Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị ...

Tài liệu Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay

.PDF
82
1250
129

Mô tả:

LUẬN VĂN: Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế giới quan khoa học là cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Hay nói cách khác, thế giới quan khoa học có vai trò quan trọng trong nhận thức và cải tạo thực tiễn. Do đó, việc giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng - thế giới quan khoa học cho đội ngũ cán bộ của Đảng không chỉ là việc làm thường xuyên, lâu dài mà còn là vấn đề cấp thiết trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta. Trước diễn biến đa dạng phức tạp trên thế giới và trong nước đòi hỏi người cán bộ phải có bản lĩnh chính trị, tri thức khoa học vững vàng để nhận thức và hoạt động đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan của đất nước và xu thế của thời đại. Hà Nam là một tỉnh nằm phía Nam của Thủ đô Hà Nội, chủ yếu dọc hai bên đường quốc lộ 1A, mới được tái lập tháng 1/1997, có vị trí chiến lược an ninh - quốc phòng, có điều kiện địa - chính trị thuận lợi. Song, trong những năm qua, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa chưa thật tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Trường Chính trị Hà Nam là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở (trừ cán bộ chủ chốt cấp huyện và cấp tỉnh). ở đó, cán bộ có điều kiện tiếp cận nội dung kiến thức cơ bản để phục vụ hoạt động công tác của mình, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của tỉnh. Vì vậy, những hạn chế chung của tỉnh có thể do nhiều phương diện, trong đó phải nói đến hiệu quả công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của nhà trường, đặc biệt là công tác xây dựng thế giới quan khoa học cho họ. Cho nên, việc bồi dưỡng thế giới quan khoa học là một trong những giải pháp cấp bách và chiến lược lâu dài cho đội ngũ cán bộ tỉnh Hà Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt. Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến thế giới quan khoa học ở những giác độ khác nhau cũng được thực hiện trong một số luận văn, luận án; cụ thể như sau: - V.I.Li-xốp-ski và V.Mi-tri-ep: "Nhân cách của người sinh viên" (chương VI: Sự hình thành thế giới quan), Nxb Đại học Tổng hợp Lêningrát, 1974. - Bun-nhông-khin-sa-mom: "Xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay", Luận án PTS, số 48, Học viện Nguyễn ái Quốc. - Ch.L.Xiếc-nốp: "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới quan Mác - Lênin", Tạp chí Giáo dục Mác - Lênin, số 3-1985. - Lê Xuân Vũ: "Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần nhân dân ta", Tạp chí Cộng sản số 6-1986. - Bùi ỉnh: "Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ, đảng viên là người dân tộc, thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta", Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1988. - Trần Thanh Hà: "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ, đảng viên người dân tộc Khơmer ở đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn cách mạng hiện nay", Luận án Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1993. - Trần Phước: "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam", Luận án PTS triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1993. - Trần Viết Quân: "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên", Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Các tác giả trên đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản như sau: + Khái niệm thế giới quan nói chung và thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng, vấn đề cấu trúc, vai trò của chúng. + Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc giáo dục bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho các đối tượng như sinh viên, cán bộ nói chung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. + Nêu ra những nhân tố cơ bản trong việc hình thành, tác động phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. + Từ đó, tác giả đưa ra một số những phương hướng chung và các giải pháp cụ thể cho mỗi đối tượng nghiên cứu trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn trong mỗi giai đoạn nhất định. Tuy nhiên về " Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay " chưa có tác giả nào nghiên cứu. Dựa trên thực tế giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan Mác - Lênin của Trường Chính trị Hà Nam trong những năm qua cho đội ngũ cán bộ trong tỉnh và thông qua việc giảng dạy môn triết học, tác giả mạnh dạn chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ triết học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Từ việc phân tích vai trò thế giới quan và thực trạng việc bồi dưỡng thế giới quan của cán bộ tỉnh Hà Nam, luận văn đưa ra một số những giải pháp cụ thể nhằm bồi dưỡng thế giới quan cho đội ngũ học viên của trường Chính trị tỉnh Hà Nam. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của nó trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. - Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng thế giới quan của cán bộ trong tỉnh Hà Nam. - Đưa ra một số những giải pháp nhằm nâng cao thế giới quan khoa học cho đối tượng là học viên học ở tại trường. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ đề cập đến vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên ở Trường Chính trị Hà Nam (trừ đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và cấp huyện) từ năm 1997 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề giáo dục bồi dưỡng thế giới quan Mác - Lênin, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa sự thống nhất biện chứng lý luận và thực tiễn… - Luận văn dựa vào các văn kiện của các thời kỳ Đại hội của Đảng, Nghị quyết trung ương, các tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở tỉnh và Trường Chính trị Hà Nam. - Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp lịch sử và lôgíc, điều tra xã hội học… 6. Đóng góp của luận văn Làm rõ thực trạng thế giới quan của cán bộ tỉnh Hà Nam trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp chủ yếu để củng cố và nâng cao thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ này. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến lược, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ ở tỉnh Hà Nam. - Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng dạy và học tập ở trường chính trị nói chung và Trường Chính trị Hà Nam nói riêng. văn 7. Kết cấu của luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1 Thế giới quan của đội ngũ cán bộ tỉnh hà nam hiện nay 1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với công tác lãnh đạo, quản lý 1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng Đứng trước bức tranh về thế giới (tự nhiên và xã hội) muôn hình, muôn vẻ và sinh động, con người luôn đặt ra và giải quyết những vấn đề về mối quan hệ của mình với thế giới, về nguồn gốc của thế giới, về vị trí của mình trong xã hội, về ý nghĩa cuộc sống của mình và thể hiện quan điểm, tư tưởng qua các lý thuyết xã hội. Đó chính là sự lựa chọn và định hướng cuộc sống, tức là sự thể hiện thế giới quan của mình. Thuật ngữ "thế giới quan" xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII do nhà triết học cổ điển Đức là Cantơ nêu ra. Từ đó, nó được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm của các nhà triết học sau này. Đặc biệt, với sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm thế giới quan đã phát triển lên một tầm cao mới mang tầm vóc lớn lao. Thế giới quan nào ra đời cũng đều nhằm giải quyết ba vấn đề cơ bản sau: - Thế giới mà con người đang sống là gì? - Trong thế giới đó con người sống vì cái gì và sống như thế nào? - Khả năng con người tác động lại thế giới ra sao? Trả lời những câu hỏi đó, thế giới quan đã vạch ra được mối quan hệ giữa con người với thế giới và xác định vị trí con người trong thế giới đó. Thế giới quan được hình thành và phát triển trong xã hội dưới hai hình thức: Thứ nhất: Thế giới quan là một nhân tố của ý thức cá nhân, giữ vai trò chỉ dẫn cách thức tư duy và hành động của cá nhân, đó là thế giới quan cá nhân. Thế giới quan cá nhân thường là sự tích lũy và thu thập kinh nghiệm sống của mọi người. Nó nằm trong suy nghĩ và hành vi của họ mà chính họ cũng không biết rằng cái được gọi là kinh nghiệm sống hay sự hiểu biết về bức tranh chung của thế giới đó là thế giới quan cá nhân. Nó chính là mức độ thấp trong nhận thức thế giới. Tuy nhiên, không nên đánh giá thấp tác dụng của nó với tính cách là một nhân tố điều chỉnh hành động của con người. Tác động của giáo dục, ảnh hưởng của truyền thống, của các quan hệ xã hội, các điều kiện và hoàn cảnh môi trường sống là nhân tố quan trọng hình thành các quan điểm và nguyên tắc thế giới quan cá nhân. Thứ hai: Thế giới quan là sự thể hiện dưới hình thức lý luận khái quát hóa các quan điểm và hoạt động của một nhóm xã hội, một giai cấp hay toàn xã hội. Đó là thế giới quan xã hội. Các nhà triết học, kinh tế học, xã hội học hay các nhà tư tưởng, chính trị... luôn suy nghĩ, cân nhắc để xây dựng thế giới quan xã hội. Nhiệm vụ của họ là phải làm thế nào để thể hiện một cách đầy đủ nhất những nguyên lý tư tưởng lý luận, nguyên lý triết học nhằm chỉ dẫn suy nghĩ và hành động của con người, của một nhóm xã hội, một giai cấp hay toàn xã hội. Hai loại thế giới quan trên luôn nằm trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Mỗi cá nhân đều luôn mong muốn làm phong phú tri thức của mình bằng cách tiếp nhận những lý luận chung để làm sáng tỏ vị trí của mình trong thế giới, trong đời sống xã hội. Ngược lại, những quan điểm thế giới quan xã hội, lý luận chung ấy trở thành một bộ phận trong ý thức và niềm tin của các cá nhân, thẩm thấu vào ý thức cá nhân, được hình thành một cách tự phát rồi tác động và chỉ dẫn nó. Dù ở trình độ phát triển nào các quan điểm về thế giới quan cũng đều mang tính khái quát. Thế giới quan là sự phản ảnh chủ quan những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Tuy nhiên, thế giới quan không chỉ dừng lại ở sự phản ánh thụ động đó, mà nó còn là nhân tố tích cực của con người, sự thông thái về cuộc sống để chỉ dẫn cho nhận thức lẫn hành động của con người. Bởi vì, chính hành vi và hoạt động của con người đã đặt ra các vấn đề như: liệu nhận thức có đáp ứng những mục đích sống đã được con người lựa chọn và con đường thực hiện những mục đích ấy có tuân theo những quy luật phát triển của thế giới khách quan hay không? Liệu quan hệ giữa tri thức con người với thực tiễn cải tạo thế giới khách quan, cải tạo chính bản thân mình có tương ứng với những đòi hỏi và những khuynh hướng phát triển hợp quy luật của hiện thực hay không? Và bằng cách nào mà tư duy và hành động của mình, con người có thể thể hiện sự thống nhất giữa mình và thế giới, hiểu được tương lai, triển vọng của mình? Khi trả lời những câu hỏi đó, thế giới quan đã thể hiện chức năng, định hướng lớn lao của mình. Trong lịch sử tư tưởng làm người đã có nhiều định nghĩa khác nhau về thế giới quan, chẳng hạn, G-Gertx đã cho rằng: "Chúng tôi hiểu thế giới quan như một hệ thống nhất định những lời giải đáp những vấn đề về cội nguồn của thế giới và nguồn gốc, về ý nghĩa cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội" [16, tr. 42]. Hoặc trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, Minh Tâm đã định nghĩa: "Thế giới quan là hệ thống những quan điểm mang tính khái quát về thế giới nói chung, về những quy trình tự nhiên và xã hội được thực hiện trong thế giới đó, về mối quan hệ của con người đối với hiện thực xung quanh" [39, tr. 17]... Chúng tôi nhận thấy các định nghĩa trên đều đúng, nhưng bao quát và rõ hơn cả là theo cách định nghĩa của Akitốp, bởi vì trong định nghĩa này, ông đã nêu nên, các yếu tố nhận thức và giá trị, yếu tố khách quan và chủ quan thống nhất chặt chẽ với nhau, các tri thức của khoa học về thế giới hòa với niềm tin của con người. Ông viết: "Tổng hợp tất cả những quan niệm, chính kiến về thế giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý nghĩa và giá trị của đời sống con người, lòng tin của con người trong hiện thực gọi là thế giới quan" [1, tr. 167]. Từ những quan niệm trên đây, có thể hiểu: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể (có thể là của một người, một tập đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội) về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng, chỉ dẫn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Về cấu trúc của thế giới quan bao gồm một số nhân tố cơ bản sau đây: Tri thức: Cũng giống ở mọi ý thức xã hội, thế giới quan bao gồm những tri thức về tự nhiên, xã hội, con người. Những tri thức mang tính khái quát về các hiện tượng tự nhiên, về mối quan hệ nền tảng, bản chất của tự nhiên, tạo thành quan điểm về tự nhiên của thế giới quan. Các tri thức tự nhiên đó quy định lập trường của con người trong thế giới, chỉ rõ người theo chủ nghĩa vô thần hay duy tâm, tôn giáo; biện chứng hay siêu hình. Những tri thức về cuộc sống của con người, về sự phát triển xã hội, về quan hệ của con người đối với xã hội tạo thành quan điểm xã hội của thế giới quan. Những tri thức hệ thống khái quát về bản chất của quá trình hoạt động nhận thức của con người tạo thành quan điểm nhận thức luận của thế giới quan. Rõ ràng, việc xác định bản chất của thế giới quan cần dựa trên phương diện bản thể luận lẫn phương diện nhận thức luận. Tri thức là điều kiện cần thiết cơ bản cho việc hình thành thế giới quan, nhưng không phải bất kỳ tri thức nào về tự nhiên, xã hội, về con người đều là tri thức thế giới quan. Chỉ có những tri thức biểu thị quan điểm chung về tồn tại và về nhận thức mới là những tri thức của thế giới quan. Trong nội dung tri thức của thế giới quan, các quan điểm của triết học đóng vai trò là nền tảng của mọi thế giới quan ở các giai đoạn phát triển của nó vì triết học phản ánh các quan điểm chung nhất về thế giới. Niềm tin: Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người. Niềm tin là những tư tưởng chi phối chặt chẽ tư tưởng, chỉ dẫn hành động của con người tuân theo và ràng buộc trí tuệ, lương tâm của con người với chúng. Nếu con người làm việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng thì con người sẽ bị mất đi những rung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ vũ cần thiết đối với hiệu quả công việc. Không có tâm hồn nóng bỏng của niềm tin vào tri thức thì sẽ không sản sinh ra cái gì vĩ đại cả. Vì niềm tin giúp cho con người có nghị lực phi thường vượt qua những giây phút hiểm nghèo, giám hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng mà mình cho là cao cả. Như thế, niềm tin là yếu tố cấu thành quan trọng của thế giới quan. Nếu nó được xác lập trên nền tảng tri thức khoa học thì nó sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Lý tưởng: Trong thế giới quan, cùng với tri thức và niềm tin thì lý tưởng là yếu tố định hướng cực kỳ quan trọng. Lý tưởng như là hình mẫu, mục tiêu tối thượng về một cái gì đó của một cá nhân, nhóm người, giai cấp hay toàn xã hội muốn vươn tới hiện thực. Lý tưởng là một hình thức tư tưởng được xác lập trên cơ sở tri thức và niềm tin của một giai cấp trong toàn xã hội đặt ra nhằm định hướng hoạt động cho mọi thành viên trong xã hội thực hiện mục đích của mình, nhằm cải tạo thế giới "đang có" thành thế giới "phải có". Lý tưởng mang tính lịch sử về bản chất, nó có thể tiến bộ hay lạc hậu tùy thuộc vào hình thái của các mối quan hệ xã hội. Những quan niệm của con người về tương lai, về lý tưởng, đó là sự tìm tòi và sẽ hình thành một hình thức tâm lý với tư cách là niềm hi vọng. Không có niềm hy vọng như là một sự khao khát hiến dâng mình cho tương lai thì không thể có một lập trường sống tích cực. Đó là các nhân tố cơ bản có quan hệ chặt chẽ với nhau cấu thành thế giới quan, để thể hiện những quan điểm của chủ thể về thế giới, về những hiện tượng tự nhiên, xã hội và các quy luật phát triển của chúng; về bản thân con người,vai trò của con người trước thế giới. Mối quan hệ giữa triết học với thế giới quan: Như trên đã trình bày, thế giới quan đã chỉ ra mối quan hệ giữa con người với thế giới, cái chủ quan và cái khách quan đã bao hàm trong mình vấn đề cơ bản của triết học, thậm chí vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề chính trong kết cấu của thế giới quan. Nhưng xét về mặt lịch sử, thế giới quan ra đời sớm hơn triết học. Nó ra đời trong thời kỳ bộ tộc, trên cơ sở sự phản ánh hoang đường về thực tế. Và hình thức thế giới quan đầu tiên ấy gọi là thế giới quan thần thoại. Còn triết học là khoa học chỉ xuất hiện khi có sự tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay, gắn liền với sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô lệ. Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới đó. Vì vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các nhà khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học. Trong những bước chuyển biến của đời sống xã hội của thực tiễn đặt ra đã kéo theo sự tiến hóa của thế giới triết học, mà đỉnh cao nhất nó đạt được là thế giới duy vật biện chứng. Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống chỉnh thể những tri thức về tự nhiên, xã hội và con người. Nó được tạo thành trên cơ sở phê phán có chọn lọc những tư tưởng tiến bộ của các trào lưu triết học từ sự khái quát kinh nghiệm lịch sử có những thành tựu của khoa học. Vai trò thế giới quan duy vật biện chứng trong thực tiễn cách mạng được quy định bởi bản chất cách mạng của chính phép biện chứng duy vật. Vì vậy, thế giới quan duy vật biện chứng là một loại thế giới quan mang tính khoa học và cách mạng triệt để nhất. Nó không chỉ dừng lại ở việc lý giải về thế giới mà hơn thế nữa, trên cơ sở sự lý giải đúng, nó trở thành cái định hướng cho con người trong hành động, khẳng định vị trí của con người trong việc cải tạo thế giới; C. Mác viết: "Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới" [29, tr. 258]. Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong sự phát triển của thế giới quan triết học nói riêng và của thế giới nói chung. Nó là sự thống nhất chặt chẽ các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng do các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác sáng lập. Thế giới quan đó có một ý nghĩa không chỉ thuần về mặt lý luận và nhận thức mà nó còn có ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn: biểu hiện thái độ của con người với thế giới xung quanh và làm kim chỉ nam cho hành động của con người. Nhờ đã phát hiện ra những quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội cho nên thế giới quan duy vật biện chứng hướng sự hoạt động của con người đúng theo sự phát triển của xã hội, do đó, nó thúc đẩy thêm sự phát triển ấy. Công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta đòi hỏi mỗi người chúng ta, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ - những người lãnh đạo quần chúng phải có một thế giới quan đúng đắn, khoa học và cách mạng, một thế giới quan thống nhất giữa lời nói, việc làm, giữa chân - thiện - mỹ... Một thế giới quan như thế phải được xây dựng trên những tư tưởng triết học của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi lẽ, việc trang bị thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp chúng ta có niềm tin vững chắc vào sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội; nâng cao năng lực nhận thức và tổ chức thực tiễn. Nó có tác dụng đối với mọi người, đặc biệt là đội ngũ cán bộ - những người lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng trong tình hình cách mạng mới. 1.1.2. Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà Nam Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước ta được phân thành bốn cấp: trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận; xã, phường, thị trấn. Nhưng khi nói đến hết cơ cấu bộ máy chính quyền nhà nước thì được phân thành hai cấp: trung ương và địa phương (về đối tượng nghiên cứu của đề tài này là những người cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở, trừ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và cán bộ chủ chốt cấp huyện). Theo cách hiểu thông thường và khá phổ biến ở nước ta hiện nay, khái niệm cán bộ lãnh đạo còn gắn liền với khái niệm cán bộ quản lý, được hiểu là những người có chức vụ và trách nhiệm điều hành, cầm đầu trong các cơ quan, các tổ chức sự nghiệp, kinh doanh. Nội hàm cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý có những điểm giống nhau: Cả cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều là chủ thể ra quyết định, điều khiển hoạt động của một tổ chức, người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện chức năng quản lý và người quản lý cũng phải thực hiện chức năng lãnh đạo, nên khó có thể phân biệt một cách rạch ròi đâu là người lãnh đạo và đâu là người quản lý. Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và quản lý không hoàn toàn thống nhất với nhau. Trong quá trình lãnh đạo, hoạt động chủ yếu là định hướng cho khách thể thông qua hệ thống cơ chế, đường lối, chủ trương, chính sách "làm thức tỉnh" hành vi của đối tượng, định hướng hoạt động của đối tượng và xã hội. Trong Từ điển tiếng Việt ghi: "Lãnh đạo bằng đề ra đường lối chủ trương và tổ chức, động viên thực hiện" [39, tr. 720]. Còn hoạt động quản lý mang tính chất điều khiển vận hành thông qua những thiết chế có tính pháp lệnh, quy định từ trước. ở cả hai cương vị, người cán bộ lãnh đạo và người cán bộ quản lý đều phải là người giỏi nghiệp vụ chuyên môn, phải có đủ năng lực và phẩm chất để định hướng điều khiển chỉ huy, tổ chức công việc và đoàn kết cộng đồng. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, cán bộ phải là những người "có nhiều trí tuệ hơn một chút, nhiều sự phân minh trong tư tưởng hơn một chút... và kiến thức rộng", đó là những người trung thành, tiêu biểu cho lý tưởng và lẽ sống của giai cấp vô sản. Theo V.I. Lênin, người cán bộ lãnh đạo quản lý phải là những người: Thực sự có tài tổ chức, những người có bộ óc sáng suốt và có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội, lại vừa có năng lực lặng lẽ... tổ chức công tác chung vững chắc và nhịp nhàng... chỉ có những người như thế, chúng ta mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo quản lý [28, tr. 509]. Hồ Chí Minh căn dặn: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa và tư tưởng xã hội chủ nghĩa" [34, tr. 159]. Trong sự nghiệp cách mạng có nhiều nhiệm vụ, nhiều công việc. Song người luôn coi "cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [34, tr. 269]; "muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém" [34, tr. 240]. Nếu có cán bộ tốt, ngang tầm thì việc xây dựng đường lối chính sách sẽ đúng đắn và điều kiện tiên quyết đẻ đưa sự nghiệp cách mạng thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì cho dù có đường lối, chính sách đúng thì khó có thể trở thành hiện thực. Muốn biến đường lối, chính sách thành hiện thực; cần phải có những người cán bộ cách mạng thực sự bằng lý luận và năng lực thực tiễn của mình kết hợp với quần chúng nhân dân để tổ chức thành công sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng" [34, tr. 260]. Người cán bộ không chỉ dừng lại ở những tri thức kinh nghiệm lẻ tẻ, rời rạc mà sau mỗi việc đã làm phải biết tổng kết thực tiễn, khái quát, nâng lên thành lý luận để lý luận lại chỉ đường, dẫn lối cho hoạt động thực tiễn của người cán bộ. Bên cạnh tư chất và tài năng, đòi hỏi người cán bộ lãnh độ, quản lý phải trau dồi chủ nghĩa tập thể chống chủ nghĩa cá nhân, thói quan liêu cửa quyền hách dịch, đặc quyền đặc lợi; luôn gương mẫu, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải gắn bó với nhân dân, giữ đúng lời hứa với dân, luôn khiêm tốn và ham học hỏi. Những phẩm chất đạo đức đó không phải từ trên trời rơi xuống, không phải là bẩm sinh, nhưng cũng không thể không vươn tới được. Nó là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ lâu dài của mỗi người. Do đó, người cán bộ phải phấn đấu vừa "hồng" vừa "chuyên", tiêu biểu mẫu mực trước quần chúng nhân dân. Để làm được điều đó đòi hỏi người cán bộ phải có đủ tư chất, tài năng và có đạo đức tốt: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư". Ngày nay, đất nước ta đang tiếp tục thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là thời kỳ có nhiều thay đổi và có vận hội mới, đồng thời cũng không ít những nguy cơ và thử thách. Song mục tiêu đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa..., tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại [14, tr. 89]. Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cấp tỉnh đến cấp xã càng ngày càng quan trọng thể hiện trong mọi mặt của sự nghiệp đổi mới đất nước. Từ việc củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảm bảo cho các chi bộ, Đảng bộ là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị ở mỗi cấp, lãnh đạo toàn diện các mặt của đời sống xã hội, xây dựng chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân... đến những công việc cụ thể của quá trình lãnh đạo như: nắm bắt và cụ thể hóa các đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở từng địa phương, từng sở, ban ngành; đề ra kế hoạch, lãnh đạo quản lý để mọi người thực hiện. Đồng thời, người lãnh đạo, quản lý phải biết uốn nắn những sai lệch trong quá trình thực hiện thuộc phạm vi, quyền hạn của mình, tổng kết phong trào, phản hồi lại các cơ quan đơn vị (nếu cần), đảm bảo sự lãnh đạo thông suốt từ trung ương đến cơ sở. Đặc biệt, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nội dung quan trọng, tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đang đặt ra nhiều thử thách, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có những phẩm chất, tri thức mới đáp ứng nhiệm vụ cách mạng: từ việc thực hiện chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại, tiếp thu và áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, thành tựu khoa học - công nghệ mới, kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại đến việc cải tạo và nâng cấp kết cấu hạ tầng, quy hoạch dân cư và vùng lãnh thổ, phát triển công tác giáo dục, đào tạo... Để có được những phẩm chất và năng lực đó, người cán bộ không những thông qua hoạt động thực tiễn "lăn lộn" trong phong trào cách mạng đồng thời còn là kết quả của công tác cán bộ của Đảng. Sự phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có thể tạo ra những cán bộ giỏi có tài có đức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức, cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật, cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh công tác hàng ngày" [33, tr. 461]. Đào tạo, bồi dưỡng là khâu có ý nghĩa quyết định đến trình độ, chất lượng cán bộ. Công việc này gồm nhiều hình thức khác nhau, nhưng trong đó việc đào tạo, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Bởi vì, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ có phương pháp nhận thức đúng đắn sự vật, đề ra kế hoạch, định hướng và biện pháp thực hiện khoa học và hiệu quả. Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà Nam được thể hiện một số mặt cơ bản sau đây: Thứ nhất: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý nâng cao năng lực nhận thức; đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế ở địa bàn. Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ có phương pháp biện chứng làm việc và nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng. Nó xác lập và tạo niềm tin cho lập trường của người cán bộ, bác bỏ những quan điểm sai lầm của thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ ngày càng đi sâu vào bản chất sự vật, nắm bắt được cái phổ biến tất yếu, những mối liên hệ ẩn giấu đằng sau các sự kiện riêng biệt. Từ đó giúp họ thấy được quy luật, nguồn gốc, xu hướng, phương thức vận động, biến đổi, phát triển của sự vật hiện tượng. Đồng thời, thế giới quan duy vật biện chứng cũng tạo cho họ có khả năng phân tích và tổng hợp, trừu tượng và khái quát. Nhờ vào khả năng phân tích mà họ có thể thấy được cơ cấu bên trong, tính chất, chức năng của các bộ phận, yếu tố. Trên cơ sở đó với phương pháp tổng hợp, người cán bộ biết liên kết, thống nhất lại các bộ phận yếu tố đã phân tích, vạch ra mối liên hệ của chúng nhằm nhận thức cái toàn thể trong tính muôn vẻ của nó, giúp cho người cán bộ nắm bắt sâu sắc bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Năng lực trừu tượng giúp người cán bộ biết gạt bỏ những mặt, yếu tố không cơ bản nào đó trong tổng thể phong phú của sự vật mà nắm được cái bản chất có tính quy luật của nó. Năng lực khái quát giúp cho cán bộ nắm được đặc tính chung từ những vấn đề nhưng việc nắm vững vấn đề lý luận chung sẽ là tiền đề, phương pháp tốt nhất để giải quyết những vấn đề cụ thể. V.I. Lênin viết: Người nào bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng, trước khi giải quyết những vấn đề chung, thì kẻ đó trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi, vấp phải những vấn đề chung một cách không tự giác mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những dao động tồi tệ nhất và mất tính nguyên tắc [25, tr. 427]. Thế giới quan duy vật biện chứng cũng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Người cán bộ mà dừng lại ở tư duy kinh nghiệm, tuyệt đối hóa tri thức kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm, như vậy sẽ không thể không rơi vào thế giới quan duy vật và phương pháp tư duy siêu hình, tuyệt đối hóa cái cụ thể, cái đơn nhất đem áp dụng nó vào cái phổ biến cái đa dạng, cái toàn thể. Chỉ có trên cơ sở trang bị thế giới quan duy vật biện chứng, người cán bộ mới nâng cao được trình độ, năng lực tư duy của mình từ kinh nghiệm phát triển lên lý luận khoa học, mới có đủ điều kiện đảm bảo để khám phá, đi sâu vào bản chất sự vật, quy luật vận động phát triển của nó. Đồng thời, nâng cao tư duy lý luận sẽ giúp người cán bộ quản lý tránh khỏi lúng túng, bất lực, nắm bắt được tình hình nhanh chóng, ra được quyết định nhanh đúng và trúng. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay với những diễn biến phức tạp, khó khăn và thuận lợi đan xen nhau, càng đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ lý luận, vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước vào thực tiễn, tình huống cụ thể. Đồng thời, đòi hỏi người cán bộ phải nhạy bén, linh hoạt, tinh thần dám nghĩ dám làm, đấu tranh với những hủ tục, lạc hậu tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến bộ phát triển. Thứ hai: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý có được niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, tin vào đường lối chính trị của Đảng, tin vào quần chúng nhân dân. Việc nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ thế giới quan khoa học giúp chúng ta nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan của thời đại của đất nước, với tất cả những mối quan hệ giai cấp, dân tộc, những tương quan lực lượng cụ thể trong thời kỳ lịch sử nhất định. Đồng thời, nó vạch ra lực lượng cách mạng, tiến bộ và quy luật con đường của sự phát triển lịch sử. Trong thế giới quan duy vật biện chứng mà triết học (bao gồm cả duy vật biện chứng và duy vật lịch sử) cùng với các khoa học khác đã khẳng định sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên với những quy luật nhất định. Từ đó, nó luận chứng về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chế độ xã hội mới: Xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa mà giai cấp công nhân là Người gánh vá sứ mệnh lịch sử đó. Nếu công lao Mác và Ăngghen đã đưa ra những dự đoán thiên tài về một chế độ xã hội mới tốt đẹp thì Lênin bằng tài năng vĩ đại của mình đã phát triển, vận dụng tư tưởng của Mác và Ăngghen vào thực tiễn nước Nga và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra và thắng lợi. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười cùng với sức mạnh và tính ưu việt của Nhà nước công nông đầu tiên đã tạo ra điều kiện khách quan, chỗ dựa vững chắc, nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên khắp các châu lục trên con đường giải phóng dân tộc và tiến lên xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã đóng góp to lớn cho việc giữ gìn hòa bình, bình đẳng và tiến bộ xã hội, làm nức lòng triệu triệu trái tim trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế" [5, tr. 67]. Mặc dù hiện nay, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ và chủ nghĩa đi vào thoái trào, nhưng đó chỉ là sự khủng hoảng trong sự trưởng thành, nhất định loài người vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là qui luật phù hợp với dòng chảy lịch sử. Sự kiên định và phát triển con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn cùng với những thành công trong công cuộc đổi mới, cải cách ở Việt Nam và Trung Quốc đã càng củng cố lòng tin của nhân loại đối với tính ưu việt và trường tồn của chủ nghĩa xã hội. Trong những thập kỷ gần đây, chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh nào đó, do cuộc đấu tranh của nhân dân lao động, do phải tồn tại bên cạnh hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực, do tác động cuộc cách mạng khoa học, công nghệ... song xã hội đó vẫn không làm thay đổi cơ bản mối quan hệ giữa tư bản và lao động, giữa người bóc lột và người bị bóc lột. ở đó, năng suất lao động càng cao thì bóc lột càng nhiều, đó là một sự thật hiển nhiên. Việc thấm nhuần sâu sắc thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp người cán bộ nhận thức đúng bản chất của chủ nghĩa tư bản, các quy luật vận động khách quan của lịch sử để có niềm tin vững chắc, lãnh đạo toàn dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Niềm tin tất thắng vào chủ nghĩa xã hội của người cán bộ lãnh đạo, quản lý được biểu hiện ở sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tính khoa học và cách mạng của thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở để hình thành và luận chứng cho đường lối chính trị của Đảng. Từ đó người cán bộ lãnh đạo quản lý tiếp thu vạch ra đường lối chiến lược và sách lược nhằm đạt mục đích là cải tạo thực hiện. Nó đối lập hoàn toàn với bệnh bảo thủ, giáo điều, kinh viện…. Vì vậy, Mác viết: "Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách hiểu khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới" [29, tr. 258]. Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới gần 20 năm qua ở nước ta từng bước nâng cao đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, làm cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta càng rõ hơn. Một trong những nguyên nhân của thắng lợi đó là Đảng ta đã biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cách mạng Việt Nam mà linh hồn là phép biện chứng duy vật - một nhân tố cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng. Lênin đã viết: "Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong" [24, tr. 259]. Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý tin tưởng vào vai trò to lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Họ là lực lượng quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng xã hội. Với vũ khí lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, giai cấp công nhân - đại diện cho lực lượng tiến bộ tập hợp, giác ngộ, phát huy sức mạnh quần chúng để cải tạo thế giới, thúc đẩy xã hội phát triển. Với tính cách mạng và tính khoa học, thế giới quan duy vật biện chứng đã giúp người cán bộ, lãnh đạo, quản lý có niềm tin sâu sắc vào chủ nghĩa xã hội, tin vào sự lãnh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng