành, quá trình phát triển và nội dung cơ bản trong chuẩn mực quốc tế này. Ngoài những nghiên cứu trên tác giả cũng tham khảo và nghiên cứu các quy định hướng dẫn nằm trong các Bộ luật, Nghị định, Thông tư, văn bản pháp lý gồm: - Luật kế toán số 03/2003/QH11 - Luật ngân sách 01/2002/QH11 - Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước. - Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 04 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. 5 - Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. - Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30 tháng 03 năm 2006 của Bộ Tài chính về việc ban hành chế độ kế toán hành chính sự nghiệp. - Thông tư 185/2010/TT-BTC ngày 15 tháng 11 năm 2010 của Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán hành chính sự nghiệp ban hành theo Quyết định 19/2006/QĐ-BTC. Có thể nói tổng quan các nghiên cứu trước đây cho thấy hầu hết các công trình khoa học đã có nghiên cứu đến hệ thống báo cáo tài chính khu vực công cũng như chuẩn mực kế toán công quốc tế. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào tập trung: “Vận dụng chuẩn mực kế toán công Quốc tế để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu tại các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ”. Và đây chính là lỗ hổng mà đề tài cần nghiên cứu để đạt được. 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục tiêu chung của đề tài Phân tích hệ thống báo cáo tài chính theo hướng dẫn của chuẩn mực kế toán công quốc tế để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu tại các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ. Từ đó, đề tài sẽ hướng đến các mục tiêu cụ thể như sau: - Khái quát hóa cơ sở lý luận về báo cáo tài chính và chuẩn mực kế toán công quốc tế. - Vận dụng những nội dung của chuẩn mực kế toán công quốc tế và kinh nghiệm áp dụng các nước vào việc lập báo cáo tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu tại các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ. - Phân tích thực trạng của hệ thống báo cáo tài chính tại các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ cũng như xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính tại những đơn vị này. - Đưa ra các giải pháp xây dựng và lập hệ thống báo cáo tài chính áp dụng cho khu vực công theo hướng tiếp cận và hòa hợp dần với chuẩn mực kế toán công quốc tế. 6 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tƣợng nghiên cứu: Bao gồm cơ sở lý luận về báo cáo tài chính và chuẩn mực kế toán công quốc tế. Thực trạng của hệ thống báo cáo tài chính cho các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu áp dụng tại các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu báo cáo tài chính trong cho các đơn vị sự nghiệp có thu tại các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ, không tìm hiểu các đơn vị công khác. Địa bàn nghiên cứu: một số tỉnh Đông Nam Bộ (gồm: Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hoà). Đồng thời cũng nghiên cứu về chuẩn mực kế toán quốc tế liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Thời gian nghiên cứu từ năm 2011 đến năm 2015 5. Phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng Đề tài đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính vào các phần khác nhau trong đề tài. Cụ thể sử dụng một số phương pháp sau đây: * Phương pháp phân tích thống kê: tác giả sẽ thu thập các báo cáo tài chính được lập bởi các cơ quan hành chính sự nghiệp. Tác giả nghiên cứu đánh giá thực trạng về việc lập báo cáo tài chính hiện nay. * Phương pháp phân tích để thấy điểm bất hợp lý trong các hệ thống báo cáo tài chính của các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ hiện nay * Phương pháp tổng hợp được sử dụng để nhằm thống nhất, bao quát và tổng quát hóa toàn bộ các vấn đề đã rút ra trong quá trình nghiên cứu từ cơ sở lý thuyết, quá trình vận dụng và những bài học kinh nghiệm từ việc áp dụng trên thực tế. Phương pháp này được thực hiện sau khi đã tiến hành điều tra, khảo sát và phân tích. * Phương pháp điều tra, khảo sát: phương pháp nghiên cứu này được sử dụng để tiến hành điều tra một vấn đề nghiên cứu trên thực tế, bao gồm thực hiện công tác điều tra tại những đối tượng hoặc tiến hành khảo sát cụ thể tại những khu vực, đơn vị có thực hiện vấn đề đang nghiên cứu để giải quyết câu hỏi nghiên cứu được 7 đặt ra trong quá trình thực hiện một đề tài hay dự án nghiên cứu. Phương pháp điều tra thường được thực hiện qua việc chọn mẫu để tiến hành khảo sát vì điều tra thống kê là phương pháp thu thập thông tin cần thiết về hiện tượng nghiên cứu nhằm làm cơ sở cho việc tổng hợp và phân tích các hiện tượng cần nghiên cứu. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, các danh mục, phụ lục, tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu được thực hiện với kết cấu gồm 3 chương như sau: - Chương 1: Tổng quan về báo cáo tài chính và chuẩn mực kế toán công quốc tế - Chương 2: Thực trạng về hệ thống báo cáo tài chính tại các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ. - Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện báo cáo tài chính tại các Trung tâm Dịch vụ việc làm khu vực miền Đông Nam bộ. 8 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN CÔNG QUỐC TẾ 1.1. Cơ sở lý luận về chuẩn mực kế toán công quốc tế 1.1.1. Khái niệm Theo khoản 1 điều 8, Luật kế toán số 03/2003/QH11thông qua ngày 17/06/2003 thì “Chuẩn mực kế toán gồm những nguyên tắc và những phương pháp kế toán cơ bản để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính” Mục tiêu của chuẩn mực kế toán là đưa ra những quy định có tính nguyên tắc làm cơ sở đo lường chất lượng một công việc, nhằm hướng công việc chuyên môn đi vào những nguyên tắc chung. Hay nói cách khác là quy định thống nhất nội dung, các trình bày và thuyết minh báo cáo tài chính 1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển Chuẩn mực kế toán công quốc tế (IPSAS) là một nội dung chính trong quá trình áp dụng đối với việc cải cách toàn cầu về chế độ kế toán nhà nước, nhằm đáp ứng yêu cầu về trách nhiệm giải trình thông tin tài chính của chính phủ cũng như tính minh bạch trong các số liệu đó. IPSAS là nội dung chủ yếu mà Ủy ban chuẩn mực kế toán công quốc tế (IPSASB) ban hành dựa theo yêu cầu của Liên đoàn kế toán quốc tế và IPSAS. Hiện nay có hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đã vận dụng, chấp nhận IPSAS vì những ưu điểm của hệ thống chuẩn mực này trong quá trình hỗ trợ thông tin tài chính cho các nước đó. Mặc dù hệ thống kinh tế và chính trị có những điểm khác biệt nhau thì các nước khác vẫn đang cố gắng tạo những điều kiện để có thể hòa hợp giữa các chuẩn mực quốc gia hiện hành với hệ thống IPSAS. Vì vậy, IPSAS được xem là một nhân tố hình thành mang tính khách quan và tất yếu nhằm để đánh giá được quá trình thực hiện kế toán đối với các đơn vị thuộc khu vực công tại các quốc gia trên thế giới hiện nay. Chính vì vậy nên IPSAS xứng đáng được xem là một hệ thống chuẩn mực có độ tin cậy cao và là điểm đến của các nhà làm 9 luật, các nhà làm chính sách công cũng như các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực kế toán hiện nay. Trước đây, các quốc gia nói chung và các tổ chức công nói riêng đã áp dụng những hướng dẫn, chuẩn mực khác nhau trong việc ghi chép trong hệ thống kế toán của mình. Tuy nhiên, điều này đã tạo ra sự không nhất quán và việc ghi nhận nghiệp vụ hay lập các báo cáo cũng có những điểm không đồng bộ. Được thiết kế để sử dụng trong việc lập BCTC dựa theo mục đích thống nhất, IPSAS đã thiết lập các hướng dẫn mang tính thống nhất về kế toán áp dụng tại các tổ chức công. Các chuẩn mực này cho phép có thể so sánh dữ liệu giữa các tổ chức và cải thiện tính minh bạch của thông tin về tài chính, kế toán. Nhiều quốc gia trên thế giới đã công bố việc sử dụng IPSAS của quốc gia mình hoặc hệ thống chuẩn mực có tính chất tương tự, đồng thời ngày càng có nhiều kế hoạch để áp dụng IPSAS ở các quốc gia khác nhau trong thời gian sắp tới. Dựa trên IPSAS thì nhiều chuẩn mực khác nhau trong khu vực công đã phát triển. Một số chuẩn mực được thành lập ở cấp độ quốc gia, với các nước đang phát triển thì thiết lập bộ tiêu chuẩn của riêng của họ. Chẳng hạn có ba Ủy ban sau đây hoạt động tại Mỹ gồm: Ủy ban chuẩn mực kế toán chính phủ (GASB), Ủy ban tư vấn chuẩn mực kế toán liên bang (FASAB) và văn phòng hội nhập hệ thống tài chính (FSIO), tiền thân của chương trình cải tiến quản trị tài chính liên kết – (JFMIP). Một bộ chuẩn mực quốc gia khác bao gồm Ủy ban kế toán khu vực công (PSAB) tại Canada và Hội đồng chuẩn mực kế toán Úc. Ở các cấp độ khác, có các chuẩn mực quốc tế gồm Cẩm nang thống kê tài chính chính phủ (GFSM), được ban hành bởi IMF. Xét về tính chất lịch sử, IPSAS được ban hành bởi cơ quan IPSASB. Tiền thân của tổ chức này là Ủy ban khu vực công (Public Sector Committee PSC) trực thuộc Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC). Sau khi tổ chức thành lập, đã tiến hành dự án thành lập các IPSAS và được bắt đầu vào năm 1996. Mục tiêu của dự án là thực hiện 4 công việc cơ bản, đó là (1) phát triển các quy tắc thực hành, lập BCTC cho các đơn vị thuộc khu vực công (KVC); (2) thiết lập một bộ các 10 chuẩn mực chung cho KVC; (3) soạn thảo một chuẩn mực trên cơ sở kế toán tiền mặt và (4) thành lập văn bản hướng dẫn cho các đơn vị chuyển đổi từ kế toán trên cơ sở tiền sang kế toán trên cơ sở dồn tích. IPSASB là một tổ chức hội nghề nghiệp thực hiện việc thiết lập chuẩn mực mang tính chất tách biệt, độc lập với cơ quan nhà nước. Tổ chức IPSASB là cơ quan độc lập, bao gồm 18 nhà khoa học tham gia từ các nước khác nhau trên thế giới. Họ được tập hợp để cùng tham gia quá trình soạn thảo và ban hành các chuẩn mực mang tính chất lượng cao và liên quan đến vấn đề kế toán tài chính trong khu vực công. Một số quốc gia cũng đã giới thiệu IPSAS hoặc các chuẩn mực tương đương và nhiều quốc gia đã đưa vào chương trình hành động và đưa ra kế hoạch để áp dụng IPSAS trong tương lai. Một vài tổ chức lớn như Ủy ban Châu Âu, khối NATO, OECD và UN hiện đã và đang sử dụng hệ thống kế toán tài chính và chế độ báo cáo được lập trên cơ sở IPSAS hoặc sẽ có ý định áp dụng bộ chuẩn mực này trong tương lai gần. 1.1.3. Vai trò và ý nghĩa Việc áp dụng hệ thống IPSAS được xem là một xu hướng tất yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Điều này sẽ mang lại sự minh bạch hơn trong chế độ tài chính công của một nước thông qua ghi chép, hạch toán các nghiệp vụ kinh tế theo đúng bản chất phát sinh hơn là thông qua hình thức giao dịch vì được ghi nhận theo cơ sở dồn tích, qua đó có thể lập được toàn bộ báo cáo tài chính như các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân hiện nay. Hơn thế nữa là việc áp dụng IPSAS cho quốc gia sẽ giúp gia tăng chất lượng đối với thông tin tài chính mà các BCTC cung cấp cho người sử dụng vì tính đầy đủ, tính so sánh được và tính thích hợp, đồng thời cũng tăng cường việc kiểm tra chéo dữ liệu trên các báo cáo giữa các khu vực, các bang, các vùng miền khác nhau trong cùng quốc gia hoặc giữa các nước với nhau, từ đó cải thiện sự minh bạch của các chương trình mà nhà quản trị đang điều hành trong đơn vị. Thông tin trình bày theo IPSAS sẽ tăng trách nhiệm và tính quản trị cho thủ 11 trưởng trong đơn vị. Đổi lại, khi áp dụng bộ chuẩn mực này sẽ giúp cho các tổ chức đảm bảo rằng sẽ có thể đạt được những mục tiêu đã đề ra, duy trì tốt quá trình thực hiện kế toán hiện hành và sẽ hỗ trợ việc sử dụng tài chính, các nguồn lực khác cũng như nhân lực một cách hữu hiệu, hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, khi một quốc gia áp dụng IPSAS này sẽ giúp báo cáo tài chính minh bạch về thông tin công bố, tạo ra tính đáng tin cậy đối với báo cáo tài chính, qua đó giúp tăng cường sự chủ động của các đơn vị công trong quá trình hoạt động của mình. Tóm lại, IPSAS được các quốc gia sử dụng vì bộ chuẩn mực này mang lại một số lợi ích và tính hữu ích sau: - Cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ và gia tăng sự hiểu biết hơn về tài sản, nợ phải trả cũng như các nguồn lực sẵn có trong tổ chức. - Thông tin tài chính tổng hợp hơn sẽ cung cấp sự đánh giá chính xác về tính phù hợp của tài chính trong đơn vị, qua đó có các quyết định phù hợp hơn. - Gia tăng sự minh bạch từ việc áp dụng IPSAS sẽ cho phép có các quyết định tốt hơn và quản lý tài sản chắc chắn hơn và hỗ trợ cho quản trị theo kết quả công việc. - Tăng cường sự thống nhất và tính có thể so sánh của báo cáo tài chính, qua đó hỗ trợ cho các tổ chức có thể tạo ra bức tranh tài chính rõ ràng, từ đó khách hàng, nhà đầu tư hay người sử dụng có thể tin tưởng vào hệ thống chung của đơn vị. 1.1.4. Đặc điểm và nội dung: IPSAS là một bộ các chuẩn mực kế toán phát triển, chất lượng và mang tính độc lập, nhằm mục tiêu đạt được những nhu cầu về lập báo cáo tài chính trong các đơn vị thuộc khu vực công. Nội dung của IPSAS được Ủy ban soạn thảo này dựa trên cơ sở nội dung của chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và chuẩn mực về lập báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Khuôn mẫu lý thuyết đã được biên soạn và kết hợp bởi Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB). Hai bộ chuẩn mực của IAS và IFRS là những văn bản có tính chất liên quan gần nhất với công việc lập báo cáo tài chính của các công ty thuộc khu vực tư nhân. Với tính chất tương tự như IAS và IFRS thì IPSAS là một khuôn mẫu về lý thuyết 12 đối với kế toán tài chính, định giá, báo cáo quy định về cơ chế tài chính. Một số chuẩn mực trong hệ thống IPSAS thì không có đối ứng với hệ thống IAS hoặc IFRS và có một số chuẩn mực khác thì mang tính chất đặc thù riêng trong khu vực công. Cho đến thời điểm tháng 3 năm 2014, IPSASB đã ban hành tổng cộng 32 chuẩn mực kế toán trên cơ sở dồn tích, ngoài ra còn có 1 chuẩn mực hướng dẫn kế toán theo cơ sở tiền. Sự nổi trội và ưu thế của bộ chuẩn mực này là dựa trên kế toán cơ sở dồn tích, và được xem là có tầm quan trọng ảnh hưởng khá tích cực trên thế giới. Khi đã áp dụng IPSAS thì các đơn vị xem như đã tuân thủ các quy định cơ bản của pháp luật áp dụng cho đơn vị công. Giống như khuôn mẫu lý thuyết khu vực tư trong IAS thì việc tuân thủ cũng chứng nhận rằng hầu hết các bộ phận trong tổ chức đã áp dụng được quy định trình bày báo cáo tài chính theo quy định chung. Để đáp ứng được quy định của sự tuân thủ thì một tổ chức thống nhất trong quá trình trình bày thông tin của các giao dịch, các sự kiện khác và các điều kiện theo quy định phù hợp với các yêu cầu đặt ra trong IPSAS. Trong quá trình kiểm toán hàng năm, các kiểm toán viên phải xác định rằng kế toán và quy định thực hành về báo cáo của tổ chức đã được thực hiện theo các yêu cầu nêu ra trong chuẩn mực của IPSAS. 1.2. Cơ sở lý luận về hệ thống BCTC theo chuẩn mực kế toán công quốc tế 1.2.1. Khái niệm “Báo cáo tài chính (BCTC) là một bộ phận trong hệ thống báo cáo kế toán của đơn vị kế toán trong khu vực công, được thiết lập nhằm cung cấp thông tin kinh tế tài chính hữu ích cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin về đơn vị báo cáo để đưa ra các quyết định kinh tế - tài chính thích hợp”. Một bộ báo cáo tài chính có chất lượng phải thể hiện được các đặc điểm chất lượng như tính có thể hiểu được, tính thích hợp, tính đáng tin cậy và tính có thể so sánh được. 1.2.2. Mục đích của báo cáo tài chính khu vực công Báo cáo tài chính của đơn vị nhà nước được lập nhằm mục đích cung cấp thông tin kinh tế - tài chính hữu ích cho việc ra quyết định phù hợp với từng đơn vị. 13 Để thực hiện điều này, BCTC cần cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kết quả hoạt động và sự thay đổi của dòng tiền bên trong đơn vị. Những thông tin này có thể giúp người đọc đánh giá kết quả hoạt động trong quá khứ, xác nhận tình hình tài chính hiện tại và dự báo được sự thay đổi của dòng tiền trong tương lai của đơn vị. Ngoài ra, báo cáo tài chính cũng cho thấy kết quả của việc quản lý cũng như việc thực hiện trách nhiệm giải trình của nhà quản lý đối với các nguồn lực được nhà nước ủy thác. Đây là cơ sở cho việc quyết định tiếp tục bổ nhiệm nhà quản lý của cơ quan có thẩm quyền. 1.2.3. Yêu cầu của báo cáo tài chính khu vực công * Phù hợp với chuẩn mực kế toán công quốc tế Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế vì hội nhập kinh tế toàn cầu là một trong những động lực quan trọng để Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường. Nó dẫn tới việc tăng khả năng cạnh tranh và đem lại nguồn lực và công nghệ cho Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc hội nhập kinh tế nói chung và hội nhập về phương diện kế toán nói riêng đặt ra yêu cầu thông tin kế toán phải được xác lập và cung cấp phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm có được sự chấp nhận rộng rãi. Nhằm đảm bảo nền kinh tế thị trường thật sự cũng như thu hút được sự chú ý của những nhà đầu tư trên thế giới thì bức tranh tài chính của Việt Nam cần phải rõ ràng, có sự minh bạch và thông tin mang tính chất có thể so sánh ở mức độ toàn cầu, để qua đó giúp những người đưa ra quyết định có cơ sở phù hợp. Do đó, nền tài chính công của Việt Nam nói chung cũng như kế toán thu, chi ngân sách nói riêng cũng cần có sự hội tụ theo những hướng dẫn về các chuẩn mực quốc tế vì nó được đánh giá là có ưu điểm nổi bật và có những lợi ích nổi trội như: - Cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ và tính minh bạch đối với các khoản tài sản và nợ phải trả trong đơn vị - bám sát với những hoạt động trên thực tế về kế toán thông qua quá trình ghi chép trên cơ sở dồn tích. - Thông tin mang tính chất dễ hiểu hơn, đặc biệt là thông tin về chi phí của đơn vị , vì nó phản ánh gần với những gì xảy ra tại tổ chức, đồng thời nó phản ánh 14 việc quản trị dựa trên kết quả hoạt động, chứ không theo dữ liệu đầu vào. - Tăng cường được tính nhất quán và tính có thể so sánh được của báo cáo tài chính Với những lợi thế mà chuẩn mực IPSAS mang lại nên trên thế giới hiện nay có khá nhiều đơn vị đã đang tiến hành lựa chọn áp dụng hoặc tiến đến áp dụng bộ chuẩn mực này tại quốc gia hay đơn vị mình. Vì đây là bộ chuẩn mực đang được hầu hết các quốc gia, khu vực lựa chọn áp dụng một cách rộng rãi vì tính ưu việt của nó, do vậy nên để đáp ứng được sự hội nhập quốc tế hiện nay, song phương cũng như đa phương thì việc hướng đến tiếp cận theo IPSAS này là việc được xem là cần thiết và tất yếu. * Phù hợp các tiêu chuẩn chất lƣợng đƣợc thừa nhận của các tổ chức quốc tế Chất lượng và độ tin cậy của các thông tin tài chính trên báo cáo tài chính sẽ xác định tính hữu dụng của báo cáo tài chính đối với người sử dụng. Đặc biệt những đối tượng sử dụng bên ngoài luôn cần những thông tin hữu ích có được từ báo cáo tài chính, là cơ sở đáng tin cậy cho việc đưa ra các quyết định. Theo IPSAS, căn cứ để đánh giá chất lượng báo cáo tài chính là đánh giá thông tin trên báo cáo tài chính thông qua các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng: tính dễ hiểu, tính phù hợp, tính trọng yếu, tính trung thực, trình bày trung thực và hợp lý, sự đúng đắn, tính trung lập, sự thận trọng, sự đầy đủ và tính có thể so sánh được. Và bao gồm các đặc điểm chất lượng cơ bản sau: - Tính dễ hiểu: thông tin đưa ra trong báo cáo tài chính phải dễ hiểu, để người sử dụng có thể hiểu được ý nghĩa chung của báo cáo, đảm bảo cho người sử dụng hiểu được các hoạt động của đơn vị và môi trường hoạt động của đơn vị. - Tính phù hợp: các thông tin được xem là thích hợp khi giúp người sử dụng đánh giá các sự kiện quá khứ, hiện tại và tương lai, hoặc trong trường hợp khẳng định hoặc điều chỉnh các đánh giá trong quá khứ. Thông tin phải được phản ánh cụ thể theo thời gian để đảm bảo được tính thích hợp. - Tính trung thực: là những thông tin tài chính không có các lỗi cơ bản hay 15 bị bóp méo và còn phụ thuộc vào người sử dụng để trình bày một cách trung thực và hợp lý tình hình của đơn vị. - Tính so sánh được: sẽ giúp cho người sử dụng có thể nhận ra sự tương tự hoặc khác biệt giữa các thông tin đó với thông tin trong các báo cáo khác. Sự so sánh được áp dụng để so sánh báo cáo tài chính của các đơn vị khác nhau và so sánh báo cáo tài chính của một đơn vị ở các thời điểm khác nhau. - Để đảm bảo được đặc điểm chất lượng này thì người sử dụng phải biết được chính sách áp dụng trong quá trình lập báo cáo tài chính, sự thay đổi các chính sách và những ảnh hưởng của việc thay đổi đó. * Nâng cao tính công khai minh bạch trong quản lý nguồn lực chính phủ Tất cả những nguồn lực của chính phủ cần thiết và có thể được cung cấp bởi thông tin được trình bày trên các BCTC. Các nguồn lực chính phủ bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi tiêu ngân sách tài khóa của chính quyền trung ương và địa phương nhằm cung cấp hàng hóa, dịch vụ và các nguồn ngân sách chuyển giao cho cộng đồng. Để có thể quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của quốc gia đòi hỏi phải nâng cao tính công khai minh bạch. Việc công khai và minh bạch được hiểu là một trong những điều kiện tiên quyết, ngầm định của bất kỳ thị trường nào hiệu quả, tự do và cho cả bất kỳ tổ chức nào trong một quốc gia. Tính chất minh bạch còn được thể hiện qua các nhu cầu khác nhau của ban lãnh đạo của đơn vị cũng cần được nêu ra công khai và thực hiện có được kiểm chứng trên thực tế. Điều này thể hiện thông qua việc yêu cầu hầu hết các văn bản dự thảo, các quy định, các quyết định kinh tế, kết quả thực hiện đều phải công khai và lưu trữ trong một khoảng thời gian nhất định. Do vậy, tính chất minh bạch này sẽ giúp gia tăng hơn trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức trong quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong nhiều năm qua tính minh bạch được xem là vô cùng quan trọng trong lĩnh vực kế toán thuộc khu vực công tại bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Các nhà nghiên cứu, các nhà làm luật hay các đối tượng thực hiện việc đưa ra các quyết định trong các tổ chức thuộc khu vực công đều tập trung vào các vấn đề thuộc về 16 tính chất này. Nghiên cứu của Tổ chức kinh tế và phát triển OECD (2009) cho thấy rằng 90% các quốc gia trên thế giới đã xác định rằng tính minh bạch như là một giá trị dịch vụ công cốt lõi được nhấn mạnh trong những thập kỷ vừa qua. Các chuyên gia cho rằng, khi thực hiện việc kiểm tra thông tin trong kế toán công, để thỏa mãn tính minh bạch thì các tổ chức được đề nghị rằng phải làm sao cho các cơ quan có thể thấy rõ mục đích của quá trình thực hiện và việc giám sát để đạt mục đích đó. Do vậy, tính minh bạch trong kế toán công có thể kết luận rằng sẽ gắn liền với 3 thành phần và nó được gọi là PID (Process - Information - Decision), bao gồm: (1) các quá trình mang tính mở và có thể hiểu được mà qua đó các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định; (2) bản thân các quyết định mà những điều này cần phải rõ ràng và dựa trên những bằng chứng khách quan và (3) thông tin nào để dựa vào đó ra quyết định và nó nên sẵn sàng được tiếp cận trong dữ liệu kế toán công. Tính minh bạch trong khu vực công liên quan mật thiết đến 6 tính chất, bao gồm: tính rõ ràng, sự đáng tin cậy, đúng thời điểm, mức độ thường xuyên và độ thích hợp với các báo cáo tài chính cùng với tính mở đối với các quy trình đưa ra quyết định về chính sách tài chính của chính phủ. Tính minh bạch chính là một phương tiện quan trọng giúp cho chính phủ thực hiện các quyết định và làm luật pháp có căn cứ đầy đủ để người dân có thể hiểu được một cách dễ dàng, mức cam kết của dân chúng cũng như giúp họ cho những phản hồi khá thuyết phục về những hoạt động mà chính phủ đã, đang và các chiến lược điều hành trong năm tài chính, nhằm đạt được tính minh bạch qua 6 giai đoạn cụ thể theo một trình tự nhất định như sau: - Giới thiệu về tính minh bạch sẽ thực hiện: tùy theo tính chất, nội dung của từng bộ phận, phòng ban thì sẽ có bối cảnh, định nghĩa rõ các nội dung trong tính chất minh bạch khác nhau cần được đảm bảo nhằm mọi người đều hiểu được. - Nhấn mạnh chiều hướng từ trên xuống: việc truyền thông từ cấp lãnh đạo về tầm quan trọng của sự minh bạch trong tổ chức và nêu rõ lợi ích sẽ đạt được. Giá trị của tính minh bạch cần được nêu rõ trong kế hoạch chiến lược, sứ mệnh và nhiệm vụ cùng hệ thống quản trị chung. 17 - Hỗ trợ từ dưới lên trên: phối hợp, nỗ lực và phần thưởng từng ngày sẽ giúp củng cố cho sự minh bạch trong phạm vi của tổ chức, để từng thành viên trong đơn vị đều hiểu được vai trò của mình và từ đó sẽ giúp cho lãnh đạo đạt được sự minh bạch chung cho toàn bộ thông tin công bố. - Cam kết và ghi nhận: điều này cần được thực hiện bởi tất cả các bên liên quan trong tổ chức hay quốc gia trong việc thực thi quyết định và đạt được kỳ vọng của xã hội như mong đợi. Qua đó, giúp cho mọi người nhận thức được rằng tính minh bạch sẽ giúp gia tăng sự uy tín, danh tiếng của tổ chức đó. - Tính sẵn lòng hay sẵn sàng: đây chính là khả năng phát triển các kênh khác nhau trong việc tiếp nhận các thông tin phản hồi từ các đối tượng, để qua đó có những điều chỉnh kịp thời. - Vận dụng văn hóa tổ chức: đây là nội dung tác động đến những sự chú ý, đo lường và kiểm soát, cách thức ứng phó với các ý kiến của dân chúng, điều kiện phân bổ nguồn lực và giải thưởng, điều kiện về tuyển dụng, lựa chọn, thăng chức hay loại thải tất cả những yếu tố này đều giúp tăng hoặc giảm tính minh bạch nếu như nó được thực hiện theo quan điểm của nhà lãnh đạo. Tại các quốc gia, để quản lý ngân sách nhà nước một cách chặt chẽ và hữu hiệu thì chính phủ sẽ tiến hành xác lập rõ cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp, các bộ phận trong đơn vị. Chính phủ có thể thiết kế cơ cấu tổ chức các đơn vị công theo nhiều mô hình khác nhau. Nhưng dù có thể thực hiện theo mô hình nào hay cách thức khác nhau ra sao thì tổ chức công nào cũng cần một bộ phận kế toán có tính hiệu quả trong quá trình thực thi nghiệp vụ chuyên môn, qua đó để có thể cung cấp các thông tin hữu ích cho người sử dụng nhằm đưa ra các quyết định cần thiết sau một kỳ mà đơn vị đã hoạt động với nhiều các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh. 1.2.4. Đặc điểm và nội dung 1.2.4.1 Đặc điểm Kỳ kế toán: Các BCTC được lập ít nhất là hàng năm. Một số trường hợp thay đổi ngày báo cáo và báo cáo được lập với một kỳ kế toán dài hơn hoặc ngắn hơn một năm thì đơn vị phải giải trình. 18 Thời hạn báo cáo: Thông tin trên BCTC sẽ giảm hữu ích nếu như chúng không được sử dụng trong thời gian hợp lý sau ngày kết thúc kỳ kế toán. Do đó đơn vị cần phải phát hành BCTC trong vòng 6 tháng, sau ngày kết thúc kỳ kế toán. 1.2.4.2 Cơ sở xây dựng IPSAS 1 (ban hành tháng 5 năm 2000) "Trình bày báo cáo tài chính" được xây dựng dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) số 1 "Trình bày báo cáo tài chính". Đặc biệt IPSAS 1 nhấn mạnh IPSAS này chỉ được áp dụng cho các báo cáo tài chính lập trên cơ sở kế toán dồn tích, phù hợp với các chuẩn mực kế toán công quốc tế. Và chỉ áp dụng cho các đơn vị thuộc lĩnh vực công, đặc biệt không áp dụng cho các đơn vị kinh doanh bằng vốn nhà nước. Các báo cáo tài chính phải tuân thủ các IPSAS, dựa trên cơ sở kế toán dồn tích, cơ sở đánh giá được áp dụng đối với tài sản là phản ánh theo giá gốc và điều chỉnh khi đánh giá lại tài sản. Ngoài ra báo cáo tài chính được lập trên cơ sở hoạt động liên tục và chính sách kế toán được áp dụng ổn định trong suốt kỳ kế toán. 1.2.4.3. Hệ thống Báo cáo tài chính * Báo cáo tình hình tài chính Tài sản là tiền mặt hoặc các tài sản tương đương tiền. Tài sản ngắn hạn bao gồm các khoản phải thu về thuế, phí sử dụng dịch vụ, tiền phạt và phí khác theo quy định, các khoản thu nhập về hàng hóa và đầu tư được thu về, tiêu dùng hoặc bán. Tất cả các tài sản khác thì được phân loại vào tài sản dài hạn bao gồm tài sản vô hình, tài sản hoạt động và tài sản tài chính sử dụng trong khoảng thời gian dài. Nợ ngắn hạn và dài hạn : Một khoản nợ là nợ ngắn hạn khi được dự tính thanh toán trong chu kỳ hoạt động bình thường của đơn vị; hoặc được giải quyết trong vòng 12 tháng của kỳ kế toán, chẳng hạn như: các khoản chi chuyển giao của Chính phủ và chi phí phải trả cho viên chức và các chi phí hoạt động khác hình thành nên một phần vốn lưu động sử dụng trong chu kỳ hoạt động bình thường của đơn vị. Tất cả các khoản nợ khác thì được xếp vào loại nợ dài hạn 19 Có nhiều đơn vị hoạt động trong lĩnh vực công không có vốn cổ phần nhưng các đơn vị này chịu sự kiểm soát bởi một đơn vị khác hoạt động trong lĩnh vực công. Khi đó đơn vị cần phải trình bày rõ hoặc trong báo cáo tình hình tài chính hoặc trong giải trình báo cáo: "Tài sản thuần/ vốn chủ sở hữu cần được phản ánh riêng biệt: - Tổng số vốn góp của chủ sở hữu trừ đi phần đã rút; - Tổng số thặng dư hoặc thâm hụt; Các khoản dự trữ, bao gồm cả việc di n giải tính chất và mục đích của các khoản dự trữ nằm trong tài sản thuần/vốn chủ sở hữu; và “Lợi ích của cổ đông thiểu số”; (đoạn 95 - IPSAS 1) IPSAS 1 không đưa ra yêu cầu hoặc các mẫu biểu cùng với các khoản mục bên trong mà chỉ đưa ra một danh mục các khoản mục khác nhau về tính chất, chức năng được trình bày riêng biệt trên báo cáo tình hình tài chính. Các khoản mục trình bày trên BCTC: - Tài sản, nhà máy và thiết bị; - Tài sản vô hình; Tài sản tài chính; - Các khoản đầu tư được xác định theo phương pháp vốn chủ sở hữu; - Hàng tồn kho; - Khoản thu về từ các giao dịch một chiều, bao gồm thuế, thu chuyển giao; - Các khoản thu được từ các giao dịch trao đổi; - Tiền và các khoản tương đương tiền; - Các khoản phải trả thuế, chi chuyển giao; - Các khoản phải trả về các giao dịch trao đổi; - Các khoản dự phòng; - Nợ phải trả dài hạn; “Lợi ích của cổ đông thiểu số trình bày trong tài sản thuần/vốn chủ sở hữu; và Tài sản thuần/ Vốn chủ sở hữu do chủ sở hữu chi phối thực tế". (đoạn 88 -IPSAS 1) 20 * Báo cáo kết quả hoạt động Báo cáo kết quả hoạt động là báo cáo phản ánh kết quả của các hoạt động do đơn vị thực hiện để đạt được mục đích của đơn vị. Tuy nhiên thu nhập và chi phí của những hoạt động này khác với thu nhập, và chi phí liên quan đến hoạt động nắm giữ tài sản hoặc tài trợ vốn cho hoạt động của đơn vị, những hoạt động nắm giữ tài sản hoặc tài trợ vốn cho hoạt động của đơn vị thường được xếp vào hoạt động bất thường, như lãi hoặc lỗ từ các hoạt động bán tài sản, máy móc, thiết bị. Các khoản mục cơ bản cần phải phản ánh vào báo cáo kết quả hoạt động: - Thu nhập; - Chi phí tài chính; - Phần thặng dư hoặc thâm hụt thuần của các đơn vị liên doanh, liên kết tính theo phương pháp vốn chủ sở hữu; - Lãi/lỗ trước thuế do thanh lý tài sản, hoặc giải quyết các khoản nợ do ngừng hoạt động; Thặng dư hoặc thâm hụt; Đồng thời phản ánh phần phân bổ thặng dư hoặc thâm hụt cho: Phần lợi ích của cổ đông thiểu số trong thặng dư hoặc thâm hụt; và Tổng thặng dư hoặc thâm hụt của chủ sở hữu chi phối đơn vị trong kỳ kế toán. Các khoản mục chi phí được phân loại chi tiết để chỉ rõ từng loại chi phí cho từng hoạt động, chương trình nhất định hoặc các bộ phận tương ứng của đơn vị báo cáo. Những thông tin này có thể được cung cấp bằng 1 trong 2 phương pháp: phương pháp phân loại theo tính chất chi phí, phương pháp phân loại theo chức năng của chi phí. Phương pháp phân loại theo tính chất của chi phí như chi phí khấu hao, chi mua vật tư, chi phí vận chuyển, chi phí tiền công, chi phí tiền công, tiền lương. Phương pháp này đơn giản thường được áp dụng cho những đơn vị nhỏ không phải phân bổ số chi cho các hoạt động. Phương pháp phân loại theo chức năng của chi phí theo các chương trình hoặc mục đích chi ví dụ: chi cho y tế, chi cho giáo dục. Phương pháp này cung cấp thông tin chi tiết hơn cho người sử dụng so với phương pháp phân loại theo tính
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan