Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa Truyền hình ở Việt Nam...

Tài liệu Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa Truyền hình ở Việt Nam

.DOC
129
176
109

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Xin cam đoan: Luận văn “Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa Truyền hình ở Việt Nam ” là do tự bản thân tôi nghiên cứu, sưu tầm tài liệu và xây dựng. Tôi xin cam đoan và chịu toàn bộ trách nhiệm về tính trung thực cũng như sự hợp pháp của vấn đề nghiên cứu. NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Ngọc Long MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU TÓM TẮT LUẬN VĂN PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM...... 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH....................................................................................... 1.1.1. Truyền hình và vai trò của truyền hình................................................. 1.1.2. Quan niệm về xã hội hoá và xã hội hoá truyền hình......................... 1.1.3. Nội dung của xã hội hoá truyền hình.................................................. 1.1.4. Vai trò của xã hội hoá truyền hình...................................................... 1.2. NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH.................................................... 1.2.1. Tính tất yếu khách quan tăng cường vai trò nhà nước trong xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam................................................................ 1.2.2. Nội dung vai trò của nhà nước trong xã hội hoá truyền hình............. 1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò quản lý của nhà nước đối với công tác xã hội hoá truyền hình.......................................................... 1.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH................................. 1.3.1. Kinh nghiệm của một số kênh truyền hình nước ngoài...................... 1.3.2. Kinh nghiệm của các nhà Đài trong nước.......................................... 1.3.3. Một số bài học rút ra cho công tác quản lý nhà nước đối với xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam................................................................ Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM............................................. 2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM............................................................................................ 2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành ngành truyền hình Việt Nam................ 2.1.2. Tổng quan các chương trình phát sóng của Đài truyền hình Việt Nam ............................................................................................................. 2.1.3. Tình hình xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam................................... 2.2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM............................................................................... 2.2.1. Về chỉ đạo triển khai các văn bản pháp quy của Nhà nước................ 2.2.2. Chỉ đạo trong xã hội hoá phát triển mạng lưới truyền hình............... 2.2.3. Về chỉ đạo xã hội hoá nguồn nhân lực và kỹ thuật trong lĩnh vực truyền hình ở Việt Nam....................................................................... 2.2.4. Về công tác tổ chức phối hợp giữa các cơ sở sản xuất chương trình truyền hình với các Đài truyền hình Trung ương và địa phương trong việc phát sóng các chương trình truyền hình xã hội hoá........... 2.2.5. Về công tác thanh tra, kiểm tra của Bộ Thông tin Truyền thông và các cơ quan chức năng đối với các đơn vị tham gia thực hiện xã hội hoá truyền hình............................................................................. 2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM............................................ 2.3.1. Những thành tựu đạt được.................................................................. 2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại............................... Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HÓA TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM....................................................... 3.1. ĐỊNH HƯỚNG TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM......................................................... 3.1.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển truyền hình và xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam.................................................................................. 3.1.2. Phương hướng tăng cường vai trò Nhà nước trong xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam....................................................................... 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM..................... 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy, cơ chế, chính sách đối với hoạt động truyền hình................................................................... 3.2.2. Hoàn thiện công tác quy hoạch mạng lưới truyền dẫn, phát sóng truyền hình và truyền hình xã hội hoá................................................. 3.2.3. Hoàn thiện công tác quản lý mạng lưới truyền hình xã hội hoá.......101 3.2.4. Đổi mới tổ chức bộ máy triển khai xã hội hoá truyền hình..............104 3.2.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động truyền hình...................105 3.2.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động dịch vụ truyền hình.........................................................................................105 KẾT LUẬN...................................................................................................107 TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................109 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BTTTT CHXHCNVN Đài PT - TH Đài TH TP HCM Đài TH KTS ĐTHVN HTV MC PCTN QLNN TP HCM TBKTSG TV TH TS VN VTV XHH WTO Bộ Thông tin truyền thông Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam Đài Phát thanh - Truyền hình Đài truyền hình Thành phố Hồ chí Minh Đài truyền hình kỹ thuật số Đài truyền hình Việt nam Kênh của Đài Thành phố Hồ chí Minh Người dẫn chương trình Phòng chống tham nhũng Quản lý nhà nước Thành phố Hồ chí Minh Thời báo kinh tế Sài Gòn Ti vi ( máy phát hình – vô tuyến ) Truyền hình Tiến sỹ Việt nam VietnamTelevision Xã hội hóa Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Bảng 2.1. Nhóm kênh của Đài Truyền hình Việt Nam..................................... Bảng 2.2. Nhóm kênh do Truyền hình Cáp Việt Nam sản xuất...................... Bảng 2.3. Các kênh đã được xã hội hóa trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC .......................................................................................................... Bảng 2.4. Các chương trình truyền hình đã được xã hội hoá........................... Bảng 2.5. Nguồn vốn để thực hiện xã hội hoá Truyền hình............................ Bảng 2.6. Các chương trình đã làm và đang phát sóng trên các Đài TH.......... Bảng 2.7. Đơn giá quảng cáo áp dụng từ ngày 01/12/2010 và năm 2011 .......................................................................................................... Bảng 2.8 . Nhóm kênh truyền hình địa phương phát sóng trên VCTV............. i TÓM TẮT LUẬN VĂN Ở nước ta, trong những năm vừa qua cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, thì hoạt động phát thanh truyền hình cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, nước ta đã và đang tham gia tích cực vào một số tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, trong đó hoạt động điện ảnh- truyền hình đang từng bước thực hiện xã hội hoá. Do đó, cần tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động điện ảnh sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, hiện nay vai trò quản lý của nhà nước trong hoạt động điện ảnh và phát thanh- truyền hình vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như các văn bản pháp luật hiện hành về hoạt động điện ảnh và truyền hình còn thiếu các quy định về hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài để sản xuất phim, hoạt động điện ảnh có yếu tố nước ngoài; tỷ lệ chiếu phim Việt Nam với phim nước ngoài trong hệ thống chiếu bóng, phát sóng trên truyền hình cũng cần được điều chỉnh để có tính khả thi, đáp ứng trong tình hình mới...Những vấn đề nêu trên gây ra vướng mắc và khó khăn nhất định cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động điện ảnh và truyền hình trên đất nước ta, chưa tạo sự khuyến khích đối với các thành phần kinh tế tham gia vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh và truyền hình. Để sớm khắc phục những hạn chế và bất cập trên đây, nhằm thúc đẩy hoạt động điện ảnh phát triển phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò và bản sắc của điện ảnh Việt Nam. Là một cán bộ công tác trong ngành truyền hình, với mong nuốn vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn và có những đóng góp thiết thực cho ngành, tôi chọn đề tài "Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam " để viết luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị. Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành kinh tế chính trị như: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp so sánh, phân tích, phương pháp chuyên gia và một số phương pháp khác. Kết quả nghiên cứu của luận văn đã có những đóng góp chủ yếu sau đây: Thứ nhất, luận văn đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về xã hội hoá và xã hội hoá truyền hình ii Luận văn chỉ rõ, hiện nay, xã hội hóa là cụm từ được sử dụng rất rộng rãi trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng bản chất của xã hội hoá là gì? Thì vẫn chưa có khái niệm chung thống nhất. Trong thực tế tuỳ thuộc vào quan niệm của từng lĩnh vực nghiên cứu, như luật học, kinh tế học, lý thuyết về xã hội học mà các khái niệm có một số điểm khác nhau. Nhìn chung, cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu về “xã hội hoá”, trong đó cũng còn ít nhiều phiến diện, chưa làm rõ được bản chất của “xã hội hoá”. Đi tìm trong các từ điển tiếng Việt, không tìm thấy cuốn từ điển nào giải nghĩa đầy đủ cho thuật ngữ “xã hội hoá” trên tư cách là một thuật ngữ độc lập. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm thấy những sự giải nghĩa thuật ngữ “xã hội hoá” khi nó được ghép với các thuật ngữ khác như: “xã hội hoá sản xuất”; “xã hội hoá hình thức”; “xã hội hoá thực tế”. Như vậy có thể thấy, ở mỗi góc nhìn khác nhau thì thuật ngữ XHH được định nghĩa khác nhau, nhưng điều cốt lõi là dù định nghĩa thế nào thì các thuật ngữ đó đều đề cập tới sự tương tác, mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con người, của cộng đồng nhằm đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của xã hội. Hoạt động của con người, của cộng đồng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Qua nghiên cứu các thuật ngữ trên có thể suy ra một cách khái quát rằng: “Xã hội hoá” một hoạt động nào đó, chính là sự gia tăng tính chất “xã hội” của hoạt động ấy thông qua sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội dựa trên những điều kiện và trong khuôn khổ cơ chế nhất định. Điều kiện và cơ chế cụ thể như thế nào là phụ thuộc vào bối cảnh của xã hội hoá. Những điều kiện và cơ chế đóng vai trò then chốt đối với sự thành công của xã hội hoá, chúng quy định hình thức, phương thức “tham gia” của các chủ thể khác nhau trong xã hội vào hoạt động được xã hội hoá. Như vậy, điều kiện và cơ chế gắn với bối cảnh xã hội hoá sẽ quyết định ý nghĩa của “xã hội hoá” trong bối cảnh ấy. Thứ hai, luận văn đã làm rõ khái niệm và nội dung xã hội hoá truyển hình ở nước ta. Trước hết luận văn đã khái quát làm rõ khái niệm xã hội hoá truyển hình: ”Xã hội hóa Truyền hình” chính là "sự tham gia của nhiều chủ thể vào quá trình sản xuất chương trình từ bên ngoài ngành Truyền hình". Điều đó có nghĩa là trong các khâu sản xuất, hình thành tác phẩm của một chương trình truyền hình có thể có nhiều chủ thể tham gia. Như vậy khái niệm ” Xã hội hóa iii truyền hình ” đã hàm chứa trong nó cả mục tiêu xây dựng một nền Truyền hình hiện đại nhờ phát huy tối đa các nguồn lực của xã hội. Đây cũng là con đường để việc sản xuất các chương trình Truyền hình đi theo hướng chuyên môn hóa, chất lượng và năng suất cao hơn. Về nội dung xã hội hóa truyền hình có thể khái quát ở những vấn đề chủ yếu sau đây: Một là, phát triển kênh truyền hình với nhiều cấp độ, nhiều hình thức từ Đài phát sóng trung ương đến từng đài ở các địa phương; Hai là, huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế, các chủ thể trong việc cung ứng dịch vụ truyền hình; Ba là, phát triển các quan hệ liên kết về chuyên môn giữa các cơ sở truyền hình trong và ngoài nước trong xây dựng chương trình và phát sóng Thứ ba, luận văn đã khẳng định sự cần thiết khách quan phải tăng cường vai trò nhà nước trong quá trình thực hiện xã hội hoá truyền hình. Luận văn đã chỉ rõ truyền hình là loại sản phẩm vật chất đặc biệt. Nó không chỉ là hàng hóa thông thường mà còn là một loại sản phẩm mang tính đại chúng, tính công cộng cao. Trước yêu cầu phát triển, cần phải có một quan điểm tích cực trong triển khai các hoạt động kinh doanh, tìm kiếm nguồn thu. Việc xã hội hóa các hoạt động của truyền hình đã và sẽ là một khuynh hướng tất yếu trong thời gian tới. Chỉ có thể để cho công chúng ngày một tham gia nhiều hơn vào các công đoạn sản xuất của mình, và hướng hoạt động sản xuất đến phục vụ và thoả mãn nhu cầu xem của công chúng, truyền hình mới có điều kiện thuận lợi để phát triển, giữ được ưu thế cạnh tranh trong bối cảnh thông tin bùng nổ hiện nay. Việc tham gia mạnh mẽ vào tiến trình xã hội hóa, tận dụng được mọi nguồn lực trong xã hội để đầu tư cho phát triển sẽ là cơ sở để truyền hình tiếp tục củng cố chỗ đứng của mình. Hoạt động trong lĩnh vực truyền hình như đã phân tích là hết sức đa dạng, phong phú và không kém phần phức tạp. Để hoạt động trong lĩnh vực truyền hình thực sự là món ăn tinh thần của quần chúng nhân dân, là công cụ quảng bá chủ trương đường lối, chính sách của iv Đảng và Nhà nước phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước thì không thể vắng thiếu vai trò quản lý, định hướng của nhà nước. Vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động truyền hình cần được xem xét trên cả hai phương diện: quản lý nội dung chương trình và quản lý con người tham gia xây dựng và thực hiện chương trình truyền hình. Thứ tư, Luận văn cũng làm rõ nội dung vai trò của nhà nước trong xã hội hoá truyền hình và bao gồm: Một là, nhà nước phải xây dựng được chiến lược quốc gia về xã hội hóa truyền hình, gắn với đó là xây dựng quy hoạch phát triển mạng lưới truyền hình quốc gia; Hai là, nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức và cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ truyền hình và liên kết trong các hoạt động phát triển chương trình truyền hình; Ba là, nhà nước xây dựng hành lang pháp lý và thực hiện quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức và cá nhân cung ứng dịch vụ truyền hình; Bốn là, nhà nước vừa với tư cách là một cơ quan quản lý, lại vừa với tư cách là một chủ thể giữ vai trò nòng cốt trong việc cung ứng chương trình truyền hình. Đồng thời luận văn cũng chỉ rõ các nhân tố tác động đến hoạt động xã hội hoá truyển hình ở nước ta như: nhân tố về điều kiện tự nhiên; nhân tố về điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội; nhân tố về văn hóa và con người; nhân tố quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống chính sách, pháp luật; trình độ dân trí, sự hiểu biết về tác dụng của truyền hình; tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế; môi trường hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động không nhỏ đến xã hội hoá truyền hình. Thứ năm, luận văn đã nghiên cứu kinh nghiệm về xã hội hoá truyền hình của một số kênh truyền hình nước ngoài như: như MTV, HBO, STARMOVIES, CINEMAX,… và cả kinh nghiệm của các nhà Đài trong nước…qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc xã hội hoá truyền hình của Việt Nam trên các mặt: quản lý Nhà nước về hoạt động truyền hình và xã hội hoá truyền hình của Việt Nam; quản lý Nhà nước trong công tác chuyên môn; tăng cường hệ thống pháp luật về hoạt động phát thanh truyền hình; kiểm tra v giám sát và qui định về phạm vi hoạt động trong xã hội hoá truyền hình. Thứ sáu, luận văn đã khái quát lịch sử hình thành ngành truyền hình Việt Nam; Tổng quan các chương trình phát sóng của Đài truyền hình Việt Nam; phân tích thực trạng xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam giai đoạn 2005- 2009. Luận văn đã khái quát chỉ ra những kênh truyền hình đã được xã hội hóa trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC cũng như các chương trình truyền hình đã được xã hội hoá trên toàn bộ các kênh phát sóng của đài truyền hình trung ương (VTV) cũng như các đài địa phương ở nước ta thời gian vừa qua. Từ những phân tích, đánh giá thực trạng xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam, luận văn rút ra nhận xét: cũng có thể thị trường kinh doanh các sản phẩm truyền hình ở Việt Nam đang ở giai đoạn manh nha, mỗi người một cách, nhân lực lại ít và nhiều nơi vừa làm vừa học nên dù có phát triển về số lượng thì các cuộc cạnh tranh về chất lượng và hình thức kinh doanh còn kéo dài, thậm chí còn gây nhiều tranh cãi. Nhưng chắc chắn rằng, lĩnh vực “xã hội hoá” truyền hình vẫn còn “đất” phát triển trong tương lai và ngày càng có nhiều doanh nghiệp tìm đến. Thứ bảy, luận văn đã tổng quan làm rõ thực trạng vai trò nhà nước trong chỉ đạo thực hiện chủ trương xã hội hoá truyền hình ở nước ta thời gian vừa qua trên các mặt: - Về chỉ đạo triển khai các văn bản pháp quy của Nhà nước. Luận văn chỉ rõ: Trước tháng 5-2009 gần như không có văn bản pháp luật nào điều chỉnh, cho phép các hoạt động hợp tác đầu tư trong lĩnh vực truyền hình. Lâu nay, việc hợp tác đầu tư như vậy thường được hiểu như là một phần chủ trương khuyến khích xã hội hóa của Nhà nước. Thế nhưng, nếu nghiên cứu kỹ tinh thần của các văn bản quy định về chính sách khuyến khích xã hội hóa, từ Nghị quyết số 90-CP ngày 21-8-1997 đến các Nghị định 73/1999/NĐ-CP, 53/2006/NĐ-CP và mới nhất là Nghị định 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ đều thấy rằng truyền hình không thuộc diện được Nhà nước khuyến khích xã hội hóa. Tuy nhiên, phong trào hợp tác đầu tư vốn trong lĩnh vực truyền hình thời gian qua vẫn rộ lên rất mạnh, điều đó cho thấy nhu cầu đầu tư vào lĩnh vực truyền hình rất cao trong khi “cung” pháp lý đã không đáp ứng kịp. Phong trào xã hội hóa lĩnh vực truyền hình đã được “cứu nguy” bằng Thông tư 09/2009/TT-BTTTT ngày 28-5-2009 của Bộ Thông tin Truyền thông. Có vi thể nói, đây là văn bản đầu tiên tạo cơ sở pháp lý, đồng thời chấm dứt một thời kỳ hợp tác đầu tư “công- tư” theo kiểu “tranh tối tranh sáng” trong lĩnh vực truyền hình tại Việt Nam. Hơn nữa, văn bản này tỏ ra cởi mở khi cho phép các doanh nghiệp “có tư cách pháp nhân và đăng ký kinh doanh theo pháp luật Việt Nam” được hợp tác với đài truyền hình để sản xuất không chỉ một phần mà toàn bộ kênh chương trình truyền hình, áp dụng không chỉ truyền hình trả tiền mà cả với truyền hình không trả tiền, phạm vi điều chỉnh không chỉ truyền hình mà cả với lĩnh vực phát thanh. Đài truyền hình muốn thực hiện hợp tác chỉ cần làm thủ tục đăng ký hoặc thông báo với Bộ Thông tin Truyền thông. Trong khi đó, vẫn còn một số ý kiến băn khoăn. Cơ sở pháp lý để ban hành Thông tư 09/2009/TT-BTTTT là Luật Báo chí và Nghị định 51/2002/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Luật Báo chí (xin lưu ý, văn bản này không dựa trên các quy định về chính sách xã hội hóa). Tuy nhiên, pháp luật về báo chí hiện chỉ mới cho phép cơ quan báo chí được “tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực in ấn, chế bản, phát hành sách, quảng cáo, quay phim, nhiếp ảnh và kinh doanh vật tư thiết bị liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ báo chí để tạo nguồn thu đầu tư trở lại cho sự nghiệp phát triển báo chí” (khoản 2, điều 7, Nghị định 51/2002/NĐ-CP). - Chỉ đạo trong xã hội hoá phát triển mạng lưới truyền hình: Thông tư 19/2009/TT - BTTTT quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình đã chính thức có hiệu lực tròn một năm. Chưa phải là một khoảng thời gian dài, nhưng cũng đã đủ để nhìn lại, để có thể đánh giá bước đầu về những gì đã làm được, khi văn bản từ con chữ trên giấy đi vào thực tế cuộc sống. Hoạt động liên kết là “hợp tác giữa một bên là đài phát thanh, truyền hình với một bên là đối tác liên kết để tạo ra một phần hoặc toàn bộ sản phẩm liên kết”. Trong đó, “quyền lợi của đối tác liên kết được trả bằng quyền lợi từ hoạt động quảng cáo, tài trợ hoặc từ nguồn thu phí vii phát thanh, truyền hình theo một phương thức nhất định khi phát sóng chính sản phẩm liên kết của đài phát thanh, truyền hình”. Các hình thức hoạt động liên kết bao gồm: 1. Trao đổi bản quyền chương trình hoàn chỉnh; 2. Trao đổi bản quyền định dạng chương trình; 3. Tổ chức sản xuất chương trình hoặc một phần chương trình; 4. Tổ chức sản xuất toàn bộ kênh chương trình. Điều kiện của đối tác liên kết: 1. Có tư cách pháp nhân và đăng ký kinh doanh theo pháp luật Việt Nam; 2. Đã sản xuất hoặc tham gia sản xuất tối thiểu 03 (ba) chương trình phát thanh, truyền hình được phát sóng khi thực hiện hình thức liên kết quy định tại khoản 3, khoản 4, điều 3 Thông tư này; 3. Có phương án bảo đảm nguồn lực tài chính, nhân sự và cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để thực hiện Hợp đồng liên kết. - Về chỉ đạo xã hội hoá nguồn nhân lực và kỹ thuật trong lĩnh vực truyền hình ở Việt Nam. Dưới góc độ nguồn nhân lực, truyền hình cũng bước vào giai đoạn xã hội hóa quyết liệt. Hiện tại công việc của truyền hình bao gồm rất nhiều ngành nghề khác nhau: quản lý, kỹ thuật, nghệ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị… với các vị trí công tác khác nhau. Tất cả đều có chức năng nhiệm vụ rõ ràng trong hoạt động dây chuyền tạo ra sản phẩm truyền hình. Vì vậy để có những sản phẩm hoàn chỉnh, chất lượng cao, tất cả các công đoạn đều phải có sự phối hợp nhịp nhàng và được hoàn thành với trình độ chuyên môn cao. Yêu cầu công việc cho thấy việc tự đào tạo lẫn nhau, tự nâng cao trình độ là điều cần nhưng chưa thể là điều kiện đủ. Truyền hình sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ của mình khi không tuyển dụng được một nguồn nhân lực có tay nghề cao trong xã hội để phục vụ cho chiến lược phát triển của ngành. Trong hoạt động quản lý ở truyền hình, xã hội hóa các nguồn lực lao động là một xu hướng tất nhiên không thể cưỡng lại được. Trên phương diện kỹ thuật cũng đang dần thể hiện rõ xu thế hóa của truyền hình. Nhờ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, mà các loại thiết bị phục vụ cho sản xuất các chương trình viii truyền hình cũng trở nên ngày một hiện đại, tiện nghi và đặc biệt là rẻ hơn rất nhiều so với trước. Điều này mở ra một khả năng hợp tác vô cùng rộng lớn cho cả truyền hình và công chúng. Về phía công chúng, có thể tham gia trực tiếp vào thực hiện các chương trình truyền hình. Và cũng chính điều ấy mà nội dung, hình thức thông tin của truyền hình sẽ ngày một đa dạng và mới hơn. - Về công tác tổ chức phối hợp giữa các cơ sở sản xuất chương trình truyền hình với các Đài truyền hình Trung ương và địa phương trong việc phát sóng các chương trình truyền hình xã hội hoá. Tổng Công ty Truyền thông Đa phương tiện Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietnam Multimedia Corporation hay Vietnam Television Corporation - VTC) là doanh nghiệp nhà nước, hạch toán độc lập trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam. Trong những năm gần đây VTC đã đẩy nhanh quá trình xã hội hoá truyền hình bằng biện pháp phối hợp giữa các cơ sở sản xuất chương trình truyền hình với các Đài truyền hình Trung ương và địa phương trong việc phát sóng các chương trình truyền hình xã hội hoá. Luận văn đã đưa ra một loạt ví dụ điển hình về sự liên kết. Thứ tám, từ kết quả phân tích thực trạng vai trò nhà nước trong xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam thời gian vừa qua, luận văn đã đánh giá chung chỉ ra những thành tựu đã đạt được và cả những tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới: Về thành tựu, chủ trương xã hội hóa hoạt động Điện ảnh của Đảng và Nhà nước ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Sự ra đời và hoạt động của nhiều hãng phim tư nhân thời gian qua đã tạo sự cạnh tranh lành mạnh và sức sống mới trong hoạt động sản xuất phim, cả ở điện ảnh và truyền hình. Xã hội hóa truyền hình nói chung và xã hội hóa sản xuất phim truyền hình nói riêng là một xu thế tất yếu của một xã hội phát triển. Mặt khác, việc quy định 50% thời lượng phim Việt trên sóng buộc các Đài truyền hình phải mở rộng sự hợp tác làm phim theo hướng xã hội hóa. Sự tham gia của các hãng phim tư nhân làm cho các hãng phim Nhà nước không còn ở thế “độc tôn”, đem đến luồng sinh khí mới cho đời sống phim truyền hình cả nước, tạo ra cuộc cạnh tranh lành mạnh, thúc ix đẩy việc nâng cao chất lượng phim; công chúng có nhiều điều kiện để chọn cho mình món ăn tinh thần ưa thích bởi các phim được sản xuất đa dạng về đề tài, phong phú về cách thể hiện. Xã hội hóa truyền hình cũng giảm được gánh nặng tài chính cho các Đài truyền hình khi đầu tư sản xuất những bộ phim dài tập, nhờ có chủ trương trương xã hội hóa mà các Đài có thêm nguồn kinh phí để đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng cơ sở truyền thông góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Nhờ có chủ trương xã hội hóa truyền hình nên vấn đề ngân sách nhà nước cũng được cắt giảm để bù vào những lĩnh vực kinh tế văn hóa khác. Về hạn chế, Nhà nước hiện nay chỉ có 1 Bộ chủ quản để quản lý và chúng ta mới chỉ quan tâm tới khía cạnh chính trị và kinh tế của truyền thông, nhưng sản phẩm truyền thông ảnh hưởng tới cả đời sống tinh thần và giáo dục đối với rất nhiều thế hệ khán giả. Vì vậy, nhiều vấn đề cần phải đưa vào nội dung quản lý nhà nước với những chế tài giám sát chặt hơn. Xã hội hóa Truyền hình đây là vấn đề xã hội hoá liên quan nhiều đến vấn đề tiền bạc trong con mắt mọi người, nhưng với nhà quản lý, vấn đề được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác. Thành phần tham gia xã hội hoá không chỉ các đơn vị nhà nước mà còn có rất nhiều đơn vị tư nhân. Đây là điều đáng mừng và phù hợp với xu hướng hội nhập trong thời gian tới. Việc tham gia của tư nhân vào lĩnh vực văn hoá, văn nghệ đã làm cho đời sống văn hoá thêm sôi động. Đã đến lúc phải chú trọng đến chất lượng các chương trình phát sóng trên truyền hình. Nguyên nhân của những hạn chế, những tồn tại và hạn chế trong xã hội hoá truyền hình ở nước ta hiện nay được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng có thể nêu ra một số nguyên nhân chủ yếu sau: Tình trạng bán kênh truyền hình chưa được kiểm soát: Hầu hết các đài truyền hình lớn trên cả nước đều có vài kênh, như: VTV, VTC, HTV, BTV, ĐN…, chưa kể số lượng kênh trên truyền hình cáp: HTVC, SCTV, VCTV... đã được nhà nước khuyến khích, cho phép xã hội hóa; Bản quyền phát sóng bị lạm dụng: Vì có nhiều tư nhân tham gia kinh doanh truyền hình (nhưng không có chuyên môn, kinh nghiệm), lại muốn có chương trình lấp đầy sóng và muốn thu hồi vốn nhanh, nên hầu hết các đơn vị kinh doanh truyền hình đều chọn phương án: mua chương trình, mua phim về phát. Rất ít đơn vị tự mình sản xuất chương trình. Nhưng vì nhiều kênh, nhiều đài muốn có phim, có chương trình lấp sóng và chỉ mua giá rẻ, nên nhiều đơn vị bán một phim cho 5, 6 đài (kênh); Tốc độ mở kênh ồ ạt: Hiện nay dù đã có nhiều đài truyền hình với rất nhiều kênh truyền hình, nhưng số lượng này chưa ngừng lại. Trong kế hoạch quy hoạch các kênh truyền hình, x VTV, HTV, VTC tới đây sẽ còn ra thêm nhiều kênh mới. Vấn đề kỹ thuật vẫn là phạm trù rối rắm với khán giả xem đài và là “cuộc chiến” ngầm của các đài truyền hình. Thứ chín, luận văn đã nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong xã hội hoá truyền hình trong thời gian tới: Luận văn nhấn mạnh: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong xã hội hoá truyền hình là nhằm đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động truyền hình để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu văn hoá, tinh thần của nhân dân. Xã hội hoá hoạt động truyền hình là động viên và tổ chức tốt sự tham gia chủ động và tích cực của toàn xã hội trong công tác phát triển ngành truyền hình, là khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực của toàn xã hội, mở rộng các nguồn lực đầu tư cho hoạt động truyền hình như khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực truyền hình, các thành phần kinh tế tham gia vào cung cấp dịch vụ truyền hình . Thực hiện sự công bằng trong quản lý Nhà nước đối với truyền hình công lập và truyền hình xã hội hoá . Tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể ngoài nhà nước tham gia hoạt động và phát huy hiệu quả thiết thực trong phục vụ nhân dân trên lĩnh vực phát thanh, truyền hình; Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với các dịch vụ truyền hình xã hội hoá theo hướng mở rộng hoạt động các dịch vụ truyền hình ngoài nhà nước. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình dịch vụ truyền hình; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng các sản phẩm truyền hình và chương trình truyền hình hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Mở rộng hoạt động dịch vụ truyền hình xã hội hoá là thực hiện chính sách xã hội hoá truyền hình, không phân biệt các thành phần kinh tế, trên cơ sở đảm bảo đủ tiêu chuẩn và điều kiện theo quy định của pháp luật hiện hành thì đều được tham gia hoạt động dịch vụ truyền hình; Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động truyền hình xã hội hoá là nhằm nâng cao chất lượng của dịch vụ truyền hình. Bên cạnh việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ truyền hình và các hình thức liên kết trong xi sản xuất sản phẩm và chương trình truyền hình, còn phải tăng cường sự quan tâm của nhà nước đến việc đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm nghề truyền hình xã hội hoá để không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân; Tăng cường vai trò Nhà nước trong chỉ đạo và triển khai thực hiện xã hội hoá truyền hình. Tuyên truyền để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện chính sách xã hội hoá truyền hình. Thứ mười, Tác giả luận văn đã đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục tăng cường vai trò Nhà nước trong chỉ đạo và triển khai thực hiện xã hội hoá truyền hình bao gồm các nhóm giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy, cơ chế, chính sách đối với hoạt động truyền hình; Hoàn thiện công tác quy hoạch mạng lưới truyền dẫn, phát sóng truyền hình và truyền hình xã hội hoá; Hoàn thiện công tác quản lý mạng lưới truyền hình xã hội hoá; Đổi mới tổ chức bộ máy triển khai xã hội hoá truyền hình; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động dịch vụ truyền hình; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động truyền hình. 1 PHẦN MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài Điện ảnh là ngành nghệ thuật tổng hợp các yếu tố văn học, nghệ thuật, âm nhạc, kiến trúc, nhiếp ảnh... Tác phẩm điện ảnh là bộ phim được hình thành bởi sự sáng tạo nghệ thuật, thể hiện các hình ảnh liên tục và âm thanh, được ghi lại trên phim bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại và chiếu trên màn ảnh, phát trên sóng truyền hình mà không phụ thuộc vào không gian, thời gian để phổ biến rộng rãi đến công chúng. Do đó, tác phẩm điện ảnh mang tính đại chúng, có sức thu hút đông đảo khán giả và cùng lúc có thể phổ cập trên địa bàn rộng, trên phạm vi cả nước và quốc tế, nên có tác động mạnh mẽ trong đời sống xã hội và giao lưu quốc tế. Ngoài lợi ích về kinh tế, tác phẩm điện ảnh còn là một sản phẩm nghệ thuật gắn với định hướng tư tưởng, ảnh hưởng sâu sắc đến tình cảm, đạo đức lối sống của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng con người mới xã hội hội chủ nghĩa. Bước vào cơ chế thị trường trong những năm 80 của thế kỷ trước, điện ảnh cũng như một số ngành nghệ thuật khác rơi vào tình trạng khủng hoảng, các lĩnh vực sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim không còn được Nhà nước bao cấp, nên dẫn đến tình trạng sản xuất phim bị đình trệ, rạp chiếu phim đóng cửa hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng, nạn video đen hoành hành...Tuy nhiên, kể từ khi ban hành Nghị định số 48/1995/NĐ-CP ngày 17 tháng 7 năm 1995 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động điện ảnh cho đến nay, tổ chức và hoạt động của ngành điện ảnh đã có bước phát triển, mang theo một diện mạo mới. Các đơn vị điện ảnh bước đầu được củng cố, một số cơ sở điện ảnh tư nhân được thành lập; hoạt động sản xuất, xuất, nhập khẩu, phổ biến và lưu trữ phim dần dần ổn định; nhiều thành phần kinh tế tham gia 2 vào hoạt động điện ảnh, trong đó bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động điện ảnh ngày càng phát triển mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng xuất hiện nhiều vấn đề mới phức tạp nảy sinh cần có sự quản lý của nhà nước và được điều chỉnh bằng pháp luật như: điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất phim tư nhân, doanh nghiệp nhập khẩu phim gắn với với việc phát triển hệ thống rạp chiếu phim hiện đại...; vấn đề quản lý và sản xuất phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước cho phù hợp với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh; nâng cao chất lượng của các tác phẩm điện ảnh; giải quyết mối quan hệ giữa điện ảnh với truyền hình để bảo đảm việc sản xuất và phát sóng phim truyện Việt Nam trên truyền hình đạt hiệu quả. Hiện nay, nước ta đã tham gia tích cực vào một số tổ chức khu vực và quốc tế, đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, trong đó hoạt động điện ảnhtruyền hình đang từng bước thực hiện xã hội hoá. Do đó, cần tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động điện ảnh sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, hiện nay vai trò quản lý của nhà nước trong hoạt động điện ảnh và phát thanhtruyền hình vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như các văn bản pháp luật hiện hành về hoạt động điện ảnh còn thiếu các quy định về hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài để sản xuất phim, hoạt động điện ảnh có yếu tố nước ngoài; tỷ lệ chiếu phim Việt Nam với phim nước ngoài trong hệ thống chiếu bóng, phát sóng trên truyền hình cũng cần được điều chỉnh để có tính khả thi, đáp ứng trong tình hình mới...Những vấn đề nêu trên gây ra vướng mắc và khó khăn nhất định cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham 3 gia hoạt động điện ảnh trên đất nước ta, chưa tạo sự khuyến khích đối với các thành phần kinh tế tham gia vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh, hạn chế khả năng phát triển của nền điện ảnh nước nhà. Để sớm khắc phục những hạn chế và bất cập trên đây, nhằm thúc đẩy hoạt động điện ảnh phát triển phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò và bản sắc của điện ảnh Việt Nam. Là một cán bộ công tác trong ngành truyền hình, với mong muốn vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn và có những đóng góp thiết thực cho ngành, tôi chọn đề tài "Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam " để viết luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị. II. Tổng quan về tình hình nghiên cứu: Trên phạm vi cả nước, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu chủ yếu dưới dạng các bài báo, các tham luận hội thảo bàn luận về chủ trương XHH hoạt động truyền hình ỏ Việt Nam. Có thể khái quát một số bài báo điển hình sau đây: - “Truyền hình và câu chuyện xã hội hóa…” của Nguyễn Kim Trạch, đăng trên Báo Văn nghệ trẻ, Tạp chí hồn Việt(22/06/2009). Bài báo bình luận và chỉ rõ, gần đây, một số báo có bài viết về “Xã hội hóa truyền hình”, coi đó là xu thế chung tất yếu nhưng đồng thời cũng nêu lên tình hình thực tế trên màn ảnh nhỏ cả nước rằng “tư nhân đang thao túng, thống trị nhiều kênh truyền hình”, các đài truyền hình “bán sóng” cho các công ty kinh doanh chỉ lo kiếm lợi nhuận, còn người thiệt thòi là khán giả. Vậy thực chất câu chuyện này là thế nào? - “Ngành truyền hình đang được tư nhân hóa quyết liệt?”Bài báo đăng trên trang Web, Chủ nhật, 25/07/2010. Bài báo bình luận, bây giờ đầu tư kinh doanh sóng truyền hình được xem vừa thức thời, khuếch trương thanh thế, vừa chứng tỏ “đẳng cấp” doanh nghiệp. Trên thực tế, với danh nghĩa xã hội
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng