Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của quỹ môi trường cộng đồng trong hoạt động bảo vệ môi trường tại các v...

Tài liệu Vai trò của quỹ môi trường cộng đồng trong hoạt động bảo vệ môi trường tại các vùng nông thôn hiện nay

.PDF
84
542
134

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- NGUYỄN VĂN THỤC VAI TRÒ CỦA QUỸ MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC VÙNG NÔNG THÔN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC Hà Nội - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ NGUYỄN VĂN THỤC VAI TRÒ CỦA QUỸ MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC VÙNG NÔNG THÔN HIỆN NAY. Chuyên ngành: Xã hội học Mã số: 60 31 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH XÃ HỘI HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Bích San Hà Nội - 2009 LỜI CẢM ƠN! Ý tưởng của luận văn này được xuất phát từ dự án: “Điều tra đánh giá thực trạng các quỹ bảo vệ môi trường cộng đồng, đề xuất cơ chế xây dựng, quản lý, vận hành và phát triển quỹ” do Trung tâm Phát triển Xã hội và Môi trường Vùng thực hiện tại Hà Nam, Thanh Hoá, Bắc Giang trong 2 năm 2008-2009. Do đó, trước tiên tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành của mình đối với Ban lãnh đạo Trung tâm Phát triển Xã hội và Môi trường Vùng đã cho phép và tạo những điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn. Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS. Phạm Bích San vì đã có những chỉ dẫn, động viên quý báu trong suốt quá trình thực hiện luận văn của tôi. Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Xã hội học, Trợ lý Đào tạo sau Đại học, các thầy, các cô trong và ngoài Khoa đã chỉ bảo tận tình tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn mọi sự giúp đỡ từ người thân, đồng nghiệp những người đã luôn ủng hộ, hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Mặc dù đã có nhiều có gắng, tuy nhiên luận văn của tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót, do đó tôi rất mong nhận được những ý kiến đánh giá, bổ sung để tôi có thể hoàn thiện luận văn của mình./. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 12 năm 2009 Học viên Nguyễn Văn Thục MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 4 1.1. Lý do chọn đề tài. 4 1.2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài. 1.2.1. Ý nghĩa lý luận. 1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn. 6 6 6 1.3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 1.3.1.Mục đích nghiên cứu 1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. 6 6 7 1.4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu. 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu. 1.4.2. Khách thể nghiên cứu. 1.4.3. Phạm vi nghiên cứu 7 7 7 7 1.5. Giả thuyết nghiên cứu 7 1.6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 1.6.1. Phương pháp luận. 1.6.2. Các lý thuyết xã hội học. 1.6.3. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin. 1.6.4. Hệ thống khái niệm. 1.6.5. Mẫu nghiên cứu. 7 7 8 10 10 11 1.7. Cơ sở thực tiễn của đề tài. 1.7.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. 1.7.2. Chủ trương xã hội hóa lĩnh vực bảo vệ môi trường. 1.7.3. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu. 12 12 15 19 1.8. Khung lý thuyết 20 CẤU TRÚC LUẬN VĂN 21 PHẦN NỘI DUNG CHÍNH 22 CHƯƠNG 1. MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÁC QUỸ MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TẠI XÃ TÂN SƠN VÀ XÃ BÍCH SƠN. 22 1 1.1. Quá trình hình thành các quỹ môi trường cộng đồng tại xã Tân Sơn và xã Bích Sơn. 22 1.2. Mô hình quản lý các quỹ môi trường cộng đồng tại xã Tân Sơn và xã Bích Sơn. 28 1.2.1. Vấn đề tài chính của các quỹ môi trường cộng đồng. 38 1.2.2. Quy chế họat động của các quỹ môi trường cộng đồng. 43 CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA CÁC QUỸ MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC VÙNG 48 NÔNG THÔN HIỆN NAY. 48 2.1. Tóm lược một số vấn đề môi trường tại các địa bàn khảo sát. 48 2.2. Hoạt động của quỹ môi trường cộng đồng. 49 2.3. Vai trò của quỹ môi trường cộng đồng đối với hoạt động bảo vệ môi trường tại các vùng nông thôn hiện nay. 56 PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 66 3.1. Kết luận. 66 3.2. Một số khuyến nghị. 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71 2 DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: Thời điểm thành lập quỹ môi trường cộng đồng Bảng 1.2: Tác giả ý tưởng thành lập quỹ môi trường cộng đồng Bảng 1.3: Quan điểm của người dân và cộng đồng về việc thành lập quỹ môi trường cộng đồng Bảng 1.4: Phân tích SWOT các mô hình thu gom rác thải Bảng 1.5: Kinh phí hàng tháng đóng góp quỹ môi trường cộng đồng (đồng) Bảng 2.1. Các lĩnh vực chi tiêu của quỹ môi trường cộng đồng DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1.1: Lý do thành lập quỹ bảo vệ môi trường cộng đồng Biểu đồ 1.2: Sự tương đồng và khác biệt về lý do thành lập quỹ bảo vệ môi trường cộng đồng tại xã Tân Sơn và xã Bích Sơn Biểu đồ 1.3: Hiệu quả hoạt động của ban quản lý quỹ môi trường cộng đồng Biểu đồ 1.4: Hình thức thu phí của quỹ môi trường cộng đồng Biểu đồ 1.5: Quy chế hoạt động của quỹ môi trường cộng đồng Biểu đồ 1.6: Nơi tồn tại các quy chế hoạt động của quỹ môi trường cộng đồng Biểu đồ 2.1. Các hoạt động của quỹ môi trường cộng đồng Biểu đồ 2.2. Đánh giá hiệu quả các hoạt động tuyên truyền về môi trường Biểu đồ 2.3. Tần suất thu gom rác ngày/lần Biểu đồ 2.4. Các hình thức xử lý rác thải của hộ gia đình Biểu đồ 2.5. Đánh giá của người dân về hoạt động thu gom rác thải Biểu đồ 2.6. Đánh giá của người dân về tầm quan trọng của quỹ môi trường cộng đồng đối với hoạt động bảo vệ môi trường Biểu đồ 2.7. Nhu cầu về sự gia tăng các hoạt động khác của quỹ môi trường Biểu đồ 2.8. Đánh giá về tình hình môi trường tại các địa phương DANH MỤC HỘP Hộp 1.1: Giải quyết rác thải ở nông thôn Hộp 1.2: Ví dụ về mô hình cấp 1: Quang Minh-điểm sáng về vệ sinh môi trường nông thôn Hộp 1.3: Ví dụ về mô hình cấp 3: Hợp tác xã môi trường Thành Đạt Hộp 1.4: Xây dựng hương ước bảo vệ môi trường 26 27 28 30 41 51 22 24 37 40 45 46 50 53 54 56 58 61 62 64 25 30 30 45 DANH MỤC HÌNH Hình 1.1: Cấp độ chuyên nghiệp của các mô hình thu gom rác thải cộng đồng 30 Hình 1.2: Sơ đồ quản lý quỹ môi trường cộng đồng tại Tân Sơn cho hoạt động thu gom rác thải Hình 1.3: Sơ đồ quản lý quỹ môi trường cộng đồng tại Bích Sơn cho hoạt động thu gom rác thải Hình 1.4: Sơ đồ quản lý quỹ môi trường cộng đồng tại Tân Sơn và Bích Sơn 32 32 36 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài. Sau một năm 2007 tăng trưởng mạnh mẽ, liên tiếp trong 2 năm 2008 và 2009, Việt Nam đã phải điều chỉnh lại chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, rà soát và thay đổi hàng loạt các chính sách nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Mặc dù đà tăng trưởng của Việt Nam đã bị chậm lại trong năm 2009 tuy nhiên sau hơn 20 năm Đổi mới, vị thế và diện mạo của đất nước đã hoàn toàn thay đổi. Tuy nhiên, phát triển là một quá trình đa diện và không dễ để điều hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, cho dù rất nhiều các quốc gia trên thế giới đã quen và đã áp dụng chiến lược phát triển bền vững. Sau Vedan, Miwon…sẽ còn không ít các công ty, tập đoàn khác có tên trong danh sách gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Rõ ràng, để có thể phát triển về kinh tế các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cũng đã phải đánh đổi rất nhiều các nguồn tài nguyên thiên nhiên và chấp nhận một môi trường sống đang ngày càng bị ô nhiễm. Về khía cạnh không gian, các vấn đề về ô nhiễm môi trường thường gắn liền với các khu vực đô thị, tuy nhiên đó đã là một câu chuyện cũ bởi hiện nay khu vực nông thôn - lá phổi của quốc gia ở rất nhiều nơi cũng đã và đang bị ô nhiễm một cách nghiên trọng mà phần nhiều nguyên nhân trong số đó xuất phát từ sự gia tăng dân số, thay đổi các thói quen tiêu dùng và thói quen trong sản xuất. Ở góc độ chính sách, trong những năm vừa qua số lượng các chính sách có liên quan tới lĩnh vực bảo vệ môi trường ngày càng nhiều, các quy định cũng ngày càng chặt chẽ và bám sát diễn biến của đời sống xã hội. Sự gia tăng nhanh chóng về mặt số lượng cũng như sự chặt chẽ các chính sách của Nhà nước liên quan tới lĩnh vực bảo vệ môi trường cho thấy hai vấn đề: (i) Nhà nước ngày càng quan tâm hơn tới các vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển và (ii) Các vấn đề về bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay ngày càng trở nên bức thiết. Dễ nhận thấy điểm chung trong các chính sách này đó là chủ trương xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường của Nhà nước, có thể dẫn ra Chỉ thị 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (ngày 25-6- 4 1998), Nghị quyết 41-NQ/TW nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động bảo vệ môi trường hay Luật Bảo vệ Môi trường là những ví dụ điển hình. Ở góc độ cộng đồng, cách thức tổ chức xã hội của đô thị khác với nông thôn và sự khác biệt này một phần lớn là do sự mạnh yếu trong tính cố kết cộng đồng. Đối với vấn đề ô nhiễm môi trường tại các đô thị ví dụ như rác thải thường có các công ty môi trường đô thị chịu trách nhiệm giải quyết, trong khi đó tại nông thôn vì nhiều lý do vấn đề này thường được mỗi người dân tự giải quyết theo những cách khác nhau hoặc được giải quyết bởi đội thu gom rác do cộng đồng tổ chức. Thực tế, tại nông thôn hiện nay ngoài vấn đề rác thải, môi trường nông thôn còn tồn tại rất nhiều các vấn đề bức xúc khác đòi hỏi cần những cách thức tổ chức quản lý và giải quyết các vấn đề môi trường của cộng đồng dưới dạng các quỹ môi trường cộng đồng. Ở tầm vĩ mô, Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam được thành lập năm 2003, với mục đích hoạt động hỗ trợ tài chính cho các chương trình, dự án, các hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước, tại một số địa phương cũng đã có các quỹ Bảo vệ Môi trường như ở Hà Nội. Ở khía cạnh vi mô, tại nhiều vùng nông thôn hiện nay các mô hình quỹ môi trường cộng đồng được xây dựng và vận hành chủ yếu là giải quyết các vấn đề môi trường đang tồn tại trong cộng đồng. Tuỳ thuộc vào từng cộng đồng cũng như từng vấn đề môi trường cụ thể mà cách thức tổ chức, hoạt động của các mô hình này là khác nhau nhưng nhìn chung đặc trưng của các quỹ môi trường cộng đồng thường đơn giản về tổ chức quản lý và chủ yếu dựa và các đóng góp tài chính của cộng đồng với mục tiêu chính nhằm giải quyết vấn đề rác thải. Trong một vài năm tới, các mô hình này sẽ có xu hướng gia tăng bởi các vấn đề môi trường tại các vùng nông thôn cũng ngày càng lan rộng và phức tạp. Đồng thời, cơ cấu quản lý các mô hình quỹ môi trường cộng đồng cũng sẽ thay đổi từ đặc trưng tự cấp, tự túc sang cơ chế “khoán”. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về vai trò của các quỹ môi trường cộng đồng trong hoạt động bảo vệ môi trường tại các vùng nông thôn, những mặt tích cực và những tồn tại cũng như những khó khăn và thách thức của các quỹ môi trường cộng đồng đối với các hoạt động bảo vệ môi trường. Do đó, hoạt động của các quỹ môi trường tại cộng 5 đồng vẫn thường chỉ giới hạn cho từng cộng đồng chứ chưa có sự chia sẻ, học tập kinh nghiệm và nhân rộng điều này cũng đồng nghĩa vai trò của các quỹ môi trường cộng đồng đối với các hoạt động bảo vệ môi trường chưa được thừa nhận một cách rộng rãi. Chính vì thế với đề tài: “Vai trò của các quỹ môi trường cộng đồng trong hoạt động bảo vệ môi trường tại các vùng nông thôn hiện nay” hi vọng sẽ có những đánh giá cụ thể và chính xác về vai trò của các quỹ môi trường của cộng đồng hiện nay cũng như đưa ra được những khuyến nghị, giải pháp để hoàn thiện và nhân rộng mô hình quỹ môi trường cộng đồng tại các vùng nông thôn. 1.2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài. 1.2.1. Ý nghĩa lý luận. Đề tài được thực hiện sẽ góp phần làm sáng tỏ các lý thuyết xã hội học như lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết hành vi lựa chọn, lý thuyết hành động xã hội…đồng thời chỉ ra những bằng chứng thực tiễn để vận dụng có hiệu quả các lý thuyết và cách tiếp cận của xã hội học nông thôn, xã hội hội học môi trường, xã hội học quản lý…. 1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn. Các kết quả của đề tài sẽ góp phần cung cấp những bằng chứng thực tiễn, đánh giá chính xác vai trò của các quỹ môi trường cộng đồng trong hoạt động bảo vệ môi trường tại các vùng nông thôn từ đó cung cấp những khuyến nghị để hoàn thiện mô hình của các quỹ môi trường cộng đồng và đề xuất các cơ chế nhân rộng mô hình. Thực tế đây là một mô hình đặc trưng điển hình của quá trình xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường tại cộng đồng cần được xem xét nhân rộng điều này không chỉ góp phần giải quyết bài toán ô nhiễm môi trường tại khu vực nông thôn mà còn góp phần đáng kể trong việc nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường. 1.3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 1.3.1.Mục đích nghiên cứu. Mô tả vai trò của các quỹ môi trường cộng đồng đối với hoạt động bảo vệ môi trường tại các vùng nông thôn đồng thời chỉ ra được các giải pháp để hoàn thiện mô hình này cũng như các cơ chế để nhân rộng mô hình. 6 1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Phân tích thực trạng hoạt động, cơ chế quản lý các quỹ môi trường cộng đồng tại khu vực nông thôn hiện nay. - So sánh sự khác biệt về cách thức tổ chức quản lý, hiệu quả hoạt động của từng mô hình quỹ môi trường tại các địa phương. - Đánh giá vai trò của các quỹ môi trường cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ môi trường tại các vùng nông thôn hiện nay. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện về cơ chế quản lý, các thức tổ chức hoạt động các quỹ môi trường cộng đồng, kiến nghị các giải pháp để nhân rộng mô hình. 1.4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu. 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu. Vai trò của quỹ môi trường cộng đồng trong hoạt động bảo vệ môi trường tại các vùng nông thôn hiện nay. 1.4.2. Khách thể nghiên cứu. Các quỹ môi trường cộng đồng tại Hà Nam và Bắc Giang. 1.4.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: xã Tân Sơn (huyện Kim Bảng-tỉnh Hà Nam), xã Bích Sơn (huyện Việt Yên-tỉnh Bắc Giang). - Phạm vi thời gian: tháng 7/2008-10/2009 1.5. Giả thuyết nghiên cứu - Các quỹ môi trường cộng đồng tuy có những đặc trưng khác nhau nhưng đều có cơ chế quản lý đơn giản. - Các quỹ môi trường cộng đồng đóng vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vấn đề môi trường tại cộng đồng đặc biệt là vấn đề rác thải. - Có sự khác biệt về cách thức tổ chức quản lý, hiệu quả hoạt động của các quỹ môi trường tại Hà Nam và Bắc Giang. 1.6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 1.6.1. Phương pháp luận. a. Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng 7 giúp cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề - sự kiện xã hội trong mối quan hệ phổ biến, qua lại, biện chứng với các vấn đề -sự kiện khác. Trong đề tài này, chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở để chỉ ra vai trò của các quỹ môi trường cộng đồng tại nông thôn đối với các hoạt động bảo vệ môi trường trong mối quan hệ với các đặc điểm kinh tế, xã hội, đặc trưng văn hoá…chính từ những đặc trưng này sẽ chỉ rõ sự khác biệt về vai trò và quá trình vận hành của từng quỹ môi trường cộng đồng tại Hà Nam và Bắc Giang. b. Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Yếu tố lịch sử cụ thể là một căn cứ không thể thiếu để xác định một sự vật, hiện tượng trong đó đặc biệt là vấn đề không gian và thời gian. Thực tế, cùng một sự vật, hiện tượng nhưng trong những bối cảnh không gian và thời gian cụ thể khác nhau các giá trị, chuẩn mực để đánh giá sự vật, hiện tượng là khác nhau. Dưới góc độ của chủ nghĩa duy vật lịch sử những đặc trưng bản chất của quỹ môi trường cộng đồng tại Hà Nam và Bắc Giang sẽ bộc lộ những điểm tương đồng và sự khác biệt. Đây chính là cơ sở cho việc so sánh và đánh giá vai trò, điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với từng quỹ môi trường cộng đồng tại các địa phương. 1.6.2. Các lý thuyết xã hội học.  Lý thuyết cấu trúc-chức năng. Cấu trúc xã hội hay còn gọi là cơ cấu xã hội (social structure) được hiểu: “là mô hình của các mối liên hệ giữa các thành phần cơ bản trong một hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho tất cả các xã hội loài người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các mối quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị trí, vai trò, nhóm và các thiết chế…”[2, tr.205]. Trong khi đó: “chức năng là nhu cầu, lợi ích, sự cần thiết, sự đòi hỏi, hệ quả, tác dụng mà một thành phần, bộ phận tạo ra hay thực hiện để đảm bảo sự tồn tại, vận động của cả hệ thống”[5, tr.201]. Bản chất của thuyết cấu trúc-chức năng đều nhấn mạnh tới tính ổn định và khả năng thích ứng của cấu trúc. Xã hội là một hệ thống tương đối chặt chẽ được cấu thành từ nhiều hệ thống có mối quan hệ tác động và phụ thuộc lẫn nhau tạo nên sự ổn định 8 của cấu trúc xã hội: “Sự biến đổi của cấu trúc tuân theo quy luật tiến hoá, thích nghi khi môi trường sống thay đổi; sự biến đổi của của cấu trúc luôn hướng tới thiết lập lại trạng thái cân bằng, ổn định”[5, tr.199]. Các tác giả của trường phái cấu trúc-chức năng cũng đặc biệt đề cao vai trò của các yếu tố giá trị, chuẩn mực để góp phần duy trì tính ổn định và trật tự của cấu trúc. Quan điểm lý thuyết cấu trúc-chức năng trong đề tài này được sử dụng với 3 mục đích chính: (i) đánh giá cấu trúc của hệ thống các quỹ môi trường cộng đồng tại Hà Nam và Bắc Giang, (ii) đánh giá mối quan hệ, tác động, phụ thuộc giữa các thành tố hình thành nên quỹ môi trường cộng đồng và (iii) từ đó chỉ ra vai trò của các quỹ môi trường cộng đồng đối với hoạt động bảo vệ môi trường ở các vùng nông thôn hiện nay.  Lý thuyết hành vi lựa chọn của George Homans (1910-1989) [2, tr.150-151] Homans là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của lý thuyết trao đổi xã hội. George Homans đã đưa ra “mô hình lựa chọn duy lý” của hành vi cá nhân theo các nguyên tắc cơ bản.  Nếu một dạng hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng lặp lại.  Hành vi được thưởng hay được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh như vậy  Nếu như phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra nhiều “ chi phí” vật chất và tinh thần để đạt được nó.  Mức độ hài lòng, thoả mãn với những phần thưởng, mối lợi cá nhân giành được cao nhất ở lần đầu và có xu hướng giảm dần. Với lý thuyết hành vi lựa chọn của George Homans những cách lý giải về hành vi của cá nhân trong cộng đồng liên quan tới môi trường và quỹ môi trường cộng đồng sẽ được nhìn nhận ở nhiều chiều cạnh hơn, không chỉ liên quan đến khía cạnh kinh tế mà còn liên quan tới khía cạnh giá trị, chuẩn mực, nhận thức về môi trường của các cá nhân trong cộng đồng. Những lý giải này cũng sẽ cho thấy tầm quan trọng của quy chế bảo vệ môi trường cấp cộng đồng trong việc điều chỉnh hành vi môi 9 trường của mỗi người dân và hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động của quỹ môi trường cộng đồng. 1.6.3. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin. a. Phương pháp thu thập thông tin:  Phương pháp phân tích tài liệu: Trong nghiên cứu này có 3 nguồn tài liệu chính được thu thập và phân tích: (i) các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài (chủ yếu là các công trình nghiên cứu liên quan ở mức độ gián tiếp), (ii) các tài liệu, thông tin thu thập từ Internet có liên quan tới đề tài và (iii) các tài liệu, thông tin kinh tế-xã hội do các địa phương cung cấp.  Phương pháp phân tích số liệu thứ cấp: Toàn bộ số liệu định lượng (dựa trên phỏng vấn bằng bảng hỏi) và số liệu định tính (dựa trên phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm) của luận văn này được khai thác từ bộ số liệu của dự án: Điều tra đánh giá thực trạng các quỹ bảo vệ môi trường cộng đồng, đề xuất cơ chế xây dựng, quản lý, vận hành và phát triển quỹ” do Trung tâm Phát triển Xã hội và Môi trường Vùng thực hiện tại Hà Nam, Thanh Hoá, Bắc Giang trong 2 năm 2008-2009. Trong đó, tác giả chỉ khai thác thông tin của 2 tỉnh Hà Nam và Bắc Giang. b. Kỹ thuật xử lý thông tin: - Thông tin định lượng: các thông tin định lượng trong đề tài này được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 11.5. 1.6.4. Hệ thống khái niệm.  Vai trò [2, tr.212] : một vai trò là một tập hợp các mong đợi, các quyền, và những nghĩa vụ được gán cho một địa vị cụ thể. Thực tế khái niệm vai trò được trình bày trong đề tài này là sự vay mượn khái niệm vai trò trong mối quan hệ với vị thế của cơ cấu xã hội vốn được dùng chủ yếu để nói về vai trò của con người. Tuy nhiên, nếu coi quỹ môi trường cộng đồng là một chủ thể trong hệ thống bảo vệ môi trường tại các vùng nông thôn hiện nay thì bản thân quỹ môi trường cộng đồng cũng là tập hợp các mong đợi, các quyền và những nghĩa vụ như bất kể như một vai trò nào khác - ở đây là vấn đề bảo vệ môi trường chính tại cộng đồng. 10  Quỹ môi trường (hay quỹ bảo vệ môi trường) [7, tr.113]: Là tổ chức tài chính được thành lập ở trung ương, ngành, lĩnh vực, địa phương để hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường. Như vậy khái niệm quỹ môi trường cộng đồng có thể được hiểu như sau: Quỹ môi trường cộng đồng là quỹ tài chính do cộng đồng hoặc chính quyền địa phương thành lập trên cơ sở nhất trí của cộng đồng để hỗ trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường tại cộng đồng. Hiện nay tất cả các quỹ môi trường cộng đồng đều dựa trên và chủ yếu là các đóng góp tài chính, không có các dạng quỹ môi trường cộng đồng theo hình thức không có đóng góp tài chính. Thu gom rác thải là hoạt động chính của các quỹ môi trường cộng đồng.  Bảo vệ môi trường [7, tr.8]: là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học.  Nông thôn: [1, tr.115] “Nông thôn với tư cách là khách thể nghiên cứu xã hội học về một phân hệ xã hội có lãnh thổ xác định đã định hình từ lâu trong lịch sử. Đặc trưng của phân hệ xã hội này là sự thống nhất đặc biệt của môi trường nhân tạo với các điều kiện địa lí tự nhiên ưu trội, với kiểu loại tổ chức xã hội phân tán về mặt không gian. Tuy nhiên nông thôn có những đặc trưng riêng biệt của nó. Nông thôn phân biệt với đô thị bởi trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp kém hơn, bởi thua kém hơn về mức độ phúc lợi xã hội, sinh hoạt. Điều này thể hiện rõ trong cơ cấu xã hội và trong lối sống của cư dân nông thôn. ở nông thôn loại hình hoạt động lao động kém đa dạng (so với đô thị), tính thuần nhất về xã hội và nghề nghiệp cao hơn. Nông thôn là hệ thống độc lập tương đối ổn định, là một tiểu hệ thống không gian xã hội. Các thành phần cơ bản của nó đồng nhất với đô thị. Nông thôn và đô thị hợp lại thành chỉnh thể xã hội và lãnh thổ (không gian) của cơ cấu xã hội”. 1.6.5. Mẫu nghiên cứu. - Mẫu định lượng: 300 đơn vị mẫu phỏng vấn các hộ gia đình tại các địa phương có mô hình quỹ môi trường cộng đồng. Trong đó bao gồm một số các đặc trưng nhân 11 khẩu học sau: (1) Giới tính: 96 nam (32%), 204 nữ (68%); (2) Độ tuổi: dưới 40 tuổi: 101 người (33,7%), từ 41-50: 77 người (25,7%), từ 51 tuổi trở lên: 122 người (40,6%); (3) Học vấn: dưới lớp 5: 71 người (23,7%), từ lớp 6-9: 160 người (53,3%), từ lớp 10 trở lên: 69 người (23%); (4) Nghề nghiệp: nông dân: 195 người (65%), nghề khác: 105 người (35%); (5) Hôn nhân: chưa có vợ chồng: 11 người (3,7%), đang có vợ chồng 239 người (79,7%), ly hôn: 2 người (0,6%), goá: 48 người (16%). - Mẫu định tính: 10 cuộc phỏng vấn sâu và 2 thảo luận nhóm bao gồm nhóm cán bộ đoàn thể tại địa phương và một số người dân. 1.7. Cơ sở thực tiễn của đề tài. 1.7.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. Do đây là một đề tài mới chính vì thế ở thời điểm hiện tại, các công trình nghiên cứu hay các bài viết có liên quan trực tiếp tới quỹ môi trường cộng đồng là không có, chỉ có các nghiên cứu và các tài liệu gián tiếp liên quan tới đề tài 1. Trên thực tế, các quỹ môi trường cộng đồng thường được hình thành thông qua hai con đường chính. Thứ nhất dựa vào nội lực của chính các cộng đồng: trường hợp này lại bao gồm 2 trường hợp (i) do cộng đồng khởi xướng và (ii) do chính quyền địa phương khởi xướng, thứ hai dựa vào sự hỗ trợ từ các dự án phát triển cộng đồng, bảo vệ môi trường thường được thực hiện bởi các INGO2 hoặc các VNGO3 (tuy nhiên cũng có sự tham gia của chính quyền địa phương). Bản thân các quỹ môi trường cộng đồng cũng có nhiều hình thức tồn tại khác nhau và nhìn chung được vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với tình hình thực tiễn tại các địa bàn nghiên cứu. Tuy nhiên đại đa số các dạng quỹ môi trường cộng đồng được tổ chức và quản lý dựa trên cơ sở đóng góp về tài chính của người dân trong cộng đồng. Đóng góp tài chính này được xác định trên cơ sở sự đồng thuận của cộng đồng và thường được đảm bảo hoạt động bằng các quy định về bảo vệ môi trường do cộng đồng soạn thảo và thông qua. 1 Thực tế chưa có một đề tài nào nghiên cứu trực tiếp về vấn đề này các kết quả tổng quan dưới đây chủ yếu đều được rút ra từ các dự án cụ thể có liên quan. 2 Tổ chức phi chính phủ của quốc tế 3 Tổ chức phi chính phủ của Việt Nam 12 Các hoạt động của quỹ môi trường cộng đồng cũng có mức độ da dạng khác nhau phụ thuộc vào từng bối cảnh kinh tế xã hội nhất định, tuy nhiên nhìn chung hầu hết các quỹ này đều tập trung vào giải quyết vấn đề ô nhiễm rác thải một vấn đề đang rất nóng tại các vùng nông thôn hiện nay. Đối với các nghiên cứu có liên quan gián tiếp tới đề tài, có thể kể đến một số các công trình sau4: Năm 1999, trên tạp chí Xã hội học số 3&4 tác giả Vũ Cao Đàm đã nêu ra các vấn đề “nghiên cứu xã hội học trong sự phát triển của tư tưởng môi trường” trong đó tác giả đã chỉ rõ tầm quan trọng của các nghiên cứu xã hội học liên quan đến lĩnh vực môi trường cùng với việc chỉ ra các cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu về môi trường như: tiếp cận dịch tễ học, tiếp cận sinh thái học, tiếp cận công nghệ học, tiếp cận kinh tế học. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu ra những phương hướng nghiên cứu của xã hội học môi trường (Environmental Sociology), đặc biệt tập trung vào vấn đề xung đột môi trường cũng như vấn đề điều hoà và quản lý xung đột môi trường. Có thể nói sau 10 năm các hướng nghiên cứu của xã hội học môi trường đã phát triển theo nhiều hướng khác nhau một mặt thể hiện tính đa dạng, phức tạp của diễn biến môi trường, mặt khác thể hiện sự quan tâm ngày càng nhiều của cộng đồng xã hội đối với các vấn đề môi trường, điều này được thể hiện rất rõ trong một số các báo cáo, dự án dưới đây. Báo cáo: “Nâng cao vai trò và sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường thông qua tăng cường công tác phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng” của tác giả Dương Thị Tơ và Tô Kim Oanh trong khuôn khổ dự án: “Tăng cường năng lực thể chế quản lý thông tin môi trường” do WB tài trợ 2000-2002. Trong báo cáo này các tác giả chỉ ra tầm quan trọng của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ môi trường trong đó giải pháp tối ưu để huy động sự tham gia của người dân dựa trên các biện pháp phổ biến thông tin. Ngoài việc nêu và phân tích kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới các tác giả cũng đã đánh giá các hiệu quả các hoạt động triển khai công tác huy động cộng đồng và phổ biến thông tin môi trường ở một số các 4 Các công trình, dự án được sắp xếp theo thứ tự tăng dần về thời gian. 13 tỉnh, thành phố lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Mặc dù vậy, phạm vi vấn đề mà các tác giả nghiên cứu mới chỉ tập trung tại các khu vực đô thị (nơi vốn có nhiều điều kiện thuận lợi cho các hoạt động phổ biến thông tin môi trường) trong khi đó ở khu vực nông thôn, vấn đề này còn bỏ ngỏ. Dự án SES/1/03: “Nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường và sản xuất an toàn thực phẩm. Xây dựng mô hình hợp tác xã dịch vụ bảo vệ môi trường tại xã Khắc Niệm, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh” do Tổ chức hợp tác phát triển quốc tế Thuỵ Điển (SIDA) tài trợ đã hướng đến công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân. Các nội dung có lồng ghép với Luật Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Trong báo cáo của dự án, các biện pháp được triển khai, hướng dẫn cho cộng đồng tương đối xác thực, có giá trị thực tiễn cao như xây dựng các mô hình biogas, thành lập đội vệ sinh môi trường tự quản…Tuy nhiên tính bền vững của dự án cũng bị ảnh hưởng bởi cơ chế để duy trì dự án khi kết thúc tài trợ chưa được tính toán một cách cụ thể. Dự án: “Nâng cao nhận thức và xây dựng mô hình văn hoá môi trường cho các cộng đồng làng nghề tại tỉnh Hà Tây” triển khai tại xã Đông Phương Yên, xã Phùng Xá và xã Tân Hoà do Trung tâm Phát triển Xã hội và Môi trường Vùng thực hiện. Trong dự án này, mô hình văn hoá môi trường làng nghề được xây dựng tại xã Đông Phương Yên dựa trên nền tảng quỹ môi trường cộng đồng bằng việc kết hợp giữa quy chế bảo vệ môi trường cộng đồng do chính người dân tham gia xây dựng với mô hình đội thu gom rác thải tại cộng đồng. Chính sự kết hợp chặt chẽ giữa mô hình thực tế và quy chế quy phạm các hành vi, chuẩn mực của các cá nhân trong cộng đồng đối với vấn đề môi trường đã giúp nâng cao nhận thức và bước đầu hình thành những đặc trưng văn hoá môi trường cho cộng đồng này. Mặc dù vậy, kết quả dự án cũng đồng thời cho thấy những thách thức khi một cộng đồng “tự lực” giải quyết vấn đề môi trường của mình mà không có những hỗ trợ từ bên ngoài. Kết quả nghiên cứu của dự án trình diễn: “Xây dựng mô hình xã hội hoá để giải quyết những vấn đề chất thải rắn cho 4 xã: Thi Sơn, Ngọc Sơn, Văn Xá và Thị trấn Quế ở huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam” do PGS.TS Nguyễn Thị Kim Thái và 14 PGS.TS Nguyễn Thị Loan thực hiện cho thấy tính cấp thiết của việc xây dựng và đẩy mạnh các mô hình xã hội hoá bảo vệ môi trường khi mà những tác động tiêu cực từ ô nhiễm môi trường (chủ yếu rác thải) ngày càng hiển hiện rõ rệt trong khi tính đồng thuận của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ môi trường và sự quyết liệt của chính quyền địa phương chưa được thể hiện rõ. Kết thúc báo cáo đánh giá, nhóm tác giả đã đưa ra những phương án lựa chọn xây dựng mô hình phù hợp với điều kiện thực tế của các địa phương. Tuy nhiên báo cáo chủ yếu tập trung nhiều vào các phân tích kĩ thuật về thu gom và xử lý rác chưa chưa đi sâu đánh giá nhận thức của cộng đồng về hoạt động bảo vệ môi trường và những thách thức đối với tính bền vững của các mô hình thu gom rác thải. Dự án: “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường và xây dựng mô hình thí điểm hệ thống thu gom, xử lý rác thải” tại Thị trấn Đồng Văn, Duy Tiên, Hà Nam do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Nam thực hiện dưới sự tài trợ của chương trình SEMLA, trong dự án này có 2 mục tiêu hết sức quan trọng được đặt ra: “xây dựng một mô hình thu gom rác, tự quản bảo vệ môi trường với sự tham gia của đông đảo nhân dân và các tổ chức xã hội. Đồng thời với việc tuyên truyền phổ biến chính sách, kỹ năng hoạt động bảo vệ môi trường để nâng cao nhận thức và trình độ hiểu biết khả năng tự bảo vệ môi trường của cộng đồng” [15]. Các hoạt động của dự án đã mang lại những thay đổi tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường không chỉ tại Đồng Văn mà tại nhiều khu vực lân cận với các hoạt động của đội thu gom rác thải và hàng loạt các hoạt động truyền thông môi trường. 1.7.2. Chủ trương xã hội hóa lĩnh vực bảo vệ môi trường. Mô hình quỹ môi trường cộng đồng là một ví dụ điển hình của hoạt động xã hội hoá trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Hiện nay, xã hoá hoá không chỉ là một thuật ngữ về mặt khoa học mà còn là một thuật ngữ của chính sách. Chính sự thay đổi của tư duy quản lý Nhà nước đã khiến cho thuật ngữ xã hội hoá được sử dụng phổ biến. Hiện nay, có rất nhiều các lĩnh vực quản lý Nhà nước được khuyến khích xã hội hoá như: Giáo dục, Y tế, văn hoá, thể dục thể thao…Xã hội hoá lĩnh vực bảo vệ môi trường là một chủ trương lớn của Việt Nam trong nhiều năm qua. Nhờ vào chủ 15 trương này, “tốc độ” ô nhiễm môi trường tại nhiều khu vực đã được kìm chế đáng kể, trách nhiệm môi trường vì thế cũng được thực thi một cách rộng rãi. Ở khía cạnh vĩ mô, số lượng các văn bản quản lý Nhà nước trong lĩnh vực môi trường ngày càng dầy và đa dạng, trong đó có sự đóng góp đáng kể của các chính sách xã hội hoá. Ngoài Luật Bảo vệ môi trường, khi nhắc tới vấn đề xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường các nhà khoa học và các nhà quản lý thường hay nhắc tới chỉ thị 36/CTTW và nghị quyết 41-NQ/TW. Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chỉ rõ: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trong đó các mục tiêu về bảo vệ môi trường được xác định như sau:“Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện môi trường của những nơi, những vùng đã bị suy thoái, bảo tồn đa dạng sinh học, từng bước nâng cao chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn…”. Rõ ràng việc đạt các mục tiêu bảo vệ môi trường nói trên là một thách thức trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chính vì thế chỉ thị 36/CT-TW đã đưa ra hàng loạt các giải pháp: (i)Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường, (ii) Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ môi trường, ban hành các chính sách về phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi hành Luật bảo vệ môi trường, (iii) Chủ động phòng chống ô nhiễm và sự cố môi trường, khắc phục tình trạng suy thoái môi trường, (iv) Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên, (v) Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường, (vi) Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương, (vii) Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ, đào tạo cán bộ, chuyên gia về lĩnh vực bảo vệ môi trường, và (viii) Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. Trong 8 giải pháp nói trên, việc nâng cao nhận thức, cải thiện hành vi của 16 cộng đồng và thúc đẩy các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường (một phần của hoạt động xã hội hoá lĩnh vực bảo vệ môi trường) được đưa lên hàng đầu điều này cho thấy tầm quan trọng của xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và phát huy vai trò của quần chúng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói riêng, đặc biệt tại các vùng nông thôn – nơi rộng lớn và các dịch vụ môi trường như ở đô thị chưa thể vươn tới. Sau chỉ thị số 36/CT-TW, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau thời gian chạy đà, Việt Nam bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng đồng nghĩa với sự gia tăng đáng kể nguy cơ, sức ép và những tác động tiêu cực tới môi trường. Sự tăng tốc của hoạt động kinh tế xã hội đòi hỏi sự “quyết liệt” trong các chính sách về bảo vệ môi trường, do đó dễ hiểu khi có sự thay đổi về mục tiêu bảo vệ môi trường cụ thể của Việt Nam giữa Nghị quyết số 41NQ/TW và chỉ thị số 36/CT-TW:“Ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra. Sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học. Khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, từng bước nâng cao chất lượng môi trường. Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mọi người đều có ý thức bảo vệ môi trường, sống thân thiện với thiên nhiên.” Như vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên đã được đưa lên hàng đầu, tuy nhiên không thể kiểm soát ô nhiễm, không thể sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nếu ý thức, trách nhiệm về bảo vệ môi trường của mỗi người còn hạn chế và những hành vi thiếu thân thiện với môi trường vẫn được tiếp diễn. Các nghiên cứu về xung đột môi trường đã cho thấy sự “lệch pha” về mặt giá trị giữa hành động bảo vệ môi trường với các hành động kinh tế và các hành động “có lợi” khác của con người. Xét về mặt lịch sử, con người đã được lĩnh hội và thường xuyên trau dồi các hành động kinh tế nhưng lại mới hoặc ít biết, thực hiện các hành vi về mặt môi trường. Bên cạnh đó, tâm lý con người thường chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt (đặc biệt là lợi ích kinh tế) trong khi lợi ích của các hành động về môi 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan