Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò, trách nhiệm của chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp l...

Tài liệu Vai trò, trách nhiệm của chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

.PDF
240
80
109

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HOÀI NAM VAI TRß, TR¸CH NHIÖM CñA CHÝNH PHñ §èI VíI HO¹T §éNG X¢Y DùNG Dù ¸N LUËT, PH¸P LÖNH TRONG §IÒU KIÖN X¢Y DùNG NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN X· HéI CHñ NGHÜA VIÖT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HOÀI NAM VAI TRß, TR¸CH NHIÖM CñA CHÝNH PHñ §èI VíI HO¹T §éNG X¢Y DùNG Dù ¸N LUËT, PH¸P LÖNH TRONG §IÒU KIÖN X¢Y DùNG NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN X· HéI CHñ NGHÜA VIÖT NAM Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật Mã số: 62 38 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. PHẠM TUẤN KHẢI HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong Luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN TRẦN HOÀI NAM MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI .............................................................................................9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................................9 1.2. Cơ sở lý thuyết của Đề tài...............................................................................24 Kết luận Chương 1 .................................................................................................25 Chƣơng 2: CƠ SỞ L LUẬN VỀ VAI TRÕ TR C P Ủ Đ I VỚI HOẠT ĐỘN TRON C ỦN ĐIỀU I N DỰN DỰN DỰ N I M CỦA C N LUẬT P N À NƢỚC P N PL N P QU ỀN ỘI ĨA VI T NAM .......................................................................................26 2.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và yêu cầu đối với hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật.............................................................26 2.2. Vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh ........................................................................................................39 2.3. Vai trò, trách nhiệm của Chính phủ một số nước trong hoạt động xây dựng pháp luật ........................................................................................................58 Kết luận Chương 2 .................................................................................................71 Chƣơng 3: THỰC TRẠN Đ I VỚI HOẠT ĐỘN VI T NAM TRON Xà HỘI CHỦ N VAI TRÕ TR C DỰN DỰ ĐIỀU KI N XÂY DỰN N I M CỦA C N LUẬT P N P Ủ P L N TẠI N À NƢỚC PHÁP QUYỀN ĨA ............................................................................................................ 72 3.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh tại Việt Nam ........72 3.2. Vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh theo quy định pháp luật .................................................................85 3.3. Thực trạng vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh thời gian qua ..............................................................98 3.4. Vấn đề chất lượng các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ soạn thảo, trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội .......................................................116 3.5. Nguyên nhân của các hạn chế về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh ....................................................119 Kết luận Chương 3 .............................................................................................. 122 Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, NÂNG CAO VAI TRÕ TR C N I M CỦA CHÍNH PHỦ Đ I VỚI HOẠT ĐỘN DỰN DỰ N LUẬT P P L N TRONG ĐIỀU KI N XÂY DỰN N À NƢỚC PHÁP QUYỀN Xà HỘI CHỦ N ĨA VI T NAM .................................................................................. 123 4.1. Quan điểm đối với việc nâng cao vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh .................................................123 4.2. Các giải pháp nâng cao vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh tại Việt Nam thời gian tới ........................129 Kết luận Chương 4 ...............................................................................................150 KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................................. 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH Đ CÔN B CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN..........................................................................................153 DANH MỤC TÀI LI U THAM KHẢO..............................................................154 PHỤ LỤC ................................................................................................................................ 1PL DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ý hiệu các chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BCHTƯ Ban chấp hành Trung ương BST Ban soạn thảo CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ĐBQH Đại biểu Quốc hội ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam LHPNVN Liên hiệp phụ nữ Việt Nam MTTQVN Mặt trận Tổ quốc Việt Nam NCS Nghiên cứu sinh NNPQ Nhà nước pháp quyền NNPQXHCN Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TNCSHCM Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh UBTVQH Uỷ ban thường vụ Quốc hội UBND Ủy ban nhân dân VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao VPCP Văn phòng Chính phủ XHCN Xã hội chủ nghĩa XDPL Xây dựng pháp luật MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài nghiên cứu Xa xưa con người đã biết trọng pháp luật, coi pháp luật là giải pháp, là phương tiện tối ưu để hướng tới tự do và hạnh phúc. Nhà hoạt động chính trị, hoạt động lập pháp của thời kỳ La Mã cổ đại - Xô-lông (638-559 TCN) nói: ta giải phóng cho các người bằng quyền lực của luật, hãy kết hợp sức mạnh và pháp luật [104, tr.30]; nhà hoạt động nhà nước, nhà luật học và nhà hùng biện của thời kỳ này - Xi-xê-rôn (106-43 TCN) cũng đưa ra quan điểm nổi tiếng: tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật và Nhân dân phải coi pháp luật như chốn nương thân của mình [102, tr.12]. Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam luôn xem pháp luật là công cụ hữu hiệu để xây dựng, quản lý và phát triển đất nước. Mọi hoạt động của nhà nước nhằm bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo đảm công bằng, tự do, dân chủ đều được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Vì thế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia luôn là một nhu cầu thường trực, đồng thời là nhiệm vụ hàng đầu của nhà nước. Ở Việt Nam, Chính phủ với tư cách cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan chấp hành của Quốc hội, ngoài việc tổ chức thực thi pháp luật, quản lý, điều hành đất nước, còn có vai trò quan trọng trong hoạt động XDPL. Nhìn lại thực tiễn của hoạt động này từ trước đến nay cho thấy, Chính phủ trình khoảng 90% các dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội, UBTVQH (xem Phụ lục 3). Liên quan đến vấn đề trên, có nhiều quan điểm đánh giá, nhận xét, thậm chí trái ngược nhau. C quan điểm cho rằng, theo Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, do vậy, Quốc hội phải nắm trọn quyền làm luật, tức đa số đạo luật phải do các ĐBQH hoặc cơ quan của Quốc hội soạn thảo, nếu để các bộ, ngành làm thì họ sẽ giành phần lợi về mình, đẩy kh khăn cho dân hoặc ngành khác. Đồng tình với quan điểm này, c ý kiến còn nói: việc Chính phủ phải soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh như hiện nay, đã đồng nghĩa với việc Quốc hội chuyển cho hành pháp một gánh nặng của lập pháp [97]. Mặt khác lại c quan điểm, việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh thuộc trách nhiệm của Chính phủ, còn Quốc hội, UBTVQH ch nên đ ng vai trò phản biện và thông qua hay không thông qua các dự án của Chính phủ; hoặc Quốc hội phải có năng lực thẩm định luật chứ không phải Quốc hội là nơi làm luật [187]. 1 Trong bối cảnh đ , xây dựng NNPQ là nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng, Nhà nước ta ưu tiên thực hiện, điều này được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 2013: Nhà nước CHXHCN Việt Nam là NNPQXHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân (khoản 1, Điều 2). Như vậy, Việt Nam đang phải cần đến một hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn thiện, mà ở đ , luật, pháp lệnh là cơ bản. Hoạt động lập pháp là một quá trình lao động trí tuệ của tập thể, bao gồm nhiều công đoạn và sự tham gia của nhiều chủ thể với những vai trò, mức độ đ ng g p khác nhau, được quy định trước hết bởi pháp luật, sau đ bởi những điều kiện khách quan gắn liền với từng chủ thể. Các chủ thể c “sáng quyền lập pháp” ở Việt Nam được hiến định là: Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương MTTQVN và cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận, ĐBQH. Trong số đ , Chính phủ với “bản tính” của cơ quan quản lý mọi mặt đời sống đất nước, là chủ thể nắm bắt sâu sát nhất đòi hỏi của xã hội. Qua tổng kết thực tiễn quản lý, Chính phủ đề xuất với Đảng, Quốc hội những vấn đề vĩ mô về kinh tế, xã hội, góp phần chủ yếu vào việc hình thành, hoạch định chính sách pháp luật của quốc gia. Đồng thời, cũng chính thông qua hoạt động thực thi pháp luật và nắm trong tay mọi nguồn lực của đất nước, Chính phủ c điều kiện thuận lợi trong việc đưa ra những sáng kiến lập pháp cụ thể, gắn với người dân, sau đ trực tiếp xây dựng thành dự án luật, pháp lệnh để trình Quốc hội, UBTVQH thông qua, phúc đáp yêu cầu điều hành đất nước do Chính phủ đảm nhiệm. Như vậy, so với các chủ thể khác, việc Chính phủ có nhiều ưu thế mang tính “tự nhiên” để giữ vị trí đi đầu trong công tác lập pháp của nhà nước là điều tất yếu không thể phủ nhận. Tìm hiểu chính phủ các nước trên thế giới cho thấy, việc chính phủ có “sáng quyền lập pháp” là mang tính phổ biến. Thậm chí, như Hoa Kỳ quốc gia được xem là theo mô hình “phân quyền cứng rắn”, Hiến pháp quy định mọi quyền lập pháp phải được trao cho Quốc hội, nhưng Tổng thống với tư cách người hoạch định chủ yếu chính sách công cộng, vẫn có một vai trò lập pháp quan trọng. Phần lớn các văn bản luật mà Quốc hội xem xét được dự thảo với sáng kiến của ngành hành pháp. Trong một thông điệp đặc biệt hàng năm gửi cho Quốc hội, Tổng thống có thể đề xuất những văn bản pháp luật nào mà Tổng thống cho là cần thiết. Nếu Quốc hội phải ngừng họp mà không đề cập được các đề xuất này thì Tổng thống có quyền triệu tập phiên họp đặc biệt [76, tr. 60]. Nhìn chung, qua nghiên cứu vai trò, trách nhiệm của chính phủ trong hoạt động lập pháp ở một số nước và ở Việt Nam, cho thấy những điểm đáng lưu ý sau: 2 - Chính phủ ở hầu hết các quốc gia đều giữ vị trí quan trọng trong công tác XDPL. Nhu cầu tăng cường vai trò, trách nhiệm của chính phủ trong công tác này là xu hướng tất yếu, phù hợp với bản chất, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của chính phủ. - Việc Chính phủ Việt Nam trình phần lớn dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội, UBTVQH đã minh chứng ở Việt Nam quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng c sự phân công “mềm” và phối hợp chặt chẽ giữa các quyền mà không “máy m c”, như vẫn có quan niệm cứng nhắc về “phân chia quyền lực”. - Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; và đường lối phát triển tổng thể đất nước trên tinh thần chủ động, tích cực hội nhập với các nước của Việt Nam hiện nay, đã đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đầy đủ, phù hợp chuẩn mực quốc tế. Vì thế, trách nhiệm của Chính phủ rất nặng nề, buộc Chính phủ phải phát huy tối đa vai trò khởi xướng chính sách của mình thì mới đáp ứng được mục tiêu trên, cũng như sớm đạt được mong muốn về một Chính phủ kiến tạo, hành động mà nhà lãnh đạo Chính phủ đương nhiệm (2016 - 2021) đặt ra. Xuất phát từ tình hình, đặc điểm trên, từ lâu, yêu cầu đổi mới, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động XDPL của Chính phủ nói chung, của bộ, ngành, cơ quan của Chính phủ n i riêng luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, coi trọng. Điều này thể hiện rõ qua các nghị quyết và văn bản pháp lý có giá trị cao: - Nghị quyết Hội nghị BCHTƯ Đảng lần thứ Tám (khoá VII) xác định: “Đổi mới quy trình lập pháp, lập quy. Cải tiến sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ để bảo đảm tính kịp thời và nâng cao chất lượng XDPL. Tăng cường hơn nữa công tác lập quy của Chính phủ nhằm cụ thể hoá và triển khai luật được nhanh chóng, có hiệu quả”. - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục xác định: “Đổi mới phương thức và quy trình xây dựng thể chế, cải tiến sự phối hợp, phân công giữa các ngành, các cấp có liên quan”. - Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 nêu rõ: “Tăng cường trách nhiệm của Chính phủ và các bộ trưởng trong việc chỉ đạo hoạt động XDPL; Chính phủ tập trung xem xét, quyết định những vấn đề mang tính quan điểm, chính sách và những vấn đề liên ngành còn có ý kiến khác nhau”. - Văn kiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ 3 quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Theo đ , “Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng”, đặc biệt là trong bối cảnh “hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế”. - Điều 96, Hiến pháp năm 2013 và Điều 7, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định, Chính phủ c nhiệm vụ, quyền hạn: Đề xuất, xây dựng chính sách; trình dự án luật trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước UBTVQH. - Điều 28, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định: Thủ tướng c nhiệm vụ, quyền hạn: “Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, UBTVQH, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các văn bản pháp luật và các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các dự án khác thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ”. Căn cứ chủ trương của Đảng và quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 đã xác định khá rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, UBTVQH. Những quan điểm và quy định trên là tư tưởng ch đạo quan trọng có tính định hướng, đồng thời, đặt ra yêu cầu khách quan cần thiết phải đổi mới về nhận thức cũng như thể chế hoá thành khuôn khổ pháp lý cụ thể đối với vai trò, trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ, ngành, cơ quan trong việc xây dựng dự án luật, pháp lệnh nói riêng và XDPL của nhà nước nói chung, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác này trong điều kiện Việt Nam đang xây dựng NNPQXHCN. Chính vì vậy, một trong những nhiệm vụ trọng tâm đã được đặt ra ngay từ Chương trình Tổng thể cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2001 - 2010 là: “Để nâng cao chất lượng và tránh tình trạng thiếu khách quan, cục bộ trong việc xây dựng VBQPPL, cần thiết phải nghiên cứu đổi mới phương thức, quy trình XDPL từ khâu đầu đến khâu Chính phủ xem xét, quyết định hoặc thông qua để trình Quốc hội”. Trong những năm qua, Chính phủ có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương thức, quy trình chuẩn bị dự án luật, pháp lệnh và đã đạt được một số thành tựu nhất định trong hoạt động này, giúp tạo lập hành lang pháp lý căn bản cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, công tác xây dựng dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ cũng còn tồn tại nhiều bất cập, thể hiện 4 ở các khía cạnh như: không ít luật, pháp lệnh mới ch dừng lại ở mức “luật khung”, mặc d c điều kiện, khả năng quy định cụ thể, chi tiết; chậm soạn thảo trình Quốc hội, UBTVQH; vừa mới trình ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung do thiếu tính khả thi, sai sót nhiều hoặc “lạc hậu” với cuộc sống. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này, là trách nhiệm, năng lực của Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan của Chính phủ trong xây dựng dự án luật, pháp lệnh vẫn còn có khoảng cách so với đòi hỏi của thực tiễn. Vì thế, nhu cầu kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ đang được đặt ra một cách cấp thiết, nên việc tăng cường vai trò, trách nhiệm của Chính phủ về xây dựng dự án luật, pháp lệnh sẽ tác động tích cực đến việc cải thiện năng lực quản lý, điều hành đất nước bằng pháp luật của Chính phủ, qua đ tạo động lực quan trọng thúc đẩy tiến trình xây dựng, hoàn thiện bộ máy NNPQXHCN và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Từ những lý do trên, việc nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ liên quan đến công tác xây dựng dự án luật, pháp lệnh là việc làm cần thiết. Do vậy, NCS lựa chọn đề tài “ tr tr n m ủ n phủ v o t n n án luật, pháp l n tron ều ki n xây d ng N à nư c pháp quyền xã h i chủ n ĩ t Nam” làm Luận án tiến sĩ luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án 2.1. Mụ ủa Luận án Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong điều kiện xây dựng NNPQXHCN ở nước ta; trên cơ sở đ , kiến nghị tổng thể các giải pháp đổi mới, tăng cường vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động này trong thời gian tới. Qua đ khẳng định, Chính phủ là cơ quan có vai trò, trách nhiệm quan trọng và trước nhất trong hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh, đây không ch là vai trò, trách nhiệm pháp lý đơn thuần, mà còn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc được đặt ra cho Chính phủ Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhi m vụ của Luận án Để đạt được mục đích trên, Luận án có nhiệm vụ: - Làm rõ thêm quan niệm về NNPQ, sự hình thành, phát triển nhận thức về NNPQXHCN Việt Nam nhằm xác định những yêu cầu và vấn đề đặt ra cho Chính phủ trong XDPL; - Nghiên cứu bản chất của Chính phủ và mối quan hệ với Quốc hội trong cơ chế vận hành quyền lực nhà nước nói chung và trong lập pháp nói riêng; - Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về việc đề cao vai trò, trách nhiệm của Chính 5 phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong bối cảnh xây dựng NNPQXHCN Việt Nam; - Phân tích kinh nghiệm của một số nước về vai trò, trách nhiệm của chính phủ đối với hoạt động lập pháp; - Đánh giá khái quát quy định và thực trạng thực hiện quy định pháp luật về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng luật, pháp lệnh. Từ đ , rút ra ưu điểm và hạn chế; ch rõ nguyên nhân làm ảnh hưởng đến vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong công tác này, trước đòi hỏi của thực tiễn; - Đề xuất quan điểm cũng như giải pháp phù hợp, giúp nâng cao và phát huy vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong điều kiện xây dựng NNPQXHCN. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận án Về đối tượng nghiên cứu, Luận án tập trung nghiên cứu: - Cơ sở lý luận về NNPQ và quá trình hình thành nhận thức, quan điểm xây dựng NNPQXHCN tại Việt Nam; nguyên tắc đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước này; - Cơ sở khoa học về chính phủ; vị trí của chính phủ trong cơ cấu quyền lực nhà nước; hoạt động XDPL nói chung và hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh nói riêng của Chính phủ Việt Nam; kinh nghiệm của một số nước; - Các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh; - Thực trạng vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh. Về phạm vi nghiên cứu, Luận án xác định giới hạn như sau: Có rất nhiều vấn đề đặt ra đối với Chính phủ trong NNPQ, tuy nhiên Luận án tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng NNPQXHCN. Việc nghiên cứu này dựa trên nền tảng một số lý thuyết căn bản về chính phủ, về NNPQ; các VBQPPL liên quan được ban hành chủ yếu từ sau Hiến pháp năm 1992; thực tiễn hoạt động xây dựng các dự án luật, pháp lệnh tại Việt Nam từ năm 1992 đến nay và kinh nghiệm quốc tế. 4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án Luận án được tiếp cận trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về nền dân chủ XHCN, các quan điểm của 6 ĐCSVN về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo yêu cầu NNPQXHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Ngoài việc sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin, Luận án kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp này được thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ Luận án; - Phương pháp phân tích thống kê các số liệu về kết quả hoạt động nhằm tăng cường tính cụ thể, xác thực, dễ hiểu, c căn cứ thực tiễn cho các nhận định, đánh giá liên quan đến Đề tài; - Phương pháp lịch sử cụ thể: nghiên cứu lịch sử cụ thể về vai trò, trách nhiệm và số lượng, chất lượng xây dựng dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ trong từng giai đoạn phát triển Nhà nước Việt Nam; - Phương pháp luật học so sánh: được vận dụng trong việc tham khảo kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của chính phủ; quy định về vai trò, trách nhiệm của chính phủ trong công tác XDPL và việc thực hiện quy định đ ở một số quốc gia. 5. nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án - Về mặt khoa học: kết quả nghiên cứu của Luận án là sự đ ng g p, bổ sung lý luận về Chính phủ, về vai trò của Chính phủ trong hoạt động lập pháp. Đưa ra những quan điểm và giải pháp cụ thể mang tính cơ bản, thiết thực nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, UBTVQH đáp ứng nhu cầu đổi mới và phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay. - Về mặt thực tiễn: góp phần thi hành Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 và triển khai, hướng dẫn thi hành Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015; đ ng g p vào quá trình tiếp tục nghiên cứu tiến tới sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các luật trên, khi điều kiện cho phép. 6. Những đóng góp mới của Luận án Kế thừa, phát triển những kết quả nghiên cứu về chính phủ, vai trò, trách nhiệm của chính phủ trong hoạt động XDPL nói chung và dự án luật, pháp lệnh nói riêng, với một số quan niệm tiêu biểu chính phủ là chủ thể chính, chủ thể quan trọng, chủ thể đặc biệt ... trong hoạt động này. Trên cơ sở đ , c ng với nhu cầu thực tại, Luận án đã cố gắng nhận diện đầy đủ, chính xác những vấn đề cần tiếp tục làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn trong hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ để đưa ra những đ ng g p mới, tập trung vào các nội dung sau: 7 - Làm rõ thêm quan niệm về NNPQXHCN Việt Nam. Từ đ phân tích cơ sở lý luận về việc tại sao cần đề cao vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. - Luận giải sâu sắc hơn vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động XDPL nói chung và xây dựng dự án luật, pháp lệnh n i riêng để trả lời câu hỏi “Chính phủ có vai trò, trách nhiệm quan trọng như thế nào trong việc thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội ?”. - Nghiên cứu, đánh giá vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh một cách toàn diện, trong đ nhấn mạnh một số vấn đề điển hình, như: Chính phủ cần chủ động và giữ vai trò đi đầu trong hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, UBTVQH; Chính phủ phải có trách nhiệm đến cùng với dự án của mình; Chính phủ có trách nhiệm chính trị đối với tình trạng của hệ thống pháp luật quốc gia. - Đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong điều kiện hiện nay. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phần Phụ lục, Luận án gồm 4 chương như sau: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của Đề tài. Chương 2. Cơ sở lý luận về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chương 3. Thực trạng vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chương 4. Quan điểm và giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 8 ươn 1 TỔN QUAN TÌN ÌN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ L T U ẾT CỦA ĐỀ TÀI Thời gian qua, cùng với quyết tâm cải cách hành chính, đổi mới kinh tế, chính trị để hoàn thiện tổ chức bộ máy NNPQXHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng theo hướng đề cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan “Hành pháp”, Chính phủ đã ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong đời sống chính trị - xã hội đất nước. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chất lượng hoạt động của Chính phủ, các bộ, ngành, đặc biệt là hoạt động xây dựng thể chế đã được các chuyên gia, nhà khoa học quan tâm đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu. Có thể liệt kê một số công trình liên quan đến chủ đề Luận án theo các nh m cơ bản sau: 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu tron nư c 1.1.1.1. Luận án tiến sĩ Thứ nhất, Luận án tiến sĩ luật học: “Vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, (2011), NCS Trần Quốc Bình [8]. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu về chủ đề c liên quan đến Luận án. Tại Đề tài này, tác giả khẳng định vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, được bắt nguồn từ chính thực tiễn quản lý, điều hành của Chính phủ đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời đưa ra quan niệm về quy trình lập pháp ở Việt Nam với tư cách là một công cụ, là cơ sở nền tảng cho việc giải quyết các vấn đề lập pháp. Tác giả đã đánh giá, luận giải những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân làm hạn chế vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam. Theo đ , một trong những nhận định cơ bản của tác giả là: sự thiếu rõ ràng trong mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp dưới g c độ tổ chức quyền lực nhà nước là nguyên nhân làm hạn chế vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu của Luận án có một số điểm có thể xem xét tiếp thu trong quá trình hoàn thiện pháp luật về ban hành VBQPPL. Tuy vậy, Luận án ch giới hạn phạm vi ở dự án luật do Chính phủ xây dựng trong quy trình luật định; cũng như chưa đề cập đến các nội dung như: khái niệm về lập pháp, về hoạch định chính sách, về trách nhiệm chính trị của Chính phủ với lập pháp ... là những vấn đề rất gần gũi và cần thiết cho chủ đề được nghiên cứu. 9 Thứ hai, Luận án tiến sĩ luật học: “Nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”, (1995), NCS Lê Văn Hòe [82]. Hoạt động lập pháp được tác giả n i đến có phạm vi rộng, không ch bó hẹp trong phạm vi hoạt động của riêng một chủ thể nào mà đề cập đến hoạt động của các chủ thể có liên quan trong quy trình lập pháp; do đ , tác giả không phân tích, đề xuất nội dung cụ thể về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, UBTVQH. Tác giả đã kiến nghị một số giải pháp bảo đảm về mặt pháp lý, về cơ sở khoa học, về tổ chức cán bộ và lãnh đạo nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp n i chung, trong đ c hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ. Thứ ba, Luận án tiến sĩ luật học: “Nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, (2007), NCS Trần Hồng Nguyên. Trong Luận án, tác giả đã đề cập đến một mức độ nhất định về thực trạng chuẩn bị, soạn thảo dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ, cùng với thực trạng hoạt động thẩm tra, chất lượng hoạt động thẩm tra và đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội, với quan niệm “chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội là tổng thể các yếu tố bảo đảm cho các luật được ban hành có tính khả thi, tác động tích cực đến việc phát triển kinh tế - xã hội với mức chi phí hợp lý” [113, tr.33]. - Thứ tư, Luận án tiến sĩ luật học: “Quyền Lập quy của Chính phủ” (2011), NCS Nguyễn Đình Hào [80]. Công trình đã nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích thực trạng vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động XDPL, mà cụ thể ở đây là quyền lập quy của Chính phủ và đưa ra các quan điểm, giải pháp hoàn thiện quyền này của Chính phủ. Như vậy, Luận án tập trung vào phạm vi nghiên cứu là quyền lập quy của Chính phủ mà chưa đề cập đến việc tham gia cũng như vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động lập pháp, tức hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, UBTVQH. Thứ năm, Luận án tiến sĩ luật học: “Hoàn thiện quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay”, (2004), NCS Hoàng Văn Tú [152]. Tác giả đã trình bày cơ sở lý luận của việc hoàn thiện quy trình lập pháp ở nước ta, đánh giá, phân tích thực trạng quy trình lập pháp, kiến nghị các quan điểm, giải pháp hoàn thiện quy trình lập pháp. Trong đ , tác giả đề cập một số nội dung liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong quy trình lập pháp - thể hiện chủ yếu qua vai trò của Chính phủ trong các công đoạn của quy trình lập pháp là công đoạn lập đề nghị chương trình 10 xây dựng luật, pháp lệnh, soạn thảo dự án luật, pháp lệnh. Từ năm 2004 đến nay, quy trình lập pháp đã có những thay đổi quan trọng, trong đ c việc ban hành và tổ chức thực thi Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, năm 2015, nên việc nghiên cứu vấn đề trình tự, thủ tục và chất lượng hoạt động của Chính phủ nếu nhìn từ khía cạnh thời gian cũng đứng trước những yêu cầu, bối cảnh thực tế mới. Thứ sáu, Luận án tiến sĩ luật học: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động lập pháp, lập quy ở Việt Nam hiện nay”, (2003), NCS Đỗ Ngọc Hải [78]. Tác giả tập trung làm rõ cơ sở lý luận về pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy; phân tích, đánh giá thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt động lập pháp, lập quy ở Việt Nam. Từ đ , tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động lập pháp, lập quy ở nước ta. Ở chừng mực nhất định, các luận án trên đã c những nội dung khá sát với vấn đề chính phủ, lập pháp và vai trò, trách nhiệm của chính phủ trong lập pháp. Tuy vậy, đây là các vấn đề có phạm vi nghiên cứu khá rộng nên còn nhiều khía cạnh cụ thể liên quan đến vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong điều kiện xây dựng NNPQXHCN Việt Nam chưa được các tác giả đề cập sâu. Bên cạnh đ , về mặt thực tiễn, hiện tại đã c những thay đổi đáng kể và sâu sắc, cũng như về mặt pháp lý nhiều điểm mới theo Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 được đặt ra đối với vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong quy trình lập pháp ... 1.1.1.2. Đề tài nghiên cứu khoa học Thứ nhất, Đề tài cấp nhà nước mã số KHXH 05.05 do TSKH. Đào Trí Úc làm Chủ nhiệm: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng” [153]. Đề tài nghiên cứu nội dung và phương hướng xây dựng NNPQ ở nước ta, đề ra các yêu cầu cần bảo đảm trên con đường đ là: quyền lực Nhân dân (dân chủ); sự lãnh đạo của Đảng; tôn trọng và tuân thủ nghiêm ch nh pháp luật; xây dựng cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp rõ ràng trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thứ hai, Đề tài cấp bộ mã số CT11-16-03 của Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm khoa học xã hội thực hiện, do PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương làm Chủ nhiệm: “Mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng Cộng sản trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn 2011-2020” [87]. Đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng trong NNPQXHCN Việt Nam, đánh giá thực trạng mối quan hệ đ trong lĩnh vực thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư 11 pháp; thực trạng mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước và cấp ủy Đảng tại các địa phương, cơ quan. Từ đ , tác giả nêu yêu cầu phải thể chế hóa, có thể bằng các quy định của pháp luật, có thể bằng các văn bản có tính quy phạm của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hoặc có thể bằng các văn bản liên tịch để xác định mô hình mối quan hệ giữa các cơ quan lãnh đạo của Đảng với cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Đề tài c ý nghĩa tham khảo rất hữu ích khi nghiên cứu về thể chế pháp lý trong kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt trong cơ chế ở nước ta. Thứ ba, Đề tài khoa học cấp bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất” năm 2012 của Bộ Tư Pháp do TS. Lê Thành Long làm Chủ nhiệm [98]. Đề tài đã đưa ra những quan điểm, luận cứ để hợp nhất Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 và Luật Ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân và UBND. Mục đích của Đề tài là hướng tới việc trình Quốc hội thông qua việc hợp nhất hai luật này thành một luật (nay là Luật Ban hành VBQPPL năm 2015), do vậy, Đề tài không đề cập nhiều đến vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh mà chủ yếu bao quát theo nội dung của Luật Ban hành VBQPPL năm 2008. Thứ tư, Chương trình khoa học cấp nhà nước, mã số KX.04 do GS.VS. Nguyễn Duy Quý làm Chủ nhiệm đã thực hiện 9 đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, trong đ c các đề tài mã số từ KX 04.01 đến KX 04.05 trực tiếp đề cập đến nhiều nội dung liên quan đến mô hình tổ chức NNPQ, yêu cầu xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Chính phủ, yêu cầu về việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong điều kiện xây dựng NNPQXHCN. Cụ thể: Đề tài KX 04.02: “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân giai đoạn 2001-2010” do GS.TSKH. Đào Trí Úc làm Chủ nhiệm; Đề tài nghiên cứu KX 04.04 “Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta” của Văn phòng Quốc hội do GS.TS. Trần Ngọc Đường làm Chủ nhiệm; Đề tài nghiên cứu KX 04.05 “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Ủy ban pháp luật do TS. Vũ Đức Khiển làm Chủ nhiệm. Có thể nói, những đề tài nhánh trong Chương trình khoa học cấp nhà nước KX.04 có giá trị tham khảo cao khi NCS nghiên cứu các nội dung của Luận án. Ngoài ra, còn các đề tài cấp bộ như: Đề tài “Đổi mới và hoàn thiện quy 12 trình lập pháp của Quốc hội và ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội”, mã số: 99-98-169 năm 2001 của Văn phòng Quốc hội, do ông Vũ Mão làm Chủ nhiệm; Đề tài “Nâng cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ chuẩn bị, trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội” năm 2006 do VPCP thực hiện; Đề tài “Đổi mới quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật dài hạn và hàng năm” và Đề tài “Xây dựng cơ chế huy động có hiệu quả sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và Nhân dân vào quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật” do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện năm 2006. Các nghiên cứu trên đã phân tích khá trực diện vào một số vấn đề liên quan đến NNPQ và vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động lập pháp. Ở những phương diện, phạm vi khác nhau, các đề tài đều có kiến nghị, đề xuất về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực này. Nói chung, các đề tài tương đối phong phú nhưng việc nghiên cứu vẫn chưa đề cập được kỹ đến nhiều nội dung thuộc vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với công tác xây dựng dự án luật, pháp lệnh ... đặc biệt là, chưa quan tâm nhiều và đúng mức đến trách nhiệm mang tính pháp lý - chính trị của Chính phủ trong lập pháp, mà chủ yếu đánh giá theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL năm 2008. 1.1.1.3. Sách chuyên khảo Thứ nhất, “Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền” (2008), PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên là một công trình nghiên cứu lý luận chuyên sâu về mô hình chính phủ trong NNPQ. Trong đ , nhóm tác giả khẳng định và lý giải vị trí trung tâm của chính phủ trong NNPQ là: lập pháp và tư pháp vốn dĩ được phân cho quốc hội và tòa án, nhưng muốn cho lập pháp c được những đạo luật tốt phải nhờ đến quyền trình dự án luật của chính phủ hoặc muốn có hoạt động xét xử, tòa án phải trông cậy vào hoạt động điều tra và truy tố của hành pháp. Sở dĩ như vậy, vì so với lập pháp và tư pháp, thì chính phủ - hành pháp bao giờ cũng c ưu thế hơn ở chỗ, hành pháp là bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước. Với bộ máy được cấu tạo, được trả lương một cách đầy đủ, nhiều nhất, và trong bộ máy nhà nước, chính phủ luôn có sự hiện diện của các chuyên nghiệp đông nhất, đa dạng nhất [47, tr.82]. Thứ hai,“Sự hạn chế quyền lực nhà nước” (2005), PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung [46]. Cuốn sách trình bày cơ sở lí luận và nội dung của sự hạn chế quyền lực nhà nước, sự cần thiết phải giới hạn quyền lực của nhà nước, khẳng định hiến pháp là một văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao có chức năng giới hạn quyền lực nhà 13 nước, là phương thức quan trọng nhất của hạn chế quyền lực nhà nước bằng các phân tích về lý do ra đời hiến pháp, các loại hình hiến pháp. Từ đ , tác giả đưa ra những sự liên hệ giữa NNPQ và chủ nghĩa hiến pháp - sự thể hiện tập trung lý thuyết về giới hạn quyền lực nhà nước; vấn đề bảo đảm nhân quyền không bị vi phạm, vấn đề bầu cử với một số nhiệm kỳ nhất định cho các chức danh quan trọng của nhà nước và các phương thức hạn chế quyền lực nhà nước từ bên ngoài … Thứ ba, “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” (2011), PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan [66]. Đây là công trình đem lại những nhận thức chung về hoạt động XDPL ở cả khía cạnh chính trị và kỹ thuật pháp lý. Theo đ , XDPL được tác giả quan niệm: là một trong những hình thức chính của việc thể hiện và thực hiện quyền lực nhà nước trong thực tiễn; là hoạt động mang tính tổ chức rất chặt chẽ, được tiến hành theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định; là một quá trình sáng tạo ra các quy định pháp luật trên cơ sở nhận thức quy luật và lợi ích xã hội ... Đặc biệt, trong nghiên cứu, tác giả đã đặt vấn đề về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức, chính trị của những cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào hoạt động XDPL, vốn là những vấn đề cho đến nay vẫn chưa được pháp luật Việt Nam quy định thỏa đáng. Thứ tư,“Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2008), GS.TS. Trần Ngọc Đường và TS. Ngô Đức Mạnh chủ biên [72]. Công trình đã nghiên cứu về mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ trong điều kiện xây dựng NNPQXHCN Việt Nam, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới mô hình, phương thức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ theo định hướng pháp quyền XHCN; đề xuất quan điểm, nguyên tắc và giải pháp có tính tổng thể cho quá trình tiếp tục đổi mới của Quốc hội, Chính phủ trong giai đoạn những năm 2010 và các năm tiếp theo. Thứ năm, “Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội” (2004), Văn phòng Quốc hội biên soạn [125]. Cuốn sách trình bày có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới công tác lập pháp; giới thiệu khá đầy đủ quy trình lập pháp qua các thời kỳ; phân tích nội dung quy trình lập pháp gắn liền với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội, phương thức hoạt động của kỳ họp Quốc hội. Nhìn chung, cuốn sách đã cập nhật thông tin và nêu rõ những bất cập đang tồn tại; đề xuất phương hướng và giải pháp phù hợp cho vấn đề. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan