Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề bất bình đẳng giới ở việt nam trên báo điện tử...

Tài liệu Vấn đề bất bình đẳng giới ở việt nam trên báo điện tử

.DOCX
83
297
86

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Luận văn được hoàn thành tại Khoa Báo chí và Truyền thông –Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn –Đại học Quốc gia Hà Nội với sự giúp đỡ của Tiến sĩ Lê Cảnh Nhạcvà các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Báo chí và Truyền thông. Đây là sản phẩm nghiêncứu độc lập của riêng tôi. Các số liệu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực. Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kì một công trình khoa học nào khác. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.Hà Nội, tháng 6năm 2017 Tácgiả Luận vănPhạm Thị Diệu Hương LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình tới các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn –Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình chỉ bảovà giảng dạy cho tôi trong suốt 2 năm qua để tôi hoàn thành được Luận văn này.Và đặc biệt tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Lê Cảnh Nhạc, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số -Kế hoạch hoá gia đình, Tổng biên tập Báo Gia đình và xã hội, ngườiđã trực tiếp tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tàiLuận văn này.Cảm ơn gia đình, bạn bè thân thiết của tôi đã giúp đỡ, động viên khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập.Xin chân thành cảm ơn!Hà Nội, tháng 6năm 2017Tác giả Luận vănPhạm Thị Diệu Hương 1MỤC LỤCMỞ ĐẦU.............................................................................................1. Lý do chọn đề tài.................................................................................2. Tình hìnhnghiên cứuliên quan đếnđề tài.......................................3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu......................................................5. Phƣơng pháp nghiên cứu....................................................................6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài..............................................7. Bố cụccủa luận văn ............................................................................ Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ................. 1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài.................................................. 1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về vấn đề bình đẳng giới....... 1.3.Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay...... 1.4. Tiêu chí đánh giá, yếu tố tác động đến chất lƣợng thông tin, biểu hiện của bất bình đẳng giới trên báo chí, đặc biệt là báo điện tử 1.5. Vai trò của báo chí, đặc biệt là báo điện tử đối với việc truyền thông về bình đẳng giới.........................................................* Tiểu kết chƣơng 1............................................................ Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ....................................................... 2.1. Vài nét về các báo trong diện khảo sát........................................... 2.2. Khảo sát thông tin về bất bình đẳng giới trên báo điện tử.......... 2.2.1. Khảo sát tần suất, mức độ thông tin............................................. 2.2.2. Những vấn đề chínhvề bất bình đẳng giớitrên báo điện tử.... 2.2.3. Hình thức truyền tải thông tin chủ yếu trên báo điện tử........... 2.3. Đánh giá thành công, hạn chế của các báo điện tử trong diện 557121213141516161824303742434346464979 2khảo sát...........................................................................* Tiểu kết chƣơng 2............................................................ Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TUYÊN TRUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚITRÊN BÁO ĐIỆN TỬ..................................................... 3.1. Những vấn đề đặt ra......................................................................... 3.2. Một số giải pháp............................................................................... 3.3. Một số kiến nghị ...............................................................................* Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................... KẾT LUẬN .............................................................................................. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... PHỤLỤC .................................................................................................869091919 610611011111311 MỞ ĐẦU1. Lý do chọnđề tàiViêtNamlamôttrongnhưngquôcgiađâutiêntrênthêgiơikykêtcôngươcquôctêvêthưc hiênquyênphunư. Viêcđưanhưngtưtươngtiênbôvêbinhđănggiơiơmôtquôcgiavônchiuanhhươngnặng nề tư tư tưởng củaNhogiáocóthểđượccoilàmộtbướctiếnlớn, là động lực thúc đẩy việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, công cuộc thực hiện bình đẳng giới không hề dễ dàng. Việt Nam còn gặp nhiều thách thức trong việc thực hiện bình đẳng giới. Khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống như: tỷ lệ phụ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo các cấp còn ít; cơ hội của phụ nữ tiếp cậnvới việc làmcó thu nhập cao và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới; Việc tiếp cận dịch vụ chăm sócsức khỏesinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế; Tỷ suất tử vong mẹ còn cao so với một số nước trong khu vực; Tình trạng bạo lực trong gia đình và đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm trọng...Nguyên nhân là do một bộ phận xã hội hiểu không đúng về bất bình đẳng giới, nhận thức mang tính định kiến giới còn tồn tại nặng nề trong gia đình lẫn xã hội. Đặc biệt quan niệm coi trọng con trai hơn con gái vẫn rất nặng nề, mặc định công việc gia đình là trách nhiệm của riêng phụ nữ... dẫn đến tình trạng bất ổn cho xã hội gia tăng. Do đó, vấn đề bình đẳng giớiđã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đánh giá là một mục tiêu phát triển quốc gia.Để thực hiện được mục tiêu này, rất cần đến sự phối hợp của nhiều yếu tố.Trong đó, thông tin, giáo dục nâng cao nhận thứcvề bình đẳng giới là yếu tố quan trọng.Trong những năm qua, báo chí với chức năng, nhiệm vụ của mình cũng đã và đang góp phần to lớn vào việc thực hiện mục tiêubình đẳng giới. Báo chí theo dõi, phản ánh, tích cực tham gia vào mục tiêu này và đã chuyển đến công chúng nhiều thông tin có ý nghĩa quan trọng. Báo chí đã tích cực tuyên truyền về quan điểm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của các ban, ngành chức năng, cáctổ chức chính trị trong việc thực hiện bình đẳng giới... Đồng thời, báo chí là kênh thông tin, truyền tải đầy đủ những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện bình đẳng giới trong từng giai đoạn. Báo chí làm tốt vai trò của mình trong việc phát hiện, phản ánh những gương điển hình trong việc thực hiện bình đẳng giới. Đặc biệt, báo chí đã phát hiện, phản ánh, thông tin những vấn đề gây nên tình trạng bất bình đẳng giới, mặt trái của vấn đề bất bình đẳng giới như: đăng tải những bài viết liên quan đến bất bình đẳng giới trên các lĩnh vực, tư vấn về bình đẳng giới, đưa ra những giải pháp hạn chế tình trạng bất bình đẳng giới, phê phán, nêu lên những vụ bạo lực gia đình, bạo lực đối với giới, lạm dụng tình dục trẻ em gái... để giảm thiểu tình trạng của bất bình đẳng trong xã hội.Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn đó, báo chí còn cónhững lúc chưa quan tâm xứng đáng đến vấn đề bình đẳng giới. Một số tờ báo điện tử vì thiếu nhạy cảm giới nên trong các tác phẩm báo chí vô tình làm gia tăngbất bình giới. Sự thiếu nhạy cảm giới của báo điện tử thể hiện ở tư tưởng “Trọng nam khinh nữ”; những quan niệm truyền thống cổ hủ, những suy nghĩ mang tính áp đặt, mặc định về hình ảnh, nhiệm vụ, vai trò, khả năng của nam giới và nữ giớinhư: phụ nữ là phải đẹp, phải dịu dàng, có đức hy sinh, biết “giữ lửa” trong gia đình; Còn nam giới là những người giỏi giang, quyết đoán, thành đạt, làm chủ kinh tế trong gia đình... Không chỉ vậy, ngay trên một số tờ báo điện tử dành riêng cho phụ nữcũngcó một số tác phẩm báo chí thiếu sự nhạy cảm giới như: phân biệt giới tính, phụ nữ thường xuất hiện với những hình ảnh phản cảm... Chính những hiện tượngnày được lặp đi, lặp lại trên một số báo điện tử đã vô tình tạo thêm những định kiến về giới, làm hạn chế những nhận thức của công chúng về vấn đề bình đẳng như: bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia đình, bình đẳng giới giữa nam và nữ, đặc biệt là với trẻ em gái và phụ nữ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên bất bình đẳng giới, cản trở xã hội Việt Nam tiến tới bình đẳng giới thực sự.Với mong muốn đánh giá đúng về thực trạng bất bình đẳng giới trên báo điện tử nói riêng, báo chí nói chung; tìm ra những giải pháp tích cực góp phần vào việc nâng cao chất lượng các tác phẩm báo chí; đồng thời giúp các cơ quan báo chí thực hiện hiệu quả việc truyền thông các vấn đề liên quan đến giới và bình đẳng giới, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử”(khảo sát qua các báo điện tử: phunuonline.com.vn, vnexpress.net, phunuvietnam.vn.Từ tháng 1/2015 đến tháng 6/2016). 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nướcMột số Nghiên cứu ngoài nước về bất bình đẳng giới: „„Báo cáo về sự cách biệt giới‟‟, Diễn đàn Kinh tế thế giớinăm 2010. Nghiên cứu này đã so sánh những số liệu về cách biệt giới tại các nước trong suốt những năm qua. Nghiên cứu cho thấy, những tiến bộ rõ nét tại nhiều nước, nhưng đồng thời cũng cho thấy sự tụt dốc ở một số nước thể hiện sự bất bình đẳng giới. „„Sự chênh lệch về thu nhập giữa nam và nữ trong thị trường lao động thành thị‟‟, Oaxaca, Reynold L. Nghiên cứu này đưa ra phương pháp tiếp cận, đánh giá sự chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ đồng thời phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự chênh lệch này. Một số nghiên cứu ngoài nước trong việctruyền thông về bất bình đẳng giới: Nghiên cứu„„Truyền thông về bạo lực gia đình‟‟, Hiệp hội phòng chống bạo lực gia đình Bang Washington và Dự án rà soát các vụ bạo lực gia đình. Nghiên cứu này hướng dẫn các nhà báo và các chuyên gia trong lĩnh vực truyền thông thu thập thông tin chính xác về những vụ án bạo lực gia đình và những câu chuyện liên quan, đồng thời đề cập đến tổng quan về Bạo lực gia đình, tin tức báo chí về các vụ án BLGĐ, số liệu thống kê về bạo lực gia đình, những mẹo nhỏ để thu thập tin chính xác về tội phạm BLGĐ và những điều nên tránh khi thu thập tin về tội phạm BLGĐ. Cuốn „„Bộ chỉ số về giới trong truyền thông‟‟. Nghiên cứu của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO) xuất bản năm 2012. Nghiên cứu đã bao quát các lĩnh vực, cụ thể hóa bằng các tiêu chí nội dung bình đẳng giới tại cấp ra quyết định cũng như trong tác nghiệp và nội dung truyền thông từ việc sản xuất tin tức, thời sự, đến lĩnh vực quảng cáo tại các tổ chức, hiệp hội, câu lạc bộ báo chí truyền thông.Qua tìm hiểu các tài liệu trên, tôi nhận thấy những cuốn tài liệu nghiên cứu của nước ngoài đã góp phần giúp các phóng viên, các cơ quan báo chí có thêm những kinh nghiệm trong quy trình thu thập, xử lý thông tin, xây dựng và biên tập tác phẩm báo chíđể không vô tình tạo nên tình trạng bất bình đẳng giới trên báo chí 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nướcMột số nghiên cứu trong nước về bất bình đẳng giới: “Bất bình đẳng giới về thu nhập của người lao động ở Việt Nam và một số gợi ý giải pháp chính sách”của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương năm 2006. Công trình này tập trung nghiên cứu các vấn đề: Xu hướng của bất bình đẳng trong thu nhập hiện nay; Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ bất bình đẳng trong thu nhập; Và đồng thời phân tách các chỉ tiêu theo 9trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, vùng, ngành kinh tế để đưa ra được gợi ý giải pháp phù hợp.“Hướng tới Bình đẳng giới ở Việt Nam: Để tăng trưởng bao trùm có lợi cho phụ nữ”do Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới vàTrao quyền cho Phụ nữ (UN Women) và Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã Hội Việt Nam thực hiện, với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia và Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam, đã chỉ ra nguy cơ gia tăng bất bình đẳng giới nếu Việt Nam không tăng cường cung cấp các cơ hội công việc tốt hơn cho phụ nữ và hỗ trợ giảm thiểu vai trò của phụ nữ trong các công việc chăm sóc gia đình không được trả lương.“Thông tin 64Đặc san về bình đẳng giới”của TS. Nguyễn Thị Hồi đã nêu lên một số vấn đề về bình đẳng giới trên bình diện quốc tế, thực trạng về bất bình đẳng giới trong các lĩnh vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam.Một số nghiên cứu trong nước về truyền thông bất bình đẳng giới: Cuốn „„Truyền thông có nhạy cảm giới‟‟ của Trungtâm Nghiên cứu và ứng dụng Khoa học về giới –gia đình –phụ nữ và vị thành niên (CSAGA) được biên soạn dựa trên 21 bản tin nhặt sạn về giới của Trung tâm gồm: 9 chuyên đề đã đề cập đến một số khía cạnh cơ bản nhất về kiến thức và kỹ năng truyền thông có liên quan nhạy cảm giới, bất bình đẳng giới.Công trình nghiên cứu “Bình đẳng giới trong các quảng cáo tuyển dụng trên báo in” của Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (ISEE), công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những vấn đề phân biệt đối xử dựa trên giới của các quảng cáo tuyển dụng; các yếu tố ảnh hưởng đến thông điệp truyền thông trong quảng cáo tuyển dụng cũng như tác động lên bình đẳng giới của các thông điệp. Kết quả công trình nghiên cứu đã nêu lên được những khía cạnh về bình đẳng giới rất đáng quan tâm.Cuốn"Báođiệntử:Hiệuquảtruyềnthôngvềbạolựcgiađình"đượchìnhthànhtừbảnlu ậnánTiếnsĩXãhộihọccủaTS.PhạmHươngTràPhótrưởngKhoaXãhộihọc,HọcviệnBáochívàTuyêntruyềnvềđềtài“Hiệuquảcủacácbà iviếtvềbạolựcgiađìnhtrênbáođiệntửởViệtNamhiệnnay”.Cuốnsáchđềcậpđếnvấnđềbạ olựcgiađìnhđượcphảnánhnhưthếnàotrênbáođiệntử;nhậnthức,tháiđộ,hànhvicủacôngc húngvềbạolựcgiađìnhthôngquacácbàiviếttrênbáođiệntử.Qua khảo sát tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho thấy, cũng đã có một số công trình nghiên cứu và luận văn đề cập tới vấn đề bất bình đẳng giới và việc tuyên truyền bình đẳng giới trênbáo chí. Cụ thể như:Luận văn thạc sĩ „„Tuyên truyền về bình đẳng giới trong chuyên mục Phụ nữ với cuộc sống trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam‟‟ của Thạc sĩ Uý Thị Thu Huyền. Luận văn đã khảo sát chuyên mục Phụ nữ với cuộc sống trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam từ tháng 1/2004 đến tháng 4/2006. Luận văn đã nêu lên được nội dung các tác phẩm; những ưu, nhược điểm của chuyên mục trong việctuyên truyền về bình đẳng giới trong chuyên mục Phụ nữ với cuộc sống.Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một số giải phápđể tuyên truyền về bình đẳng giới. Tuy nhiên, luận văn này mới chỉ đề cập đến vấn đề tuyên truyền bình đẳng giới của báo truyền hình nói chung và Đài truyền hình Việt Nam nói riêng.Luận văn thạc sĩ „„Báo chí tuyên truyền về Bình đẳng giới ở nước ta hiệnnay‟‟ của thạc sĩ Nguyễn Thị Khánh Hà. Luận văn khảo sát các báo Phụ nữ Việt Nam, Gia đình xã hội, Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn khảo sát các báo từ tháng 1/2008 đến tháng 3/2009. Luận văn nêu lên được các khía cạnh, thực trạng nội dung của Bình đẳng giới mà báo chí tuyên truyền, những ưu điểm, nhược điểm của các báo khi tuyên truyền về Bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Đồng thời luận văn cũng đưa ra được giải pháp để các cơ quan báo chí, phóng viên tuyên truyền hiệu quả hơn vấn đề này. Tuy nhiên, luận văn này cũng mới chỉ đề cập đến vấn đề báo chí nói chung tuyên truyền về bình đẳng giới ở nước ta hiện nay, chứ chưa đề cập đến mặt trái của bình đẳng giới là vấn đề bất bình đẳng giới.Luận văn thạc sĩ „„Bạo hành đối với phụ nữ trên báo chí hiện nay‟‟ của thạc sĩ Nguyễn Thị Hoa khảo sát báo Phụ nữ Việt Nam, Gia đình xã hội, báo công an nhân dân, báo công an nhân dân điện tử, Vietnamnet trong thời gian từ tháng 1/2006 đến tháng 6/2007. Luận văn thạc sĩ „„Vấn đề bạo lực gia đình trên báo chí‟‟ của thạc sĩ Đặng Thị Mai Việt khảo sát chuyên mục „„Thức đêm cùng bạn‟‟ trên VOV và mục „„Gia đình‟‟ của báo Giadinh.net.vn năm 2011.Cả hai Luận văn này đãnêu lên những vấn đề báo chí viết về bạo hành đối với phụ nữ, bạo lực gia đình như: nội dung trong các tác phẩm báo chí; ưu, nhược điểm, nguyên nhân của vấn đề này. Luận văn cũng đã đưa ra những giải pháp, khuyến nghị về vấn đề bạo hành đối với phụ nữ, bạo lực gia đình trên báo chí. Tuy nhiên, bạo hành đối với phụ nữ và bạo lực gia đình cũng chỉ là một trongnhững vấn đề của bất bình đẳng giới trong xã hội. Vì vậy, trong luận văn này cũng chỉ đề cập đến một khía cạnh của vấn đề bất bình đẳng giới trên báo chí nói chung.Qua quá trình đọc và nghiên cứu các tài liệu, tôi nhận thấy vấn đề bình đẳng giới và bất bình đẳng giới đã được nghiên cứu một cách khá sâu rộng. Tuy nhiên thực tế này chỉ ra rằng, cho đến nay các công trình nghiên cứu vẫn chưa đánh giá được thực trạng, nhìn nhận hết các yếu tố ảnh hưởng, tác động và vai trò của báo chí, nhất là báo điện tử đếnvấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, đề tài “Vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử”không trùng với các đề tài nghiên cứu trước đó. Đề tài này rất cần thiết trong việc nghiên cứu về mặt lý luận và tổng kết thực tiễn, phục vụ cho công tác truyền thông nhằm giảm bớt tình trạng định kiến giới, bất bình đẳng giới trong xã hội 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứuMục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đếnđề tài, Luận văn khảo sát các tin bài trên báo điện tử trong diện khảo sát.Qua đó, đánh giá về thành công, hạn chế của các báo điện tử trong việc tuyên truyền về bình đẳng giới thông qua việc đề cập đến các nội dung liên quan đến bất bình đẳng giới. Trêncơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin, hiệu quả truyền thông về bình đẳng giới trong thời gian tới. 3.2.Nhiệm vụnghiên cứuĐể đạt được mục đích nêu trên, tác giả thực hiện một số nhiệm vụ sau:-Nghiên cứu lý luận báo chí truyền thông, các văn bản, tài liệu liên quan đến vấn đề bất bình đẳng giới, từ đó hệ thống hóa những vấn đề lý luận cần thiết, làm cơ sở cho công tác khảo sát, đánh giá thực tiễn.-Khảo sát, đánh giáthực trạngbáo điện tử thông tin về vấn đề bất bình đẳng giới; Chỉ ra những ưu, nhược điểm trong các tác phẩm liên quan đến vấn đềbất bình đẳng giới trên báo điện tử: phunuonline.com.vn; vnexpress.net; phunuvietnam.vn.-Đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm thay đổi và nâng cao hơn nữa chất lượngthông tin truyền thông về vấn đề bất bình đẳnggiới ở Việt Nam trên báo điện tử. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu -Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử. -Phạm vi nghiên cứu:Đề tài được triển khai nghiên cứu trên cơ sở khảo sátba báo điện tử: phunuonline.com.vn; vnexpress.net; phunuvietnam.vntrong khoảng thời gian từ 1/2015–6/2016. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lýluậnĐể thực hiện đề tài này, tác giảvận dụng lý luận chủ nghĩa MácLê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cácquanđiêm, đươnglôilanhđaocuaĐang, Nhànươcvêbaochicáchmạng, vấn đề bình đẳng giới để xây dựng các luận cứ lý thuyết. Bằngphương pháp quan sát thực tiễn, tác giả tìm các luận cứ thựctiễn để chứng minh, luận giải và qua đó đề xuất giải pháp đổi mới “Vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử”.-Từ những tài liệu thứ cấp, bài báo đăng trên báo điện tử ở Việt Nam từ tháng 01/2015đến tháng 6/2016, cũng như kết hợp với các phương pháp nghiên cứu như: điều tra, so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp... để luận giải, chứng minh vấn đề nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứuTác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:-Nghiên cứu phân tíchtài liệu: nghiên cứu các sách, giáo trình lý luận báo chí,các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết,các tài liệu khác của Đảng, Nhà nước và của ngành có liên quan đến công tác bình đẳng giới để hệ thống hóa những vấn đề lý luận nhằm xây dựng khung lý thuyết của đề tài.-Phương phápthống kê: thống kê tần suất xuất hiện các tin, bài có nội dung về BBĐGở Việt Nam trên các báo điện tử phunuonline.com.vn; vnexpress.net; phunuvietnam.vn trong thời gian 1,5 năm, để từ đó chỉ ra những thành công, hạn chế trong việc báo điện tử thông tin về BBĐG. -Phương pháp phân tíchnội dung: tác giả dùng phương pháp này để nghiên cứu và phân tích nội dung các tin, bài đăng trên một số báo điện tửđể nhận diện thực trạng về vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử. Từ đó, đánh giá được những thành công, hạn chế của các báo điện tử trong công việc này. -Phương pháp phỏng vấn sâu: Thực hiện phỏng vấn sâuTrưởng ban Hôn nhân Gia đình, Báo phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh;phóng viên phụ trách viết tin, bài về các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới trênbáo điện tử Vnexpress.net, chuyên gia nghiên cứuvềtruyền thông Bình đẳng giới -Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng Khoa học về giới –gia đình –phụ nữ và vị thành niên (CSAGA). Qua đó, nhằm lấy ý kiến đánh giá của họ trong việc báo điện tử thông tin về bình đẳng giớigiới như thế nào; Có vướng mắc, khó khăn gì trong quá trình xử lý thông tin.6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tàiÝ nghĩa lý luận: Luận văn là tài liệu tham khảo về mặt lý luận báo chí truyền thông và là tài liệu nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến bất bình đẳng giới; đồng thời là cơ sở để chỉ đạo, điều hành trong truyên truyền về bình đẳng giới. Ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả của luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích giúp cho các phóng viên, các cơ quan báo chíhiểu rõ hơn về vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo chí. Từ đó, các cơ quan báo chí sẽ có định hướng mới trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin, truyền thông các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới, các phóng viên sẽ có cách tiếp cận vấn đề liên quan đến bình đẳng giới ngàycàng tốt hơn. Quá trình thực hiện đề tài cũng là dịp để tác giả bổ sung các kiến thức và hiểu biết sâu hơn. Kết quả đề tài này giúp tác giả trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền và viết tin, bài tuyên truyền cho cán bộ, hội viên phụ nữ và nhân dân trong huyện khi công tác tại Trung tâm Văn hoá -Thông tin và Thể thao huyện Thường Tín đúng, trúng, sâu sát và hiệu quả hơn. Đồng thời, cũng giúp cho Hội phụ nữ, Trung tâm Văn hoá -Thông tin và Thể thao nơi tôicông tác có cách nhìn nhận chính xác hơn nữa về vấn đề bình đẳng giới để đổi mới trong công tác tuyên truyền. 7. Bố cục luận vănNgoài các phần Mở đầu, Kết luận,Tài liệu tham khảo và phụ lục, các nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3chương. Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử. Chương 2: Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử. Chương 3: Mội số vấn đề đặt ra và giải pháp, khuyến nghị nâng cao chất lượng tuyên truyền bình đẳng giới trên báo điện tử. NỘI DUNG Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ 1.1. Cáckhái niệmliên quan đến đề tài 1.1.1. Giới và bình đẳng giới-Giới và giới tính+GiớiTrong phần Giải thích từ ngữ tại Điều 5, Chương I, Luật Bình đẳng giới được Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khoá XI, thông qua ngày29 tháng 11năm 2006và có hiệu lực thi hành từ ngày01 tháng 7năm2007.Kháiniệm “giới là chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”[24, Tr.4].+ Giới tínhLuật Bình đẳng giới đã khái niệm “Giới tínhchỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ”[24, Tr.4]. -Bình đẳng giới và bất bình đẳng giới+ Bình đẳng giớiTrong Luật Bình đẳng giới, phần Giải thích từ ngữ tại Điều 5, Chương I đã đưa ra khái niệm“Bình đẳng giớilà việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”[24, Tr.4]. + Bất bình đẳng giớiTheo tài liệu về giới và quyền của phụ nữ trong pháp luật Việt Nam của Trung ương Hội LHPN Việt Nam thì “Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người, đóng góp và hưởng lợi từ sự phát triển của gia đình, của đất nước”[21, Tr.23]Hay nói cách khác, bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt với nam giới và phụ nữ, tạo nên các cơ hội khác nhau, sự tiếp cận các nguồn lực khác nhau, sự thụ hưởng khác nhau giữa nam và nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.-Định kiến giớiTrong phần Giải thích từ ngữ tại Điều 5, Chương I, Luật Bình đẳng giới khái niệm:“Định kiến giớilà nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ”[24, Tr.4]. Đây làkhái niệm chung nhất được sử dụng trong luận văn này. -Phân biệt đối xử về giớiKhái niệm chung nhất được sử dụng trong luận văn nàylà theo tài liệu sổ tay tuyên truyền về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình của Trung ương Hội LHPN Việt Nam: “Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”[27, Tr.21]. 1.1.2. Báo điện tửTừ khi ra đời đến nay, loại hình báo chí này có rất nhiều cách gọi khác nhau như: Báo điện tử, báo mạng điện tử, báo trực tuyến, báo chí internet. Luận văn này dùng tên gọi Báo điện tử để chỉ chung cho loại hình báo chí này.“Báo điện tử là một loại hình thông tin đại chúng dựa trên việc khai thác thế mạnh của internet nhằm đem đến cho công chúng những thông tin mới nhất về mọi mặt của đời sống một cách nhanh nhất và toàn diện nhất”[15, Tr 234]So với báo in, phát thanh và truyền hình, báo điện tử làmột kênh truyền thông vô cùng hiệu quả. Bản thân nó mang trong mình sức mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống, nhưng do kết hợp với mạng internet mà nó có nhiều đặc điểm ưu việt riêng. Nhờ những thế mạnh của mình mà Báo điện tử đã nhanh chóng làm thay đổi cách truyền tin và tiếp nhận thông tin để trở thành một loại hình truyền thông được nhiều người lựa chọn. 1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về vấn đề bình đẳng giớiTrongsuốtnhữngnămqua, Đảng và Nhà nước ta luôn rất quan tâm tới vấn đề bình đẳng giới. Đểxóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, thúc đẩy được bình đẳng nam nữ, thực thi quyền phụ nữ trên phạm vi rộng lớn thì Việt NamlàmộttrongnhữngquốcgiađầutiêntrênthếgiớikýthamgiaCôngướcvề xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) vàotháng7/1980vàđượcNhà nước phêchuẩnCông ướcvàotháng11/1981.Đảng,nhà nước tađã ra rất nhiều các văn bản chỉ đạo và đã chỉ đạo tổ chức nhiều hoạt động để thực hiện trách nhiệm của một quốc gia là thành viên CEDAW, đặc biệt là việc thiết lập sự bảo vệ bằng pháp luật các quyền của phụ nữ trên cơ sở không phân biệt đối xử và bình đẳng nam nữ.Trước hết,Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giớiđược thể hiện ngay trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 02/9/1945, Bác Hồ đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó đến nay, Nhà nước ta đã ban hành 05 bản Hiến pháp: năm 1945, 1959, 1980, 1992 -sửa đổi bổ sung năm 2001 và gần đây nhất là bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013. Các bản Hiến pháp trong đó điều quy định chế độ chính trị, quyền con người, quyền vànghĩa vụ cơ bản của công dân... Ngoài ra, còn quán triệt và cụ thể hóa quan điểm “Nam, nữ bình quyền” bằng những quy định cụ thể. Sau các Hiến pháp năm 1945, 1959, trong Hiến pháp năm 1980 từ Điều 53 đến Điều 81 quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có một số điều tạo ra những điểm nhấn quan trọng, khẳng định quyền bình đẳng giới của nam và nữ. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, từ Điều 49 đến Điều 82 quy định rõ quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có một số khẳngđịnh các quyền bình đẳng nam, nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến nay Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định sâu sắc hơn quyền bình đẳng của nam và nữ trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp năm 1992. Từ Điều 14 đến Điều 49, Chương II, Hiến pháp năm 2013 đã quy định các quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng, trong đó có quyền của phụ nữ được quy định tại Điều 26. Có thể khẳng định rằng, qua các bản Hiến pháp, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện rõ quan điểm về bình đẳng giới. Có những quyền được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trong đời sống gia.Năm 2000, tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên hiệp quốc, Việt Nam là một trong số gần 200 quốc gia cam kết thực hiện 8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, trong đó mục tiêu thứ 3 có nội dung “Thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao quyền năng của phụnữ” [23, Tr.3]Để khẳng định Việt Nam sẽ quyết tâm thực hiện tốt bình đẳng giới, Đảng và nhà nước ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng nam nữ; xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ; thực hiện các cam kết, điều ước quốc tế về quyền con người và bình đẳng giới, nhằm phát huy mọi tiềm năng nguồn nhân lực nam, nữ. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Luật Bình đẳng giới. Luật bình đẳng giới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 202006. Ngày 12 tháng 12 năm 2006, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số 18/2006/L-CTN. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.Luật này gồm 6 chương, 44 điều. [24,Tr.4] Luật Bình đẳng giới ra đời là một trong những biện pháp khắc phục tình trạng phân biệt đối xử về giới và những khoảng cách giới trong thực tế. Luật bình đẳng giới đã thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nam và nữ. Luật này quy định nguyên tắc bình đẳnggiới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới.Để nâng cao nhận thức của nhân dân về Luật bình đẳng giới và để triển khai thi hành Luật, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 03/05/2007 về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới. Trong Chỉ thị, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung làm tốt công tác tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật Bình đẳng giới và rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 04/06/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới, Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/05/2009 quy định về các biện pháp bảo đảm Bình đẳng giới, Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/06/2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới.Bên cạnh đó, Luật phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII, Kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2008 đã thật sự là đạo luật quan trọng choviệc thúc đẩy công tác bình đẳng giới ở nước ta. Hiện nay, Việt Nam là quốc gia nằm trong số ít quốc gia đã ban hành đồng thời được cả hai đạo luật này. Ngoài ra, Bộ Luật Lao động cũng là một trong những đạo luật đã có chương riêng quy định đối với lao động nữ nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của lao động nữ.Tiếp tục thúc đẩy và hướng tới mục tiêu chung bình đẳng giới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ đến năm 2010. Chiến lược được Thủ tướng Chính phủ phê duyệttrong Quyết định số 19/2002/QĐ -TTg ngày 21/01/2002. Chiến lược có mục tiêu: Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ. Tạo mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Chiến lược này đòi hỏi các ngành, các cấp, các tổ chức phải nâng cao chất lượng, đẩy mạnh hoạt động, đẩy mạnh công tác tuyên tuyền, vận động cán bộ, công chức, viên chức, hội viên đoàn thể và nhân dân cùng thựchiện vì mục tiêu bình đẳng giới.Ngày 24/12/2010, tại Quyết định số 2351/QĐ-TTgChính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 –2020. Chiến lược đã thể hiện được quan điểm và mục tiêu của Chính phủ về bình đẳng giới. Quan điểm của chiến lược: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là cơ sở nền tảng của chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước. Công tác bình đẳng giới là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Mục tiêu của Chiến lược: Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.Ngày 22/7/2011, Chính phủ đã ra Quyết định số 1241/QĐ-TTgvề việc phê duyệt Chương trình quốc gia về bình đẳng giớigiai đoạn 2011 –2015. Mục tiêu của Chương trình là tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức nhằm thúc đẩy toàn xã hội thay đổi hành vi,thực hiện bình đẳng giới; từng bước thu hẹp khoảng cách giới và nâng vị thế của phụ nữ trong một số lĩnh vực còn bất bình đẳng hoặc nguy cơ bất bình đẳng giới cao, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 -2020.Gần đây nhất, ngày 31/03/2016, tại quyết định số 515/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2020. Đề án có mục tiêu nhằm giảm sự chênh lệch về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực giữa nữ cán bộ, công chức, viên chức so với nam cán bộ, công chức, viên chức trong quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng tại cơ quan, tổ chức của nhà nước; đồng thời góp phần xây dựng và phát triển vững chắc đội ngũ nữ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, Đảng và nhà nước ta cụ thể hoá và đề ra nhiều chủ trương, chính sách, chương trình tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào công tác xã hội để góp phần thực hiện mục tiêu chung về bình đẳng giới như: Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 7/3/2003 của Chính phủ về Quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho Hội phụ nữ tham gia quản lý nhà nước về các vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em; Nghị quyết 11/NQ –BCT ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Đặc biệt, để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã thành lập Uỷ ban quốc gia về Thập kỷ của phụ nữ Việt Nam. Uỷ ban quốc gia về Thập kỷ của phụ nữ Việt Namđược thành lập ngày 12/02/1985, theoQuyết định số 41 của Hội đồng Bộ trưởng với nhiệm vụ tuyên truyền ý nghĩa thập kỷ phụ nữ, tổng kết và giới thiệu thành tích các phong trào hoạt động giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ; Tổ chức phối hợp, hướng dẫn và đôn đốc kiểm tra các ngành, các cấp chấp hành các chính sách, chế độ của Đảng, Nhà nước đối với phụ nữ.Để tiếp tục thực hiện bình đẳng giới thông qua việc không ngừng phát triển bộ máy vì sự tiến bộ phụ nữ, ngày 25/02/1993, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 72/TTg, chính thức thành lập Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.Ngày 22/8/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 114/2008/QĐ-TTg về kiện toàn Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Namlà tổ chức phối hợp liên ngành, có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, phối hợp giải quyết những vấn đề liên ngành liên quan đến sự tiến bộ của phụ nữ trong phạm vi cả nước. Đồngthờiđểkhắcphụcnhữngyếukémvềtưtưởngtrọngnamhơnnữvẫncòntrongsuynghĩ vàhànhđộngcủakhôngítngười;tìnhtrạngnhiềuphụnữnghèophảilàmviệcquásứcmàthu nhậpthấp;tìnhtrạngphụnữvàtrẻembịlừabánranướcngoàivàtrởthànhnạnnhâncủabạolự c;đểtăngcườngvàtạođiềukiệnchohoạtđộngvìsựtiếnbộcủaphụnữcủamộtsốBộ,ngànhv àđịaphương,ThủtướngChínhphủđãbanhànhChỉthịsố27/2004/CT-TTg ngày15tháng07năm2004vềtăngcườnghoạtđộngvìsựtiếnbộcủaphụnữởcácBộ,cơquan ngangBộ,cơquanthuộcChínhphủvàủybannhândâncáctỉnh,thànhphốtrựcthuộcTrungư ơng.Sau Chỉ thị này, các cơ quan từ trung ương đến địa phương đều ra quyết định thành lập Ban vì sự tiến bộ phụ nữ để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền và người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Từ đó, tăng cường hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước các cấp đối với công tác phụ nữ vàbìnhđẳnggiới. 24Dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, các ban, ngành, đoàn thể liên quan như: Hội Phụ nữ, Ban Vì sự tiến bộ Phụ nữ, Tổng cục Dân số -Kế hoạch hoá gia đình ... cũng đều thể hiện sự tích cực trong công tác tuyên truyền việc thực hiện bình đẳng giới, giảm thiểu bất bình đẳng giới trong xã hội. Những quan điểm của các ban, ngành, đoàn thể liên quan cũng được thể hiện rõ ràng thông qua hệ thống văn bản cũng như kế hoạch hành động cụ thể. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về vấn đề bình đẳng giới như hiện nay, Việt Nam sẽ là nước sớm xóa bỏ được khoảng cách giới,bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực của đời sống xã hội. 1.3. Thực trạng vấn đề bất đẳng giới ở Việt Nam hiện nayTrong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách luật pháp, cũng như chỉ đạo tổ chức các hoạt động đến thực tiễn để thay đổi về nhận thức và hành động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Chính vì vậy, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy bình đẳng giới. Về chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí quản lý, lãnh đạo tăng lên. Cán bộ nữ tham gia cấp uỷ Đảng, cơ quan dân cử, cơ quan hành chính Nhà nước ở tất cả các cấp đều tăng về số lượng và chất lượng so với nhiệm kỳ trước, đóng góp quan trọng vào việc hoạch định chính sách, lãnh đạo, quản lý đất nước, ngành, địa phương [28,Tr.4]. Đại biểu Quốc hội khoá XIV, đạt 26,72% (tăng 2,3% so với khóa XIII); đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016 -2021 cấp tỉnh, đạt 26,56% (tăng 1,19%); cấp huyện, đạt 27,5% (tăng 2,89%); cấp xã, đạt 26,59% (tăng 5,86%). Tỷ lệ nữ trong BCH TW Đảng, đạt 10% (tăng 1% so với nhiệm kỳ XI). Tỷ lệ nữ cấp uỷ viên các cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước, cụ thể: cấp tỉnh, đạt 13.3%, tăng 1,9%; cấp huyện, đạt 14,3%, tăng 0,3%; cấp xã, đạt 19,69%, 25tăng 1,59%. Đặc biệt, lần đầu tiên Việt Nam có 3 Uỷ viên Bộ Chính trị và Chủ tịch Quốc hội là nữ.Trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm, tỷ lệ lao động nam và nữ hiện không chênh lệch nhiều. Tỷ lệ nữ lao động hiện nay là 43,6%. Chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, trong đó, những hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ cũng được hỗ trợ vay vốn qua nhiều kênh (từ Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,..). Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo hiện nay, tỷ lệ biết chữ của phụ nữ ở cả khu vực nông thôn và thành thị trong độ tuổi không khác biệt nhiều so với nam giới. Vấn đề tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng đảm bảo bình đẳng. Mức độ tiếp cận dịch vụ y tế của phụ nữ, đặc biệt phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa được cải thiện đáng kể.Trong đời sống gia đình, việc chia sẻ công việc giữa vợ và chồng thể hiện khá rõ nét, giảm dần gánh nặng của các công việc cho người phụ nữ. Các hành vi bạo lực gia đìnhbị cộng đồng, xã hội lên án và đấu tranh tích cực hơn. Các biện pháp phòng, chống bạo lực được triển khai một cách tích cực. Việc tổ chức tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân là phụ nữ và trẻ em gái bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng được quan tâm. Trong lĩnh vực văn hoá, thể thao và du lịch, các phong trào văn hoá -thể thao quần chúng, lễ hội truyền thống ở cơ sở thu hút sự tham gia của đông đảo của cả nam và nữ. Cả nam và nữ vận động viên luôn kiên trì, bền bỉ, rèn luyện không ngừng, chinh phục các đỉnh cao trong các giải thi đấu quốc gia, khu vực và quốc tế. Cả hai giới tham gia ngày càng nhiều vào lĩnh vực du lịch, đặc biệt là du lịch cộng đồng. Có thể nói, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, bảo vệ sức khỏe, đời sống gia đình,... ngày càng đạt được nhiều thành tựu hơn. 26Bên cạnh những thành tựu về bình đẳng giới, Việt Nam còn gặp nhiều thách thức về vấn đề bất bình đẳng giới. Đặc biệt là việc đảm bảo bình đẳng giới cho phụ nữ. Trong Kết luận số 55-KL/TW của Ban Bí thư ngày 18/1/2013 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”nêu rõ: công tác phụ nữ vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém; đời sống vật chất, tinh thần, điều kiện lao động, học tập, sinh hoạt của nhiều phụ nữ chưa thực sự được nâng cao [8,Tr.47].Bất bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị:Vấn đề này thể hiện ngay ở vai trò và vị trí của người phụ nữ trong chính trị vẫn còn khá mờ nhạt. Tỷ lệ phụ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo và ra quyết định ở các cấp, đặc biệt cấp cơ sở còn hạn chế. Tỷ lệ này dù đã tăng lên nhưng còn rất thấp. Người phụ nữ khi tham gia vào lĩnh vựcchính trị luôn phải nỗ lực, vượt qua nhiều áp lực, thách thức hơn so với nam giới. Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ, nguồn cán bộ nữ còn ít, một số lĩnh vực tỷ lệ cán bộ nữ sụt giảm.Trong cuộc bầu cử đại biểu quốc hội khoá XIV, nhiệm kỳ 2016 –2021, cả nước có 496 người trúng cử đại biểu Quốc hội khoá XIV, số nữ trúng cử đại biểu Quốc hội là 133 người, đạt tỷ lệ 26,80%. Các nữ đại biểu trong Quốc hội chủ yếu tập trung vào một số lĩnhvực như: các vấn đề xã hội (42%), văn hóa, giáo dục, thiếu niên nhi đồng (35%) và khá mờ nhạt ở những lĩnh vực khác như ngoại giao (16%), kinh tế (15%), tư pháp (10%), quốc phòng, an ninh (5%).Trong Đại Đảng toàn quốc lần thứ XII, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII gồm 200 đồng chí, trong đó 180 Ủy viên chính thức và 20 Ủy viên dự khuyết. Có 20/200 Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII là nữ, chiếm tỉ lệ 10% (tăng 1% so với số nữ Ủy viên Trung ương được bầu tại Đại hội XI của Đảng là 18/200). Hội nghị lần thứ nhất BCH Trung ương Đảng, khóa XII, 27đã bầu 190 đồng chí, trong số 180 ủy viên chính thức vào Bộ Chính trị, trong đó có 3 nữ Ủy viên Bộ Chính trị [36].Có thể nói, bất bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị là do xã hội vẫn còn rất định kiến về người phụnữ. Bên cạnh đó, với vai trò là người vợ, người mẹ, người phụ nữ phải lo toan cho gia đình. Điều đó đã hạn chế rất nhiều việc phát huy khả năng của người phụ nữ. Bất bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động: Điềunày có thể thấy ngay trong việc cơhội của phụ nữ tiếp cậnviệc làmcó thu nhập cao vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Nữ giới chủ yếu tiếp cận với các công việc của những ngành thu nhập thấp và phi chính thức như: nông nghiệp, buôn bán nhỏ lẻ, dệt may... 62,4% lao động nữ làm việc trong gia đình không hưởng lương; 41,1% lao động nữ làm những công việc giản đơn; 46,3% lao động nữ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp,tỷ lệ phụ nữ trong các ngành xuất khẩu như dệt may, da giầy là 70% [36]. Cònnam giới thì được tiếp cận với các công việc được đánh giá cao như: kỹ thuật, dịch vụ, công nghệ.....Tỷ lệ phụ nữ được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật, đạt 11,8% [36]. Doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ và quản lý phần lớn ở quy mô nhỏ và cực nhỏ. Lao động nữ chưa được đánh giá cao như lao động nam,do nhiều công việc cần phải đi công tác nên thường vị trí đó được ưu tiên cho nam giới hơn nữ giới. Bấtbìnhđẳnggiớiđượcthểhiệnrấtrõởsựkhácbiệtmứcthunhậpgiữanamvànữ,trongkhith ờigianlaođộngcủacảhaigiớilàxấpxỉnhưnhau.Thu nhập bình quân của phụ nữ bằng 89,95% so với thu nhập bình quân của nam giới. Lương bình quân hàng tháng của lao động nữ khoảng 4,58 triệu đồng, thấp hơn so với lao động nam là 5,19 triệu đồng [36]; Khi doanh nghiệp cắt giảm nhân lực, phụ nữ luôn là đối tượng dễ bị rủi ro hơn nam giới. Ngoài ra, khi tuyển dụng lao động, các doanh nghiệp thường hạn chế tuyển dụng lao động nữ.Chính 28những điều đó đã khiến cho số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ thường cao hơn và có xu hướng tăng lên. Đặc biệt, địa vị kinh tế của phụ nữ thường thấp hơn nam giới. Bất bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế: Phụnữ thường là đối tượng tham gia các hoạt độnggiáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế. Còn nam giới thì tham gia các hoạt động này rất ít. Cùng với đó, phụ nữ thường không có quyền trong việc lựa chọn, quyết định sử dụng biện pháp tránh thai; biện pháp an toàn tình dục; phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.Chínhsựbấtbìnhđẳngnàyđãhạnchếphụnữvàcáctrẻemgáithựchiệnquyềncủamìnht rongnhiềunộidungcủasứckhỏesinhsảnnhư:làmmẹantoàn,mangthaingoàiýmuốn,tình dụckhôngantoàn,lựachọngiớitínhkhisinh...Tỷ suất tử vong mẹ cao là 58,3%; tỷ lệ phá thai trên tổng số trẻ đẻ sống là 18,1% [36]. Bên cạnh đó, sự chênh lệch về mặt chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận dịch vụ chăm sócsức khỏesinh sản của phụ nữ cũng có sự chênh lệch khi phụnữvùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế hơn các vùng đô thị. Mặt khác, thựctrạngmấtcânbằnggiớitínhnghiêmtrọng(sốbétraisinhranhiềuhơnbégái,112,8 trẻ trai/100 trẻ gái)đangtạoranhữnghệlụykhônlường,tácđộngđếnmọimặtcủađờisốngxãhội.Bấtbìnhđ ẳnggiớitronglĩnhvựcgiáodục,đàotạo:Thườngtrongviệclựachọnngànhnghề,họctập,nữ giớivẫnbịhạnchếhơnnamgiới,doxãhộiquanniệmrằng,nhữngcôngviệcnhư:cơkhí,chết ạo,kỹsưchỉdànhchonamgiới,cònnữgiớichỉphùhợpvớicáccôngviệcnhẹnhàng;trẻemởv ùngsâu,vùngxa,miềnnúi,dântộcthiểusốthườngbịảnhhưởngbởinhữngphongtụctậpquá ncổhủ,lạchậunhư:nạntảohôn,phảigiúpcôngviệcgiađình,nêntỷlệtrẻemgáibỏhọc,thấth ọcthườngcaohơnnamgiới.Đặcbiệt,tìnhtrạngbấtbìnhđẳnggiớitronggiađìnhdiễnrarấtn hiều.Tình trạng bạo lực gia đình, nhất là đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm trọng. 2921,2% số cặp vợ chồng cho rằng họ đã trải qua hình thức bạo lực gia đình, từ đánh, mắng, nhục mạ đến buộc phải chấp nhận quan hệ tình dục khi không có nhu cầu. Cứ 5 cặp vợ chồng thì có 1 cặp từng trải qua các hình thức bạo lực gia đình nghiêm trọng nhất. Phụ nữ thường là đối tượng của bạo lực. Bởi, chỉ có 0,6% phụ nữ đánh chồng, so với 3,4% số nam giới đánh vợ. [27, Tr.7]Hơnnữa,bấtbìnhđẳnggiớitronggiađìnhthểhiệnkhárõtrongtưtưởng“trọngnamkhi nhnữ”.Nếpgiatrưởngvẫncònnhiềutrongcácquanhệgiađình,đặcbiệtlàởnôngthôn.Đasố phụnữgiữvaitròthứyếusovớinamgiớitronggiađình.Ngườiphụnữphảigiữđúngvaitròng ườivợ,ngườimẹ.Bêncạnhđó,việcmangthaivàsinhđẻlàthiênchứccủangườiphụnữ,nhưn gđểthựchiệnđượcthiênchứcđó,nhiềukhingườiphụnữlạikhôngthểtựmìnhquyếtđịnhđư ợc.Trongnhiềugiađình,mangthaivàsinhđẻlạilàdongườichồnghoặcgiađìnhchồngquyế tđịnh.Tronggiađình,ngườiphụnữphảidànhthờigiannhiềugấpđôinamgiớichocôngviệc nhà.Chínhđiềunàyđãgâyracáctácđộngtiêucựcchophụnữnhư:vấnđềsứckhỏe,nghỉngơi ,giảitrí,thamgiacáchoạtđộngxãhội,cáccơhộithamgiađảmnhậncácvịtríquảnlývàlãnhđ ạo...Ngoàira,thựctếchothấy,sựphânbiệtgiớitínhcòndiễnrathườngxuyêntrongxãhội.Đ âycũnglànhữngnguyênnhânchủyếudẫntớitìnhtrạnglạmdụngtìnhdụcởtrẻemgáivàphầ nlớnphụnữvàcácemtrai,emgáilànạnnhâncủabọnbuônngườicũngtừnglànạnnhâncủasự phânbiệtgiớitính.Bấtbình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá: trongthực tế hiện nay,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan