Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em theo đạo...

Tài liệu Vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em theo đạo thiên chúa (nghiên cứu trường hợp vài giáo xứ trên địa bàn hà nội)

.PDF
87
725
72

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- CÙ THỊ THANH THUÝ VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG VIỆC GIÁO DỤC CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM THEO ĐẠO THIÊN CHÚA (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP MỘT SỐ GIÁO XỨ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Xã hội học Hà Nội - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- CÙ THỊ THANH THUÝ VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG VIỆC GIÁO DỤC CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM THEO ĐẠO THIÊN CHÚA (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP MỘT SỐ GIÁO XỨ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xã hội học Mã số: 60 31 30 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH. Bùi Quang Dũng Hà Nội - 2012 2 MỤC LỤC Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI ................................... 15 1.1. Quan điểm của Đảng về giá trị đạo đức của tôn giáo .............................. 15 1.2. Các lý thuyết ................................................................................................ 17 1.2.1. Lý thuyết chức năng ...................................................................................17 1.2.2. Lý thuyết Xã hội hóa ..................................................................................19 1.2.3. Lý thuyết Hành động xã hội .......................................................................21 1.3. Các khái niệm .............................................................................................. 23 1.3.1. Tôn giáo......................................................................................................23 1.3.2. Thiên Chúa giáo .........................................................................................24 1.3.3. Giáo lý ........................................................................................................25 1.3.4. Đạo đức ......................................................................................................27 1.3.5. Đạo đức Thiên Chúa giáo ..........................................................................28 1.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ..................................................................... 29 CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................... 32 2.1. Quan điểm của Thiên Chúa giáo về giáo dục trẻ em ............................... 32 2.2. Những giá trị đạo đức được đề cao trong giáo dục Kitô giáo ................. 34 2.2.1. Tình yêu thương, bác ái..............................................................................34 2.2.2. Đức hiếu thảo .............................................................................................35 2.2.3. Đức Công bằng...........................................................................................38 2.2.4. Lòng biết ơn ...............................................................................................39 2.3. Mối quan hệ giữa đạo đức đạo Thiên Chúa với các giá trị đạo đức của người Việt Nam............................................................................................ 40 2.4. Các hình thức giáo dục đạo đức cho trẻ em của đạo Thiên Chúa ............... 42 1 2.4.1. Nghi thức tôn giáo ......................................................................................42 2.4.2. Các lớp giáo lý ...........................................................................................45 2.4.3. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao ........................................48 2.4.4. Hoạt động từ thiện, quyên góp ...................................................................49 2.5. Vai trò của Nhà thờ trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em theo Thiên Chúa giáo ................................................................................... 50 2.5.1. Vai trò của Linh mục..................................................................................50 2.5.2. Vai trò của Giáo lí viên ..............................................................................52 2.6. Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em trong những gia đình theo đạo Thiên Chúa .................................................... 55 2.6.1. Trách nhiệm tôn giáo của cha mẹ trong việc giáo dục con cái ..................55 2.6.2. Hoạt động giáo dục đạo đức tôn giáo của cha mẹ đối với con cái ................57 2.7. Tác động của giáo dục của đạo Thiên Chúa đến quá trình hình thành nhân cách trẻ em theo Thiên Chúa giáo .......................................................... 60 2.7.1. Tác động tích cực .......................................................................................60 2.7.2. Tác động tiêu cực .......................................................................................63 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 74 PHỤ LỤC............................................................................................................... 77 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tôn giáo là thiết chế xã hội ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người. Nó thể hiện sự bất lực của con người trước các thế lực tự nhiên, xã hội, sự nhận thức có giới hạn trước thực tại khách quan. Có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của tôn giáo. Có quan điểm cho rằng tôn giáo có những mặt tích cực khi nó đề cao tính nhân văn, hướng thiện, khuyên con người thương yêu giúp đỡ nhau, tránh điều ác, phi nhân cách, phi đạo đức. Đạo đức tôn giáo có những điều phù hợp với đạo đức xã hội, và nhiều khi trở thành những giá trị văn hoá tinh thần của nhân loại. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng tôn giáo chỉ là hạnh phúc hư ảo của nhân dân, là vòng hào quang thần thánh trong cái biển khổ của nhân dân, là những bông hoa tưởng tượng trên xiềng xích của con người, là mặt trời ảo tưởng xoay xung quanh con người. Từ đó người ta cho rằng, tôn giáo thường hạn chế sự phát triển tư duy duy vật, khoa học, làm cho con người có thái độ nhẫn nhục, khuất phục, không tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc tạo dựng hạnh phúc thật sự nơi trần gian, mà lại hi vọng hạnh phúc ở cuộc sống sau khi chết. Hơn nữa, trong xã hội có giai cấp, tôn giáo thường bị giai cấp thống trị lợi dụng để thực hiện ý đồ chính trị, do vậy, tôn giáo cũng chứa đựng nhiều yếu tố tiêu cực. Mặc dù, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu về tôn giáo đều thống nhất rằng, tôn giáo có vai trò nhất định trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho con người. Cũng như các thiết chế xã hội khác, tôn giáo có chức năng điều tiết và kiểm soát xã hội. Chức năng kiểm soát xã hội của tôn giáo được thể hiện tương đối rõ nét khi hầu hết các tôn giáo trên thế giới đều giáo dục các tín đồ sống theo các giá trị của niềm tin, đạo đức, chuẩn mực xã hội. Tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai trò chuyển tải, hòa nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức nơi trần thế. Với 3 tư cách một bộ phận của ý thức hệ, tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần. Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân, chế ngự các hành vi phi đạo đức, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết. Việt Nam hiện nay có 3 tôn giáo lớn – được hiểu là số lượng các tín đồ đông đảo – Phật Giáo: 45 triệu tín đồ ; Thiên Chúa giáo: trên 6 triệu tín đồ; Đạo Tin lành: trên 1 triệu tín đồ. Ngoài ra còn một số tôn giáo khác như: Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi giáo... Hầu hết những tôn giáo này đều có hệ thống giáo lý tương đối chặt chẽ trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho con người. Tuy nhiên, vai trò của các tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị này đến đâu là một vấn đề rất đáng được quan tâm, nghiên cứu. Trẻ em là tương lai của đất nước, xã hội hóa giáo dục trẻ em là công việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều người, nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực nhằm đảm bảo cho hoạt động giáo dục được diễn ra hiệu quả và toàn diện. Ở nước ta, giáo dục trẻ em được giao chủ yếu cho các trường học, từ cấp mẫu giáo cho đến các trường phổ thông cơ sở. Hoạt động này ở hầu hết các trường diễn ra sôi nổi và được đánh giá là có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu chỉ phó mặc cho Nhà trường trong việc giáo dục trẻ em thì dường như chưa đủ và lãng phí các nguồn lực xã hội, vì còn nhiều thiết chế xã hội khác có thể tham gia và làm tốt hoạt động này. Mặt khác, theo đánh giá sơ bộ trên cả nước, các trường học đang rơi vào tình trạng quá tải về số lượng học sinh, đặc biệt là ở các thành phố lớn: như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tình trạng này đặt gánh nặng về chất lượng đào tạo cho các trường học khi phải đảm bảo về khối lượng kiến thức cũng như có đủ thời gian và nhân lực trong việc chăm lo giáo dục cho học sinh các giá trị về đạo đức, tinh thần. Thực tế Việt Nam cho thấy, hầu hết các trường học tập chung chủ yếu vào việc giáo dục các tri thức 4 khoa học về tự nhiên và xã hội cho học sinh, mà chưa dành sự quan tâm thích đáng đến việc giáo dục các giá trị về tinh thần, đạo đức cho các em. Trước tình hình đó, một vấn đề đặt ra, là có nên hay không chia sẻ hoạt động giáo dục trẻ em cho các thiết chế xã hội khác, và cần thiết phải ghi nhận vai trò giáo dục trẻ em của các thiết chế giáo dục này như thế nào? Như đã trình bày ở trên, tôn giáo là thiết chế xã hội có thể đảm nhiệm rất tốt vai trò giáo dục các giá trị đạo đức cho con người nói chung và cho trẻ em nói riêng. Thiên Chúa giáo là tôn giáo rất coi trọng việc này. Tôn giáo này cho rằng: ”cả kho tàng thế giới không quý bằng một con người được giáo dục tốt” 11, tr.26 - 28, do đó giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em là bổn phận vô cùng quan trọng đối với cha mẹ cũng như các chức sắc tôn giáo. Đề tài “Vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em theo đạo Thiên Chúa” (nghiên cứu trường hợp một số giáo xứ trên địa bàn Hà Nội) được thực hiện với mong muốn có cái nhìn sâu sắc hơn, chính xác hơn về vai trò của tôn giáo - mà cụ thể ở đây là Thiên chúa giáo – trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Năm 1990 khi Viện nghiên cứu tôn giáo chính thức ra đời, nhiều nghiên cứu về tôn giáo được tiến hành trên nhiều quy mô khác nhau, được đánh giá cao và có giá trị về mặt khoa học và đã được công bố rộng rãi như: Đề tài KX.04 Luận cứ khoa học cho việc hoàn chỉnh chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước”, do GS Đặng Nghiêm Vạn làm chủ nhiệm đề tài. Những vấn đề tôn giáo hiện nay” (1993) là kết quả của cuộc hội thảo bàn về những vấn đề tôn giáo: quan điểm, nhận thức, tình hình, đặc điểm, chính sách tôn giáo... Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” (1998) là kết quả của 3 năm nghiên cứu của Viện tôn giáo, trong đó làm rõ thêm một số lí thuyết hiện hành và các vấn đề thực tiễn của đời sống tôn giáo hiện nay. Viện cũng chủ trì cuộc trao đổi về 5 Một số vấn đề lí luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam” (1997) để làm sáng rõ một số vấn đề lý luận về tôn giáo đang còn nhiều ý kiến khác nhau trong giới nghiên cứu. Ngoài những nghiên cứu của Viện tôn giáo, một số công trình nghiên cứu của cá nhân cũng thể hiện những đóng góp quan trọng. Luận án “Ảnh hưởng của yếu tố tôn giáo đến mức sinh trong cộng đồng Thiên Chúa giáo” của Phạm Văn Quyết (Nghiên cứu trường hợp xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) năm 2001 đã bàn tới sự phụ thuộc của mức sinh vào yếu tố tôn giáo trong cộng đồng Thiên Chúa giáo. Hội thảo “Lối sống cộng đồng giáo dân Hà Nội” diễn ra vào tháng 8/1991 tại Hà Nội đã đề cập cụ thể đến vấn đề đạo Thiên Chúa, lối sống của giáo dân trên địa bàn Hà nội. Kết quả của hội thảo đã cung cấp bức tranh tổng thể về các hoạt động, các sinh hoạt tôn giáo của người dân theo đạo Thiên Chúa. Bài viết ”Vai trò của đạo đức tôn giáo trong đời sống xã hội” (Đặng Thị Lan, 2007) đã ghi nhận những đóng góp nhất định của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho con người. Tác giả bài viết cũng chỉ ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo đức tôn giáo và đi đến kết luận rằng: trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo để khẳng định một cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết. Hy vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực đạo đức tiến bộ trong tôn giáo sẽ giúp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc và hữu ích trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Bài viết này đã ghi nhận vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho con người. Mặt khác, cũng chỉ ra tầm quan trọng của những nghiên cứu khoa học đối với những giá trị tốt đẹp của đạo đức tôn giáo. Mặc dù bài viết không mô tả một cách tỉ mỉ các giá trị đạo đức của Thiên chúa giáo, nhưng cũng cho người đọc thấy được một cách sơ bộ các giá trị đạo đức tích cực của của tôn giáo này. 6 Trong bài viết “Lối sống của người theo đạo Thiên Chúa Việt Nam: Quá trình từ theo đạo, giữ đạo đến sống đạo” (Phạm Huy Thông, 2011) cho rằng lối sống của người theo đạo Thiên Chúa Việt Nam qua gần 500 năm truyền giáo cũng biến đổi. Tìm hiểu lối sống của người theo đạo Thiên Chúa Việt Nam từ theo đạo, giữ đạo đến sống đạo, bài viết đã đi đến kết luận: lối sống đạo hiện nay của người theo đạo Thiên Chúa Việt Nam đã vượt qua kiểu giữ đạo hình thức, hướng nội mà vượt lên dấn thân phục vụ xã hội và cộng đồng. Bên cạnh các công trình nghiên cứu xã hội học thực nghiệm, cũng không ít bài viết về xã hội học tôn giáo mang tính lí luận và phương pháp luận. Bài “Một vài suy nghĩ về những quan điểm tôn giáo của Max Weber” (Bùi Đình Thanh, 1994) và “Suy nghĩ về phương pháp luận nghiên cứu xã hội học tôn giáo” (Bùi Đình Thanh, 1997), “Emile Durkhiem và tôn giáo (Nguyễn Đức Truyến, 1994). Tóm lại, nghiên cứu Xã hội học tôn giáo ở Việt Nam đã và đang nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả về mặt lí luận cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, nếu so sánh với các lĩnh vực nghiên cứu khác của xã hội học như nông thôn, đô thị, gia đình, giới, kinh tế, lao động, việc làm, di dân…thì những nghiên cứu về xã hội học tôn giáo còn khiêm tốn. Những vấn đề lí luận được bàn đến vẫn chủ yếu tâp trung vào việc bình luận, giới thiệu các quan điểm nghiên cứu tôn giáo của các nhà xã hội học kinh điển, mảng xã hội học tôn giáo hiện đại vẫn còn vắng bóng. Những công trình nghiên cứu xã hội học tôn giáo thực nghiệm mới chỉ mang tính chất khám phá bước đầu, vấn đề phương pháp tiến hành nghiên cứu trong các công trình đó còn rất nhiều điểm đáng bàn. Trong các công trình nghiên cứu xã hội học tôn giáo ở Việt Nam cho tới nay, các công trình nghiên cứu về Thiên Chúa giáo không nhiều, và mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về tôn giáo này theo cách nhìn lịch sử, chẳng hạn các tác giả bàn luận về vấn đề: Thiên Chúa giáo được truyền bá vào Việt 7 Nam như thế nào; lịch sử tồn tại và phát triển của tôn giáo này ra sao, cộng đồng người theo Thiên Chúa ở đâu, số lượng bao nhiêu? Chưa có nhiều những nghiên cứu để đo những tác động của Thiên Chúa giáo đến đời sống xã hội. 3. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3.1. ý nghĩa khoa học của đề tài Xã hội học tôn giáo là một trong những lĩnh vực nghiên cứu được quan tâm ngay từ khi xã hội học mới xuất hiện. Rất nhiều nhà xã hội học kinh điển như: August Comte, Emile Durkhiem, Max Weber...đã giành mối quan tâm tới vấn đề tôn giáo trong bối cảnh biến đổi xã hội Châu Âu thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản. Ở Việt Nam, xã hội học là một ngành khoa học còn khá mới, do vậy không có nhiều nghiên cứu dành cho xã hội học tôn giáo. Hơn nữa, tôn giáo và xã hội Việt Nam có những đặc trưng khác với tôn giáo và xã hội phương Tây. Do đó, không thể vận dụng một cách máy móc các lí thuyết xã hội học tôn giáo phương Tây vào nghiên cứu vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Nghiên cứu vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em theo đạo Thiên Chúa giáo, tức là đang xem xét tôn giáo trong mối quan hệ với xã hội, chỉ ra những tác động nhất định của đạo đức tôn giáo đến con người, đến việc phát triển và hoàn thiện nhân cách con người – mà cụ thể là trẻ em. Nghiên cứu này cũng có đóng góp nhất định về mặt lí luận cũng như phương pháp nghiên cứu xã hội học tôn giáo ở Việt Nam, trên cơ sở vận dụng những lí thuyết xã hội học tôn giáo kinh điển kết hợp với các lí thuyết và phương pháp nghiên cứu xã hội học hiện đại. Nghiên cứu sẽ góp phần vào việc làm sáng tỏ cách thức vận dụng lí thuyết xã hội học phương Tây trong nghiên cứu tôn giáo Việt Nam. Đồng thời góp phần nhỏ vào sự phát triển của môn xã hội học tôn giáo ở Việt Nam. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Nghiên cứu vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em mang ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc. Đề tài được thực hiện với 8 mong muốn đem lại một bức tranh cụ thể hơn về hoạt động giáo dục tôn giáo – mà ở đây là Thiên Chúa giáo – đối với trẻ em đang diễn ra trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó nghiên cứu chỉ ra vai trò của Thiên Chúa giáo trong hoạt động giáo dục trẻ em – mà cụ thể là giáo dục các giá trị tinh thần và đạo đức cho trẻ, những mặt tích cực của giáo dục tôn giáo, và những yếu tố hạn chế của hoạt động này. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng là nguồn tư liệu tham khảo cho sinh viên của ngành xã hội học. 4. Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu các giá trị đạo đức của đạo Thiên Chúa. - Tìm hiểu các hoạt động giáo dục tôn giáo của đạo Thiên Chúa đối với trẻ em. - Tìm hiểu hoạt động của chức sắc tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em theo đạo Thiên Chúa. - Tìm hiểu trách nhiệm, bổn phận và hoạt động của cha mẹ trong việc giáo dục trẻ em theo đạo Thiên Chúa. - Tìm hiểu tác động của giáo dục đạo đức Thiên Chúa giáo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em theo đạo Thiên Chúa ở một số giáo xứ trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4.3. Khách thể nghiên cứu - Chức sắc tôn giáo: linh mục, giáo lí viên. - Cha mẹ trong những gia đình theo đạo Thiên Chúa giáo. - Trẻ em theo đạo Thiên Chúa giáo. 4.4. Phạm vi nghiên cứu - Không gian nghiên cứu: + Giáo xứ Hàm Long 9 + Giáo xứ Phùng Khoang + Giáo xứ Cửa Bắc Thời gian nghiên cứu: 2011. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư duy và lý luận khi giải thích, phân tích và biện giải các vấn đề trong nghiên cứu. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho phép lí giải các sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên – xã hội trong trạng thái vận động và biến đổi không ngừng. Vận dụng phương pháp luận này đòi hỏi người nghiên cứu có cái nhìn linh hoạt về mọi vấn đề, khía cạnh được đặt ra trong khi phân tích, nghiên cứu, luôn đặt chúng trong sự vận động và biến đổi không ngừng, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, bất biến. Cùng với sự vận động và biến đổi của xã hội, tôn giáo nói chung và Thiên chúa giáo nói riêng cũng biến đổi không ngừng. Sự biến đổi này do nhiều yếu tố, khách quan – biến đổi xã hội; chủ quan – sự thay đổi về đường hướng, mục đích tôn giáo, và vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội cũng thay đổi không ngừng. Vai trò tôn giáo ngày nay chưa chắc đã giống với vai trò tôn giáo trong giai đoạn trước. Mục tiêu giáo dục tôn giáo ngày nay cũng khác với mục tiêu tôn giáo ngày trước, đòi hỏi về giáo dục con người ngày nay cũng khác với việc giáo dục con người trong thời gian trước đây. Cách tư duy này cho phép người nghiên cứu thấy được đối tượng nghiên cứu của đề tài này cần phải được xem xét một cách cẩn thận, cần phải có sự so sánh, phân tích, thống kê để đo lường một cách chính xác về vai trò giáo dục của tôn giáo – mà ở đây là Thiên chúa giáo - đối với trẻ em trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng được xem là nền tảng tư duy cho nghiên cứu. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho 10 rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội đó. Tôn giáo là phạm trù thuộc ý thức xã hội, nó bị quyết định bởi tồn tại xã hội hiện có. Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu, đòi hỏi người nghiên cứu phải biết đặt đối tượng nghiên cứu của mình trong bối cảnh xã hội nhất định. Quá trình phân tích các sự kiện hiện tượng phải luôn gắn với hoàn cảnh xã hội cụ thể, từ đó thấy được những nguyên nhân, nguồn gốc xã hội của vấn đề đang nghiên cứu, phân tích. Giáo dục là hiện tượng xã hội gắn bó chặt chẽ với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử, điều kiện xã hội nào đòi hỏi nền giáo dục tương ứng như vậy. Đề tài này tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em, do đó, nhà nghiên cứu phải gắn chặt chẽ hai hiện tượng, tôn giáo và giáo dục trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện tại, giá trị đạo đức trong xã hội ngày này phải phù hợp với đòi hỏi của thực tại xã hội. Tóm lại, vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử, duy vật biện chứng trong nghiên cứu này tức là phải xem xét hoạt động giáo dục tôn giáo trên quan điểm lịch sử, toàn diện, cụ thể và phát triển. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu Nghiên cứu này sử dụng các nguồn tài liệu khác nhau, các sách về tôn giáo, xã hội học tôn giáo. Các bài viết, bài báo đăng trên các tạp chí, trên Internet nói về vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội. Một số các tài liệu của đạo Thiên Chúa được sử dụng làm cơ sở phân tích cho nghiên cứu như: bản ”Tuyên ngôn giáo dục Kitô giáo” là tài liệu quan trọng chỉ rõ nhiệm vụ, chức năng của hoạt động giáo dục Kitô giáo, các đối tượng tham gia và vai trò của họ khi tham gia và hoạt động này; Kinh thánh Tân ước, Cựu ước, sách Huấn ca được sử dụng đề trích dẫn những câu nói, lời giáo huấn của tôn giáo này về luân lí, đạo đức. Giáo án, bải giảng, tài liệu dùng cho việc giảng dạy trong các lớp Giáo lí hôn nhân cũng đề cập đến vai trò và trách nhiệm của cha 11 mẹ trong giáo dục con cái, cách thức, con đường để đạt hiệu quả cao trong giáo dục cũng được đưa vào để nghiên cứu phân tích. Tuy nhiên, ngoài trừ Kinh thánh, những nguồn tài liệu này thường chỉ là những tài liệu lưu hành nội bộ trong cộng đồng đạo Thiên Chúa, chứ chưa được in thành sách hay xuất bản. Mặt khác đề tài cũng sử dụng những thành quả nghiên cứu từ những đề tài nghiên cứu của một số tác giả đi trước nghiên cứu về Phật giáo, Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nguồn tài liệu sử dụng cho phân tích đề tài này còn rất hạn chế 5.2.2. Phương pháp quan sát - Mục đích quan sát Phương pháp quan sát sử dụng trong luận văn nhằm thu thập những thông tin có liên quan đến thái độ, hành vi, các dạng hoạt động trong giáo dục tôn giáo. Các quan sát được diễn ra như sau: - Thời gian Giáo xứ Phùng Khoang: chiều các ngày 11,18 tháng 4 năm 2011; Giáo sứ Hàm Long: chiều ngày 26 tháng 4 năm 2011; Giáo xứ Cửa Bắc: chiều ngày 2 tháng 5 năm 2011. - Nội dung quan sát + Hoạt động trước giờ học: cách thức trẻ em chơi đùa trong sân Nhà thờ, các nghi thức trước giờ học. + Trong giờ học: cách thức bố trí lớp học, cách thức giảng dạy của giáo viên, ý thức học tập của học sinh. + Sau giờ học: các nghi thức sau giờ học. Trong quá trình quan sát, các sự kiện, hiện tượng quan sát cũng được ghi chép lại. Khi phỏng vấn khách thể nghiên cứu, những thông tin về thái độ, hành vi của người được phỏng vấn cũng được ghi chép lại nhằm cân nhắc tính 12 đúng đắn các thông tin thu được, bổ trợ cho những thông tin đã thu được từ những phương pháp khác. 5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Đây là phương pháp đặc thù để thu thập thông tin trong nghiên cứu Xã hội học. Thông qua việc tác động tâm lý – xã hội trực tiếp giữa người hỏi và người được hỏi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Phỏng vấn sâu các đối tượng cụ thể như sau: - Giáo lý viên: 3 người (1 người ở giáo xứ Phùng Khoang, 1 người ở giáo xứ Hàm Long, 1 người ở giáo xứ Cửa Bắc). - Trẻ em: 3 người (1 người ở giáo xứ Phùng Khoang, 1 người ở giáo xứ Hàm Long, 1 người ở giáo xứ Cửa Bắc). - Cha mẹ: 3 người (1 người ở giáo xứ Phùng Khoang, 1 người ở giáo xứ Hàm Long, 1 người ở giáo xứ Cửa Bắc). - Cha xứ: 3 người (1 người ở giáo xứ Phùng Khoang, 1 người ở giáo xứ Hàm Long, 1 người ở giáo xứ Cửa Bắc). Phỏng vấn sâu, nhằm thu thập các thông tin sau: - Đối với giáo lý viên: mục đích lớp học, tìm hiểu xem nội dung giảng dạy trên lớp, thời lượng giảng dạy, các nguyên tắc kỉ luật, các giá trị tôn giáo đạo đức bắt buộc phải rèn luyện cho học sinh. Đánh giá kết quả sơ bộ về chất lượng quá trình giảng dạy. - Đối với học sinh: động cơ theo học, nội dung học tập, thời gian học tập, mục đích học tập. - Đối với cha mẹ: nhận thức về trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục con cái, cách thức giáo dục, nội dung giáo dục, mục đích giáo dục, đánh giá sơ bộ của cha mẹ về các giá trị giáo dục tôn giáo đối với con em mình. 13 6. Câu hỏi nghiên cứu - Hoạt động giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em theo đạo Thiên Chúa diễn ra như thế nào? - Vai trò của các họat động giáo dục của đạo Thiên Chúa giáo đối với trẻ em như thế nào? - Vai trò của các đối tượng tham gia vào hoạt động giáo dục của đạo Thiên Chúa giáo? Vai trò của Linh mục? Vai trò của giáo lí viên? Vai trò của cha mẹ? - Nội dung giáo dục đạo đức của Thiên Chúa giáo là gì? - Giáo dục của đạo Thiên Chúa giáo tác động như thế nào đến trẻ em? - Đạo đức tôn giáo được giáo dục trong Thiên Chúa giáo có phù hợp với các giá trị chuẩn mực, đạo đức của người Việt Nam hay không? 14 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Quan điểm của Đảng về giá trị đạo đức của tôn giáo Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, đồng thời là một thực thể xã hội, một sản phẩm của lịch sử do con người tạo ra, giữ vai trò, vị trí khá quan trọng trong xã hội đương đại và đã được khẳng định trong lịch sử. Ở nước ta, từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội, gắn liền với dân tộc và phục vụ lợi ích dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Ngày nay, mặc dù xung quanh vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng còn có một số ý kiến khác nhau, nhưng tín ngưỡng và tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần không thể thiếu của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân. Tôn giáo vẫn sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc và phục vụ lợi ích của dân tộc trên con đường phát triển. Nhìn chung cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành và phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong quá trình làm nên các giá trị của dân tộc không thể không kể đến đóng góp của tôn giáo, ở vào bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, dân tộc Việt Nam cũng sẵn sàng đón nhận và đến với tôn giáo một cách hết sức tự nhiên. Điều đó chứng tỏ rằng, các giá trị đạo đức tôn giáo phù hợp với các giá trị đạo đức của người Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, các tôn giáo đã cùng toàn dân tộc tạo dựng những giá trị thiêng liêng của người Việt, đó là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, truyền thống yêu nước, thương nòi, truyền thống kiên cường, bất khuất đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất... Văn hóa tôn giáo chịu chế định bởi văn hóa dân tộc, nên trong văn hóa tôn giáo có yếu tố dân tộc và ngược lại. Ở Việt Nam, các tôn giáo đã góp phần tạo ra và làm phong phú nền văn hóa Việt Nam. Về giá trị đạo đức xã hội, hết thảy các tôn giáo đều giáo dục con người Việt Nam vươn tới cái thiện. Có thể khẳng định rằng, tôn giáo đã 15 góp phần to lớn tạo dựng các chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam ta không có tôn giáo theo nghĩa truyền thống của nhiều nước khác. Còn nói tôn giáo thờ cúng, thì mọi người đều thờ cúng ông bà, mọi họ đều thờ cúng tổ tiên, làng thì thờ cúng thành hoàng và các bậc anh hùng cứu nước, các tổ phụ ngành nghề, các danh nhân văn hóa. Từ góc độ văn hóa, tôi thấy đây là một đặc trưng đáng trọng của con người Việt Nam, ở chỗ nó tưởng nhớ những người có công trong việc tạo lập cuộc sống của mọi gia đình và làng xóm” 9, tr.75. Một số văn kiện chính trị nêu rõ “Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” 33, tr. 45-46. Hồ Chí Minh rất trân trọng các giá trị của tôn giáo, Người viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả…” 28, tr. 25-26. Tín đồ tôn giáo cũng là một bộ phận trong nhân dân. Trong lịch sử, tín đồ tôn giáo đã tích cực tham gia nhiều cuộc cách mạng vĩ đại góp phần to lớn làm thay đổi lịch sử và thúc đẩy xã hội loài người phát triển. Lịch sử cho thấy trong các cuộc cách mạng xã hội, ai giành được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng (thậm chí trong một số trường hợp chỉ là quần chúng tôn giáo), người đó sẽ giành chiến thắng. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, đồng bào có đạo luôn sát cánh cùng cả dân tộc ta làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam dù theo hay không theo tôn giáo nào cũng không bao giờ quên mình là “con cháu Rồng - Tiên” và sẵn sàng xả thân vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong cách mạng dân chủ nhân dân và kháng chiến chống đế quốc xâm lược, đồng bào có đạo đã chung lưng, đấu cật, không quản hy sinh, gian khổ đoàn kết một lòng, cùng cả dân tộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Họ tích cực tham gia chiến đấu, hy sinh trong chiến tranh giải phóng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi vì họ cũng là 16 người Việt Nam và thấu hiểu chân lý “nước mất thì nhà tan” của ông cha. Đánh giá cao những đóng góp của cộng đồng các tôn giáo trong lịch sử và vai trò, vị trí của tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ mới, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa IX khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta” 33, tr.48. Trong khi đó, đồng bào theo đạo và các nhà tu hành chân chính cũng luôn nhận thức rằng, tôn giáo chỉ tồn tại và phát triển được khi dân tộc độc lập, quốc gia được thống nhất, đất nước ổn định và phát triển phồn vinh. 1.2. Các lý thuyết 1.2.1. Lý thuyết chức năng Lý thuyết chức năng là một trong những trường phái lí thuyết có ảnh hưởng lớn trong xã hội học. Người có vai trò lớn đối với việc phát triển trường phái lí thuyết này chính là Emile Durkhiem. Ông sử dụng cách phân tích chức năng trong nghiên cứu về phân công lao động, tự tử và tín ngưỡng, tôn giáo. Trong các công trình nghiên cứu của Durkhiem trọng tâm là các vấn đề xã hội như sự phân công lao động hay hiện tượng tự tử nhưng cũng có một phần không nhỏ ông đặt những vấn đề xã hội mà ông quan tâm trong mối quan hệ mật thiết với tôn giáo. Trong tác phẩm “Sự phân công lao động trong xã hội” tôn giáo được coi là một yếu tố cố kết các cá nhân trong sự chia rẽ bởi sự phân công lao động, bằng cách tạo ra nhận thức chung của tất cả những thành viên trong xã hội về một vài hiện tượng, hành vi tôn giáo, tạo nên sự cố kết trực tiếp giữa các thành viên trong xã hội. Khi xã hội có những bước tiến vượt bậc về mọi mặt, sự cố kết bền chặt, mạnh mẽ giữa các cá nhân trở nên lỏng lẻo, họ được tự do và tự chủ hơn nhưng cũng vẫn phải phụ thuộc vào nhau thông qua các thiết chế xã hội cơ bản, trong đó có tôn giáo. Vậy tôn giáo 17 dù có tồn tại ở xã hội với những kiểu đoàn kết nào thì vẫn là yếu tố gắn kết các thành viên. Tương tự trong cuốn Tự tử, Durkheim cũng bàn đến tôn giáo như là chất keo kết nối các thành viên trong xã hội. Nghiên cứu về hiện tượng tử tự trong xã hội đương thời với những số liệu cụ thể đã chỉ ra vai trò của tôn giáo đối với vấn đề xã hội này. Theo ông, tôn giáo là một trong những yếu tố cơ bản làm giảm thiểu các vụ tự tử vị kỉ, nhưng cũng khuyến khích hình thức tự tử vị tha. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt về số lượng người tự tử trong những tôn giáo khác nhau. Sự phong phú về hệ thống giáo lý, giáo điều, giáo luật, về thế giới quan, về các nghi lễ, nghi thức tôn giáo… là những biến độc lập chi phối tỉ lệ tự tử khác biệt này. Qua đây, tôn giáo được đề cập đến như một yếu tố trực tiếp tác động tới hiện tượng tự tử. Đặc biệt nhất trong những nghiên cứu về tôn giáo là bộ ba cuốn sách trong Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo, xuất bản năm 1912. Khác với việc sử dụng hàng loạt số liệu khi nghiên cứu về tự tử, tác phẩm lớn cuối cùng của Durkheim tập trung nghiên cứu duy nhất trường hợp của những bộ lạc thổ dân châu Úc, nơi tôn giáo được coi là chiếm giữ những “hình thức sơ đẳng” và tồn tại một cách “nguyên thuỷ” nhất. Trong bộ sách này, Emile Durkheim đã bàn đến hai vấn đề lớn khi nghiên cứu tôn giáo. Một là, sự xuất hiện của tôn giáo như một sản phẩm của đời sống hiện thực xã hội. Hai là, nghiên cứu bàn đến những thành phần cơ bản của một tôn giáo nguyên thuỷ. Qua việc làm rõ hai vấn đề trên, Emile Durkheim cũng chỉ ra được ảnh hưởng của tôn giáo tới các cá nhân trong xã hội. Ông đưa ra định nghĩa về tôn giáo theo quan điểm riêng của mình: Tôn giáo là một hệ thống thống nhất của niềm tin tôn giáo và những nghi thức tôn giáo có liên quan tới những yếu tố thiêng liêng hay những điều không nên làm và cấm kị. Những niềm tin và nghi thức tôn giáo được thống nhất lại và tựu chung trong một tổ chức duy nhất là Nhà thờ. Tất cả những người tham gia vào và gắn bó với tổ chức ấy được coi 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan