Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền con người...

Tài liệu Vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền con người

.PDF
204
50
96

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ THU HẰNG VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI Chuyên ngành: CNDVBC và CNDVLS Mã số: 62 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS CHU VĂN TUẤN 2.PGS.TS. NGUYỄN MINH PHƯƠNG Hà Nội - 2016 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu sử dụng trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Vũ Thị Thu Hằng ii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ASEAN : HIệp hội các quốc gia Đông Nam Á CSO : Tổ chức xã hội dân sự ECOSOC : Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc HĐNQLHQ : Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ICCPR : Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ICESCR : Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa KTTT : Kinh tế thị trường LHQ : Liên hợp quốc NGOs : Các tổ chức phi chính phủ NPOs : Các tổ chức phi lợi nhuận NNPQ : Nhà nước pháp quyền OHCHR : Văn phòng cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc TCXH : Tổ chức xã hội UDHR : Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế UPR : Thủ tục kiểm điểm định kỳ phổ quát XHCD : Xã hội công dân XHDS : Xã hội dân sự iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... v Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................. 1 1.1. Tình hình nghiên cứu về xã hội dân sự .................................................................... 1 1.2. Tình hình nghiên cứu về quyền con người ............................................................ 15 1.3. Tình hình nghiên cứu vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền con người ...................................................................................................................... 21 1.4. Những vấn đề chưa được các nghiên cứu đề cập đến ............................................ 27 Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ, QUYỀN CON NGƯỜI VÀ THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI .............................. 29 2.1. Những vấn đề lý luận chung về xã hội dân sự ....................................................... 29 2.2. Những vấn đề lý luận chung về quyền con người ................................................. 46 2.3. Những vấn đề lý luận chung về thực hiện quyền con người ................................. 61 Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI .................. 73 3.1. Những vấn đề chung về vai trò của xã hội dân sự ................................................. 73 3.2. Những vấn đề cơ bản về vai trò của xã hội dân sự với việc thực hiện quyền con người ...................................................................................................................... 86 3.3. Những khó khăn của xã hội dân sự trong việc thực hiện quyền con người ........ 104 Chương 4. XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI HIỆN NAY ........................................... 115 4.1. Khái quát về xã hội dân sự Việt Nam .................................................................. 115 4.2. Vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra ........................................................................ 134 4.3. Một số đề xuất, kiến nghị về vai trò của xã hội dân sự với việc thực hiện quyền con người.......................................................................................................... 160 KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................... 168 DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN............................................................................................... 172 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 173 PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 1 iv MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhìn lại quá trình phát triển xã hội những năm gần đây, cùng với sự xâm nhập của nền văn minh công nghiệp, quyền lực kinh tế và quá trình dân chủ hóa xã hội, quyền con người đang nổi lên như một vấn đề toàn cầu, được cộng đồng quốc tế và các quốc gia không phân biệt hệ tư tưởng, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa, trình độ phát triển, v.v.. coi trọng, xem đó như một thành tựu của nền văn minh hiện đại, là thước đo của sự tiến bộ xã hội. Sự phát triển của quyền con người một mặt gắn liền với những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử và sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thể loài người; mặt khác, gắn liền với các học thuyết triết học về quyền con người, về bản chất con người, đóng vai trò là cơ sở, tiền đề lý luận cho sự hình thành và phát triển của quyền con người. Jean Jacques Rousseau nói, “người ta sinh ra tự do” [54, tr.52], bởi vậy họ có quyền, bởi quyền chính là khả năng, là sự tự do lựa chọn các hành động, các cơ hội sống của mình. Do đó, mỗi con người khi sinh ra đã mang quyền của mình trong đó, nó là cái vốn có. Nhưng, trên thực tế, nó vừa là cái vốn có lại vừa là cái không phải tự nhiên. Cụ thể, ngay tiếp câu dẫn ở trên của mình, Rousseau nói tiếp: “Nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích” [54, tr.52]. Con người trong thời kỳ chưa sống trong những cộng đồng xã hội, không bị ràng buộc bởi những chế định xã hội, họ sống bản năng nhiều hơn, nhưng bản thân họ lại gặp nhiều thử thách, bị mất an ninh, bị lạm dụng hoặc họ lại sử dụng tự do của mình một cách thái quá, ảnh hưởng đến tự do của người khác. Đến khi sản xuất phát triển hơn, yêu cầu về sự sống cấp bách hơn, con người đã thiết lập cho mình những cộng đồng người có tổ chức để có thể sinh sống an toàn, tự do trong đó. Nhưng, ngay cả khi những cộng đồng người có tổ chức được thiết lập thì sự khác nhau về văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, lịch sử trong những điều kiện sinh sống nhất định, trong những hoạt động nhất định cũng dẫn đến sự ràng buộc, lệ thuộc và xâm nhập vào tự do của nhau. Trong cộng đồng xã hội, mỗi người không chỉ thực hiện tự do của mình, ý chí của mình mà còn thực hiện những ý chí chung khác. Mỗi người lại có một lựa chọn riêng trong việc giải quyết các vấn đề của họ, do vậy không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, những vi phạm trong thực hiện quyền con người. Vậy làm thế nào để thực hiện quyền của người này mà không vi v phạm quyền của người khác; làm thế nào để đảm bảo, duy trì và phát triển các quyền của con người. Có chăng, họ phải tìm cho mình một hình thức liên kết chính trị để nhân loại có thể được bảo an nhưng không mất đi quyền tự do. Trong quá trình luận giải những vấn đề trên, để tìm kiếm các cách thức bảo đảm các quyền của con người, các lý thuyết đã đưa đến các yếu tố như nhà nước và pháp luật. Nhưng, ngay cả khi các cá nhân từ bỏ trạng thái tự nhiên chuyển sang trạng thái dân sự thì xuất hiện các mâu thuẫn giữa tự do cá nhân và nghĩa vụ phục tùng đời sống xã hội, mâu thuẫn giữa tính chuyên chế của đa số chống lại thiểu số, hay chế độ độc tài. Bản chất của quá trình phát triển là sự mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn, do đó, các quan hệ dân sự (các quan hệ không mang tính quyền lực trực tiếp như quan hệ giữa công dân với nhà nước, quan hệ gia đình) trong đời sống đã góp phần giải quyết phần nào mâu thuẫn này và tác động lớn đến việc thực hiện các quyền con người. Bởi ngoài việc ủy quyền cho nhà nước thực hiện các công việc của mình, người dân còn tự thực hiện các quyền của họ. Đây là cơ sở để hình thành nên xã hội dân sự (XHDS) và là điểm cơ bản để XHDS thực hiện vai trò của mình. Bên cạnh đó, những vấn đề nảy sinh cùng với quá trình phát triển như vấn đề môi trường, khủng hoảng kinh tế, di cư quốc tế…đã là những cản trở rõ ràng cho việc thực hiện các quyền con người. Những vấn đề này đã cung cấp động lực cần thiết cho việc mở rộng, phát triển XHDS đối với việc bảo đảm, thực hiện quyền con người trên toàn thế giới. Trên thực tế, XHDS thực hiện nhiều chức năng và vai trò khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và thế giới… Từ đó, XHDS đã có nhiều phương pháp, sáng kiến và huy động được nhiều nguồn lực trong việc thực hiện quyền con người ở nhiều quốc gia khác nhau, nhất là cho những người yếu thế ở các quốc gia mà có các tổ chức XHDS hoạt động. Những năm gần đây, XHDS phát triển mạnh ở tất cả các quốc gia, ở Mỹ có tới 1,5 triệu tổ chức, sở hữu khối lượng tài sản trị giá 500 tỷ USD, ngay cả ở những nước kém phát triển hơn số lượng tổ chức XHDS cũng rất nhiều như Hungari là 400.000; Brazil gần 45.000 tổ chức…, các tổ chức này đã sử dụng một lực lượng lao động tự nguyện khổng lồ tập trung cho các lĩnh vực chính như giáo dục, sức khỏe và dịch vụ xã hội [36, tr.1]. Từ thực tế đó cho thấy, việc phát huy vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. vi Ở nước ta, từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, cùng với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã tạo ra những cơ sở, điều kiện để hình thành XHDS và hiện thực hóa các quyền con người. Vấn đề đặt ra ở đây là với một thể chế xã hội đang hình thành, đang hoàn thiện thì vai trò của nó với việc thực hiện quyền con người sẽ được xem xét, giải quyết như thế nào? Nhất là trong điều kiện một đảng duy nhất lãnh đạo, trong một nền kinh tế đang chuyển đổi với trình độ dân trí chưa cao, người dân vẫn chưa ý thức, chưa chủ động được quyền của mình. Trong khi đó quyền con người lại là một vấn đề lớn, vừa thuộc về phạm trù đạo đức, chính trị lại thuộc về phạm trù pháp lý, để thực hiện được nó phải cần có một chiến lược lâu dài, phải có sự kết hợp giữa các chủ thể khác nhau, và sự ý thức và chủ động hành động của bản thân mỗi cá nhân trong xã hội. Thực tế cho thấy, với Nghị quyết số 8B-NQ/TW khóa (VI) ngày 27-3-1990 của Đảng đã nêu ra chủ trương; trong giai đoạn mới dần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật; đến nay, cùng với việc ban hành nhiều văn bản pháp luật khác tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức này ra đời và phát triển. Các tổ chức này ngày càng ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong quá trình phát triển và đã tham gia tích cực, chủ động trong nhiều lĩnh vực [27, tr.3]. Do đó, xuất phát từ mong muốn đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ giữa XHDS và quyền con người để có thể trả lời cho những câu hỏi về quá trình thực hiện quyền con người dưới sự tác động, ảnh hưởng của XHDS trên thế giới? quá trình này dựa trên những nguồn lực, yếu tố nào và để đảm bảo thực hiện nó trên thực tiễn thì cần phải hành động ra sao? ai sẽ là người cung cấp nguồn lực, kinh nghiệm và trang bị phương pháp cho quá trình này? và đặc biệt, ở Việt Nam, mối quan hệ này sẽ được biểu hiện ra sao trong hoàn cảnh chính trị xã hội đặc thù để có thể hướng tới mục tiêu vì sự phát triển toàn diện của con người, tác giả đã quyết định lựa chọn chủ đề: “Vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền con người” để tiến hành nghiên cứu làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích vii Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về XHDS, quyền con người, thực hiện quyền con người và vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người, luận án phân tích vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm phát huy vai trò của XHDS trong việc thực hiện quyền con người. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nêu trên, cần thực hiện 4 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau: Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu về XHDS, quyền con người, thực hiện quyền con người và vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người trên thế giới và Việt Nam. Thứ hai, nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận chung về XHDS, quyền con người, thực hiện quyền con người. Thứ ba, phân tích, làm rõ những vai trò cơ bản của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người, đồng thời, chỉ ra những khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện vai trò này. Thứ tư, trình bày khái quát về XHDS ở Việt Nam, vai trò của XHDS Việt Nam trong quá trình thực hiện quyền con người. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm phát huy vai trò của XHDS trong quá trình thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu vào một số vấn đề liên quan đến XHDS, quyền con người, thực hiện quyền con người và những vai trò cơ bản của XHDS đối với quá trình thực hiện quyền con người. Đồng thời, luận án cũng nghiên cứu vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian nghiên cứu: Luận án tập trung vào việc nghiên cứu, khảo sát XHDS, các vai trò cơ bản của XHDS đối với quá trình thực hiện quyền con người nói chung và ở Việt Nam nói riêng. viii Về thời gian nghiên cứu: Luận án khảo sát sơ lược tiến trình phát triển XHDS, Quyền con người trong lịch sử và việc thực hiện quyền con người được khảo sát từ năm 1948 khi Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được thông qua và những nghiên cứu về XHDS ở Việt Nam được khảo sát từ năm 1990 đến nay khi chính sách về đổi mới của Đảng và Nhà nước đã làm cho không gian XHDS được mở rộng hơn. 4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cách tiếp cận Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận án sử dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội như là triết học, chính trị học, xã hội học, luật học, triết học - chính trị học, triết học - xã hội học, triết học - luật học … 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành của Triết học và khoa học xã hội khác có liên quan như phương pháp lôgic - lịch sử, quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, dự báo, v.v.. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về XHDS, quyền con người và thực hiện quyền con người. - Luận án làm rõ hơn vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người dưới góc độ triết học. - Luận án nêu lên những đặc điểm cơ bản của XHDS ở Việt Nam và vai trò, những thách thức của nó đối với quá trình thực hiện quyền con người, từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm phát huy vai trò của XHDS trong việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về mặt lý luận Luận án đã góp phần bổ sung các nghiên cứu lý luận về XHDS, quyền con người và thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Đặc biệt, luận án góp phần phân tích, luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người. 6.2. Về mặt thực tiễn Luận án góp phần nâng cao nhận thức của cả xã hội nói chung, các chủ thể lãnh ix đạo, quản lý xã hội và bản thân các tổ chức XHDS nói riêng về XHDS, vai trò của XHDS, nhất là vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người. Những đề xuất, kiến nghị của luận án có thể cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách xã hội có liên quan đến lĩnh vực XHDS và quyền con người. Đồng thời, luận án cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn cho các cơ quan nhà nước trong công tác quản lý gắn với các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam. Ngoài ra, luận án có thể tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu về triết học, chính trị học, xã hội học về XHDS, quyền con người, v.v.. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được chia làm 4 chương, 13 tiết. x Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu về xã hội dân sự 1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Xã hội dân sự là một vấn đề không mới đối với các nhà nghiên cứu. Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo quốc gia, bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí... về vấn đề này theo nhiều hướng khác nhau: Thứ nhất, tập trung vào khái niệm, đặc điểm, vai trò, cấu trúc hoạt động của XHDS ở Việt Nam và trên thế giới. Cuốn sách Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc do tác giả Vũ Duy Phú chủ biên đã nêu lên những vấn đề khá rõ ràng về XHDS khi đi từ lịch sử vấn đề và khái niệm, đến vai trò và những dấu hiệu, biểu hiện của XHDS trong bối cảnh mới. Các tác giả đã nhấn mạnh sự tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức, tự do dân chủ trong phát triển XHDS, những cơ hội và thách thức đối với XHDS, từ đó cho rằng, phát triển XHDS thông thái tương xứng với nhà nước pháp quyền hiện đại là nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam trong thế kỷ XXI. Cuốn sách này đã cung cấp những thông tin khá cụ thể về XHDS Việt Nam như cấu trúc, môi trường, giá trị tác động, những hạn chế và điểm mạnh của xã hội này. Tác giả Vũ Văn Nhiêm, trong Vài nét về xã hội dân sự trong lịch sử và kinh nghiệm đối với nước ta đã khẳng định, “XHDS” là quan niệm xuất hiện khá sớm, gắn liền với sự phát triển của nhà nước công dân Hy Lạp - La Mã cổ đại và phát triển mạnh vào thời kỳ Khai sáng; theo tác giả, bản chất của XHDS là dân chủ, quá trình dân chủ hóa gắn liền với sự hình thành phát triển của XHDS. Tác giả Lê Thị Thanh Hương với cuốn sách Xã hội dân sự ở Malaysia và Thái Lan đã cung cấp những hiểu biết cơ bản về quá trình hình thành cũng như thực trạng XHDS ở hai quốc gia này. Để thấy được sự khác biệt và tương đồng giữa các quốc gia này so với cách nhìn nhận của phương Tây về XHDS, từ đó có thể gợi mở những kiến giải, hoặc đơn thuần là đưa ra một mô hình XHDS đặc thù nhằm giúp cho việc phát triển XHDS bền vững ở một nước có mô hình chính trị riêng như Việt Nam. Cuốn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội dân sự ở Liên minh châu Âu của tác giả Đinh Công Tuấn đã từ những nghiên cứu có hệ thống về khái niệm cơ bản, 1 nguồn gốc, sự hình thành và phát triển XHDS ở EU nói chung, ở từng nước đại diện cho các mô hình phát triển kinh tế - xã hội như Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển, Hungari, Ba Lan, Slovakia, để chỉ ra mặt tích cực, tiêu cực trong quá trình thực hiện XHDS ở các nước này. Theo tác giả, với ý nghĩa truyền thống XHDS là khoảng không gian nằm giữa nhà nước, thị trường và gia đình, nơi mọi người cùng bắt tay nhau để xây dựng, thúc đẩy quyền lợi chung của xã hội và cá nhân trong xã hội. Ngày nay, nó được hiểu là một xã hội tốt đẹp, một đời sống hiệp hội, một lĩnh vực công cộng được hình thành trên cơ sở tự nguyện, tự tổ chức, tự chủ, đa dạng, phi lợi nhuận, phi thương mại, hành động tập thể, giải trình cao, minh bạch… với các chức năng về kinh tế, xã hội, chính trị, các chức năng này đã quy định vai trò XHDS như vận động chính sách, điều tiết nền chính trị dân chủ, thực hiện các dịch vụ công, thúc đẩy quá trình xã hội hóa và tạo ra, duy trì sự đoàn kết trong xã hội. Ngoài ra, cuốn sách cũng đưa ra các tiêu chí đánh giá về cấu trúc (cơ sở hạ tầng, phạm vi) thể chế, tổ chức, mạng lưới, các cá nhân, thành tố, nguồn lực; môi trường (không gian kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, pháp lý..); các giá trị gồm dân chủ, minh bạch, khoan dung, phi bạo lực, bình đẳng giới…; tác động, ảnh hưởng tới các vấn đề chung của xã hội. Tác giả Bùi Quang Dũng với bài viết Xã hội dân sự: khái niệm và các vấn đề đã điểm lại các quan điểm về XHDS và nhấn mạnh các định nghĩa phổ biến về XHDS hiện nay đều nhấn mạnh tới tinh thần tự nguyện của công dân trong việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và giá trị của mình. Theo đó, XHDS được tạo lập bởi các đoàn thể nhằm kết nối giữa những nhóm quyền lợi hiện đại và những tổ chức truyền thông, giữa các tổ chức chính thức và phi chính thức. Từ đó, tác giả cho rằng, ở Việt Nam, ngoài các tổ chức xã hội truyền thống, nhiều tổ chức xã hội mới đã và đang ra đời, đang tích cực tham gia và đóng góp vào nhiều hoạt động xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong điều kiện mới. Tác giả đã xác định vai trò của XHDS như: "Củng cố phát triển và dân chủ (dân chủ thực sự); tăng cường trách nhiệm giải trình, tính công khai và phản hồi của cơ quan Nhà nước, cũng như tăng cường sự tham gia và phổ biến thông tin đến người dân; tham gia ngày càng tích cực vào quá trình cung cấp dịch vụ, từ đó XHDS có một vai trò quan trọng trong việc đòi hỏi và thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân của mình. 2 Tác giả Trần Tuấn Phong, trong bài viết Xã hội công dân và xã hội dân sự từ Aritxtot đến Hêghen đã trình bày khái quát sự biến đổi khái niệm xã hội công dân/XHDS trong lịch sử tư tưởng triết học chính trị từ Arixtốt đến Hêghen. Tác giả đi từ quan niệm của Arixtốt về cộng đồng chính trị - một khái niệm được coi là tiền thân của khái niệm xã hội công dân/XHDS sau này. Đặc biệt, tác giả đã làm rõ sự kế thừa và phát triển của Hêghen đối với quan điểm của Arixtốt về xã hội công dân. Theo tác giả, tư tưởng của Hêghen về XHDS và nhà nước tuy mang tính duy tâm, song những luận điểm của ông đóng vai trò nhất định trong sự hình thành tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen về XHDS. Tác giả cũng cho rằng, xung quanh việc nhận định về XHDS hiện còn nhiều bàn luận khác nhau, từ đó dẫn đến những cách hiểu khác nhau về mối liên hệ giữa xã hội công dân/XHDS, gia đình, thị trường và nhà nước. Đề tài cấp bộ Cơ sở triết học và thực tiễn của việc xây dựng xã hội dân sự do PGS,TS. Phạm Văn Đức, Viện Triết học chủ nhiệm (2007-2009) đã tiếp cận các vấn đề XHDS từ góc độ triết học, đặc biệt là góc độ lịch sử triết học trình bày tương đối đầy đủ, chi tiết về lịch sử phát triển của khái niệm này từ Aristot, đến Th.Hobbes và J.Locke, Montesquieu, J.J.Rousseau, I.Kant,G.V.Hegel và C.Mác đến các quan điểm hiện đại của chủ nghĩa cộng đồng, cộng hòa...) và chứng minh bằng các mô hình XHDS thực tiễn ở một số nơi trên thế giới như: Anh, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore. Từ đó xác định các bản chất, đặc trưng và điều kiện để xây dựng XHDS, góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng XHDS ở Việt Nam hiện nay. Luận án “An ninh của xã hội dân sự trong bối cảnh toàn cầu hóa” của NCS Trần Việt Hà đã góp phần làm rõ các khái niệm xã hội dân sự Luận án đã góp phần làm rõ các khái niệm: “Xã hội dân sự”, “An ninh”, “An ninh của xã hội dân sự”, “An ninh con người”. Luận án đã làm rõ những điểm mới trong nội dung khái niệm "an ninh của xã hội dân sự" khi đặt vào bối cảnh toàn cầu hóa. An ninh của xã hội dân sự là trạng thái trật tự, kỷ cương, an toàn về thân thể và ổn định về mặt tinh thần. Nói cách khác, an ninh của xã hội dân sự chính là một một phương diện của an ninh con người nhằm tạo ra sự an toàn về thân thể, ổn định về mặt tinh thần, phát triển bình thường của các cá nhân. Mục tiêu an ninh của xã hội dân sự là làm sao cho cộng đồng ấy có được trạng thái trật tự và ổn định, những cá nhân ở trong đó thoát khỏi cảm giác 3 lo sợ, bất an và được an toàn về mặt thân thể. Bên cạnh đó, Luận án góp phần chứng minh rằng, toàn cầu hóa gây ra các yếu tố “bất định” và “rủi ro” và đó chính là những thách thức mới đối với an ninh của XHDS. Góp phần làm rõ tính tất yếu của sự chuyển dịch từ an ninh “truyền thống” sang “phi truyền thống”. Rút ra một số bài học nhằm bảo đảm an ninh con người trong quá trình hội nhập của Việt Nam hiện nay. Ngoài những bài viết trên, một số tác giả khác đã đề cập đến vấn đề này như: Nguyễn Thanh Tuấn, Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Đình Tường, Trần Hữu Quang, Đinh Công Tuấn, Tống Đức Thảo, v.v.. Thứ hai, nhóm các công trình làm rõ mối quan hệ tác động qua lại giữa nhà nước, XHDS và KTTT. Ở nhóm này, các tác giả Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh với tác phẩm Quan hệ giữa Nhà nước và XHDS Việt Nam lịch sử và hiện tại; Đào Trí Úc với bài viết Mối liên hệ giữa nhà nước với XHDS và vấn đề cải cách hành chính; Hoàng Ngọc Giao, XHDS với nhà nước và thị trường; Trần Ngọc Hiên, KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền và XHDS nước ta; Phạm Thị Ngọc Trầm, Nhà nước pháp quyền, XHDS với vấn đề về quyền và nghĩa vụ công dân; Đinh Ngọc Vượng, XHDS và nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; Hà Thị Mai Hiên, XHDS và cá nhân trong Nhà nước Pháp quyền; Đỗ Hoài Nam (chủ nhiệm) Đề tài cấp nhà nước Mối quan hệ giữa NNPQ, KTTT, XHCD, v.v.. đã trình bày các vấn đề cơ bản về việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong mối quan hệ giữa XHDS và nền KTTT, trong đó nhà nước pháp quyền phải được xây dựng trên nền tảng của XHDS và việc xây dựng nhà nước pháp quyền phải được tiến hành đồng thời với nhau. Cũng có tác giả cho rằng, 3 yếu tố nhà nước pháp quyền, XHDS, KTTT phải bổ sung cho nhau, làm tiền đề cho nhau và cùng phục vụ lợi ích của nhau. Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu thực trạng xã hội dân sự và đánh giá ban đầu về các yếu tố hình thành, phát triển XHDS Việt Nam. Đã có nhiều nhà nghiên cứu, Viện nghiên cứu tiến hành các dự án nghiên cứu về thực trạng XHDS Việt Nam trên các góc độ, từ tổ chức, hoạt động đến sự ảnh hưởng của chúng đối với đời sống xã hội, như: Trong những năm 2000, Viện Xã hội học đã tiến hành khảo sát về Hệ thống chính trị cơ sở - Xem từ nhân dân thu thập dữ 4 liệu về nông thôn của người dân sự hiểu biết và ý kiến về hệ thống chính trị ở cấp làng, xã, bao gồm cả xã hội tổ chức chính trị (Trịnh Duy Luân, 2002); Phối hợp với các nhà nghiên cứu quốc tế về nghiên cứu kết hợp các kỹ thuật định tính và định lượng về tổ chức dân sự tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (dự án COHH) trong các nghiên cứu của mình. Đây là dự án đầu tiên sử dụng hình thức điều tra xã hội học để nghiên cứu về các tổ chức XHDS Việt Nam. Tiếp đó, năm 2002-2003, IOS thực hiện hai dự án về những nỗ lực tập thể và phong trào xã hội, trong đó một số tổ chức chính trị xã hội, hiệp hội và các trung tâm phi chính phủ đã được Bùi Thế Cường và các cộng sự nghiên cứu. Sang đến giai đoạn cuối những năm 2000 việc nghiên cứu XHDS Việt Nam đã đi vào thực tiễn hơn, các dự án Phòng chống tham nhũng - đánh giá hiện trạng và xây dựng năng lực trong phòng chống tham nhũng cho các TCXH và các cộng đồng nông thôn do sự hỗ trợ bởi Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam (2008). Ngoài ra, một số nghiên cứu của Bùi Thế Cường và Thaveeporn (2008) về cơ chế chính thức cho đối thoại giữa các cơ quan nhà nước, quốc hội và các tổ chức XHDS Việt Nam đã chỉ ra những đặc thù về các TCXHDS Việt Nam, hay nghiên cứu của TS Nguyễn Quang A và Bạch Tân Sinh về các hình thức cam kết hợp tác giữa cơ quan nhà nước và các tổ chức XHDS Việt Nam. Mới đây, Chương trình viện trợ Ailen: Tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính phủ trong Chương trình Quốc gia Việt Nam (2010), đã tiến hành các hạng mục thúc đẩy, tăng cường năng lực của các VNGO trong việc cung cấp các dịch vụ, xây dựng chính sách, hoạt động cộng đồng. Dự án “Sự trao quyền của tổ chức xã hội trong việc vận động và phát triển chính sách ở Việt Nam”, do quỹ Dân chủ Quốc gia Hoa Kỳ (UNDEF) tài trợ, năm 2012, với sự tham gia của hơn 40 tổ chức xã hội và đại diện của các cơ quan chính phủ liên quan. Bên cạnh đó, còn nhiều các dự án nghiên cứu về XHDS Việt Nam đã và đang được các tổ chức quốc tế tài trợ. Nhiều tác giả đã xuất bản sách, bài báo về XHDS Việt Nam: Năm 1996, Nguyễn Khắc Mai xuất bản cuốn sách Vị trí và vai trò của các Hiệp hội nhân dân ở đất nước chúng ta. Bài báo Xã hội dân sự và phi chính phủ tại Việt Nam, tác giả Bạch Tân Sinh xem xét lại sự phát triển và những khó khăn phải đối mặt của các tổ chức dân sự Việt Nam. Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Lê Bạch 5 Dương và các cộng sự đã mô tả các đặc tính của các loại hình tổ chức dân sự và nghiên cứu trường hợp một số tổ chức công dân. Năm 2002, cuốn sách Vai trò của các hiệp hội trong đổi mới và Phát triển quốc gia của tác giả Thang Văn Phúc đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về các vấn đề lý thuyết của các tổ chức dân sự và một hình ảnh của Hội người Việt Nam cũng như các NGO quốc tế hoạt động tại Việt Nam. Cuốn sách Vai trò của tổ chức xã hội đối với phát triển và quản lý xã hội của TS.Thang Văn Phúc và PGS,TS. Nguyễn Minh Phương đã nêu lên một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của các tổ chức xã hội (TCXH) đối với phát triển xã hội như khái niệm, cơ sở, nguyên tắc hình thành và hoạt động của tổ chức xã hội, vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội bao gồm nhận thức về vai trò của TCXH ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam, quá trình hình thành, phát triển xu hướng của TCXH ở nước ta. Từ đó, tác giả đã khái quát lại những thành quả trong hoạt động của các tổ chức xã hội ở nước ta hiện nay như các hội chính trị - xã hội, hội chính trị - xã hội nghề nghiệp, hội nhân đạo, từ thiện, hội xã hội nghề nghiệp và các hiệp hội kinh tế. Qua đó, đưa đến cho người đọc một hình dung khá tổng thể về sự biến đổi, đóng góp của các TCXH ở nước ta trong những năm qua. GS. Tương Lai với bài viết Xã hội dân sự và mấy vấn đề của các tổ chức xã hội dân sự đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp luật, số 4/2007, sau khi điểm những lại những khái niệm về XHDS tác giả đã nêu lên vai trò của XHDS được thể hiện qua hoạt động của các tổ chức xã hội, của nhân dân khi tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội và phản biện xã hội. Tác giả làm rõ việc TCXH sẽ tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội chính là các tổ chức thực hiện liên kết ngang, tạo nên cấu trúc của XHDS mà chúng ta đang cố gắng hình thành gắn liền với xây dựng nhà nước pháp quyền. Song, dù lập luận như vậy nhưng tác giả vẫn băn khoăn rằng, khái niệm TCXH sẽ tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội có gồm cả các tổ chức xã hội đã tham gia vào MTTQVN và các tổ chức xã hội nằm ngoài Mặt trận không? Cuốn sách Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành và phát triển xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, của GS. Dương Xuân Ngọc xuất bản năm 2009 đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề từ cơ sở, tiền đề đến thực trạng hình thành, phát triển XHDS Việt Nam. Đặc biệt, công trình này đã luận giải mô 6 hình XHDS định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm những đặc điểm gì, nội dung hoạt động, vai trò, hạn chế ra sao và giải pháp hoàn thiện mô hình này trong tương lai. Qua đó, cung cấp cho tác giả luận án tài liệu tham khảo và những gợi mở mang tính định hướng khi bắt tay vào thực hiện nghiên cứu của mình. Đề tài khoa học cấp Bộ Lý luận về xã hội công dân - Một số vấn đề xây dựng xã hội công dân ở Việt Nam năm 2010 do TS. Ngô Huy Đức chủ nhiệm đã trình bày khái quát các quan niệm về XHCD trong lịch sử tư tưởng chính trị phương Tây. Bên cạnh đó, đề tài cũng phân tích cơ sở hình thành và điều kiện tồn tại của XHCD trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội… vai trò, bản chất, chức năng của XHCD. Ngoài ra, các vấn đề như XHDS toàn cầu như một hình thức phát triển của XHCD trong xã hội hiện đại. Ngoài ra, nhóm tác giả đã nêu lên những đặc điểm, quan hệ giữa XHCD và NNPQ ở Việt Nam, nhưng, phần này chưa thực sự được chứng minh bằng những căn cứ thực tiễn. Việc nghiên cứu tập trung vào XHDS Việt Nam (XHDSVN) đã được nhiều tác giả đưa ra những kiến giải riêng như tác giả Nhạc Phan Linh với Luận án tiến sĩ xã hội học Vai trò liên kết xã hội và tạo vốn xã hội của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay đã tập trung đánh giá vai trò của các tổ chức XHDS theo hướng tiếp cận liên kết xã hội và cung cấp vốn xã hội cho người dân. Tác giả đã sử dụng khung phân tích từ hướng tiếp cận xã hội học cho việc nghiên cứu này qua hai lý thuyết liên kết xã hội của Talcost Parsons, và lý thuyết tạo vốn xã hội của Pierre Bourdieu làm cơ sở cho việc nghiên cứu và đánh giá mức độ đóng góp của các tổ chức xã hội dân sự (CSO) cho sự phát triển kinh tế, xã hội thông qua các dữ liệu định tính và định lượng về việc thúc đẩy các liên kết xã hội và cung cấp vốn xã hội cho người dân. Đó là các đóng góp cho mục tiêu phát triển thiên niên kỷ ở Việt Nam, cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) và nền KTTT (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận án cũng đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò liên kết xã hội và tạo vốn xã hội của các CSO ở Việt Nam đó là nhà nước, thị trường và ngay bản thân các yếu tố nội tại của XHDS từ đó đưa ra các nhóm giải pháp đẻ tăng cường vai trò của XHDS trong nền KTTT định hướng xã hội ở Việt Nam. Đây là một hướng tiếp cận mới và tác giả đã có những nghiên cứu chi tiết, khoa học làm nổi bật vai trò liên kết xã hội và tạo vốn xã hội của XHDS Việt Nam, qua đây cung cấp cho người làm luận án này những kiến thức và 7 những ví dụ thực tiễn quý giá. Điểm đáng tiếc là luận án vẫn chưa đưa ra một khái niệm rõ ràng về XHDS Việt Nam, mà mới chỉ đưa ra điểm nối bật của XHDS Việt Nam là các tổ chức xã hội tạo thành XHDS rộng lớn và đi liền với đó là những khuynh hướng hoạt động đúng định hướng và theo quy định của pháp luật [36, tr.45]. Luận án “Xã hội công dân trong việc bảo đảm và phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Bùi Việt Hương bảo vệ năm 2012 tập trung nghiên cứu sâu về những tác động của XHCD đến dân chủ như: Tác động từ góc độ giá trị, đến cơ chế ra quyết định, đến quá trình cải biến và nhận thức của người dân. Theo tác giả nội hàm của XHCD Việt Nam bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các tổ chức cộng đồng khác (đây cũng chính là điểm tranh cãi của nhiều người nghiên cứu về XHDS VN vì cho rằng các tổ chức chính trị - xã hội không thuộc XHDS), thực trạng tác động của XHCD đối với dân chủ ở Việt Nam, những vấn đề đặt ra và những giải pháp để xây dựng, hoàn thiện vai trò của XHCD đối với quá trình thực hiện dân chủ ở Việt Nam. Có thể nói, đây là một luận án hay, cung cấp cho người đọc một cái nhìn cụ thể hơn về tác động của XHDS đối với dân chủ. Nghiên cứu XHDS Việt Nam không thể thiếu việc nghiên cứu nó trong mối quan hệ với hệ thống chính trị Việt Nam, vì thế cuốn sách Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam của GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Bùi Đình Bôn (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc gia (2008) đã làm rõ hơn vấn đề này. Cuốn sách đã đi sâu vào phân tích mối quan hệ của các yếu tố trong hệ thống chính trị Việt Nam như Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và các tổ chức các tổ chức chính trị - xã hội. Thực chất của quan hệ này là quan hệ với nhân dân, với xã hội, lấy dân làm gốc, xuất phát từ dân và hướng đích mọi hoạt động vào việc phục vụ nhân dân, tôn trọng và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trên căn cứ quan trọng nhất để xác lập và giải quyết mối quan hệ nội tại giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là Đảng và Nhà nước. Qua cuốn sách này, luận án sẽ làm nổi bật được tính đặc thù khi nghiên cứu về XHDS Việt Nam. Tiếp đến là những nghiên cứu của Hồ Bá Thâm, Xã hội dân sự, tính đặc thù và vấn đề ở Việt Nam; Trần Hữu Quang, Khái niệm xã hội dân sự; TS. Dương Quang Trung, Vài nét về cơ cấu xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay, v.v.. Bên cạnh những bài 8 báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu còn có các buổi hội thảo về XHDS. Các cuộc hội thảo này đã phần nào thu hút được sự quan tâm của giới học giả và công chúng, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề còn băn khoăn về XHDS nói chung và XHDS Việt Nam nói riêng. Như vậy, với những khảo sát trên có thể thấy, việc nghiên cứu về XHDS Việt Nam đã và đang được đặt ra trong tiến trình phát triển chung về quan niệm này trên toàn thế giới. Có những quan điểm khác nhau về việc có hay chưa có XHDS ở việt Nam. Bản thân sự tranh cãi này đã là một tiền đề để thấy rằng XHDS đã và đang tồn tại ở Việt Nam. Mặc dù đa số các học giả đều đồng ý với việc cần xây dựng phát triển XHDSVN, nhưng vẫn băn khoăn XHDSVN thực sự là như thế nào? Có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh việc trả lời câu hỏi này và ngay cả nội hàm XHDS Việt Nam cũng chưa thống nhất như việc có để các tổ chức chính trị - xã hội là thành phần của XHDS hay không cũng chưa thống nhất. Nhóm nghiên cứu thuộc nhóm chính trị học, xã hội học phần lớn vẫn đặt tổ chức chính trị xã hội vào XHDS và cho rằng đó là điểm đặc thù của XHDS hình thành trong điều kiện một đảng cầm quyền và nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý như ở Việt Nam. Các nhóm nghiên cứu kinh tế, triết học thì cho rằng quan điểm đó không phù hợp, vì như vậy tính đặc trưng của XHDS bị mất đi, tính độc lập bị chi phối và vai trò bị suy giảm. Ngoài ra, những tranh luận về định hướng phát triển của XHDS trong tương lai, những giải pháp để thúc đẩy vai trò của yếu tố này trong phát triển xã hội vẫn là những chủ đề. Theo Báo cáo đánh giá ban đầu về XHDS Việt Nam: Xã hội dân sự là diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi [2, tr.9]. Trong bản báo cáo này, các tác giả đề cao yếu tố tự quản, tự tổ chức và vai trò của các tổ chức của XHDS; đề cao tự do, tự chủ cá nhân và sở hữu tư nhân; gần như tách bạch vai trò của XHDS - Nhà nước và KTTT. Vì lấy tiêu chí xây dựng XHDS theo quan điểm của chủ nghĩa Tự do và chủ nghĩa Tân tự do (XHDS có thể được xem là một thực thể tồn tại độc lập và có phần đối lập với Nhà nước, giống như một lĩnh vực thứ 3 - lĩnh vực này bao gồm các hiệp hội phục vụ lợi ích của các công dân tự do, đó là “các tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ của phương Tây” (NPOs/NGOs) bên ngoài và đối lập khu vực Nhà nước và thị trường) nên bản đánh giá cho rằng XHDS ở Việt Nam là rất yếu. 9 Cũng theo báo cáo này, XHDS tại Việt Nam được nhìn nhận như là các hoạt động của tất cả các tổ chức XHDS bao gồm: các tổ chức quần chúng, các hiệp hội nghề nghiệp, các NGO Việt Nam, các tổ chức không chính thức cấp cơ sở và các tổ chức dựa trên cơ sở cộng đồng. Báo cáo đã ghi nhận, số lượng các nhóm không chính thức được thành lập ở cấp cộng đồng, ít chịu sự quản lý trực tiếp từ Nhà nước đang tăng lên. Các nhóm này có ít ảnh hưởng trực tiếp tới chính sách, mà chủ yếu là hỗ trợ cho các hoạt động đời sống của người dân cấp cơ sở. Các NGO quốc tế, những nhà tài trợ song phương và đa phương không được xếp là thành viên của XHDS Việt Nam, nhưng đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tài trợ cho tất cả các hình thức tổ chức đa dạng nêu trên. Về kinh phí hoạt động, các tổ chức này được nhà nước cấp, song mức độ khác nhau: Các tổ chức quần chúng được nhiều nhất; các tổ chức nghề nghiệp thì nhận được một phần ngân sách từ Chính phủ bên cạnh những nguồn tài chính từ bên ngoài; các NGO Việt Nam và các hiệp hội nghề nghiệp sẽ được nhận tài trợ từ Chính phủ khi thực hiện những công việc cụ thể theo khuôn khổ dự án, nhưng cũng thường phải tìm ngân sách chủ yếu từ các nguồn khác. Theo tác giả Trần Đắc Lợi, hiện tại Việt Nam đang mới chỉ có những biểu hiện của XHDS chứ chưa thực sự có một XHDS theo đúng nghĩa (có một Nhà nước pháp quyền mạnh và KTTT phát triển). Trong tương lai, XHDS mà Việt Nam xây dựng, bản thân nó phải phù hợp với bản chất của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta, phù hợp với chủ trương không ngừng phát huy quyền làm chủ nhân dân của Đảng ta. TS. Nguyễn Minh Phương, bằng lập luận của mình phần nào cho rằng, ở Việt Nam đã có XHDS. Theo tác giả, ở nước ta, trong công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời sống xã hội, Nhà nước đã từng bước chuyển sang thực hiện chức năng định hướng, bảo trợ, tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho người dân tự do phát triển sản xuất kinh doanh, tổ chức cuộc sống. Nhờ đó, khu vực XHDS ngày càng có điều kiện phát triển, quan hệ xã hội của người dân được tự do, cởi mở hơn; nhu cầu giao tiếp, liên hệ giữa các cá nhân có điều kiện được thỏa mãn; tính tích cực xã hội của người dân, của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ, các nhóm xã hội có tư cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân được phát huy mạnh mẽ, góp phần vào sự phát triển của đất nước. Mặt khác, xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phương hoá, đa 10
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan