Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của phật giáo đối với đời sống văn hóa của người dân thanh hóa từ năm 19...

Tài liệu Vai trò của phật giáo đối với đời sống văn hóa của người dân thanh hóa từ năm 1984 đến nay

.PDF
136
458
106

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ HƢỜNG VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƢỜI DÂN THANH HÓA TỪ NĂM 1984 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Châu Á Học HÀ NỘI, 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ HƢỜNG VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƢỜI DÂN THANH HÓA TỪ NĂM 1984 ĐẾN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Châu Á Học Mã số: 60 31 50 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:PGS.TS. Nguyễn Tƣơng Lai HÀ NỘI, 2013 2 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 6 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài: ............................................................................... 6 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: .................................................................................. 8 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: ..................................................................... 12 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: .................................................................................. 12 5. Cấu trúc của luận văn: ....................................................................................... 13 PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 14 CHƢƠNG 1: PHẬT GIÁO Ở THANH HÓA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỊCH SỬ . 14 1.1 Khái quát chung về lịch sử Phật giáo ở Thanh Hóa. .................................. 14 1.2. Những ngƣời có công khởi dựng và phát triển Phật giáo Thanh Hóa ....... 23 CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO THANH HOÁ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG VÀ TƢ TƢỞNG CỦA NHÂN DÂN TỪ NĂM 1984 ĐẾN NAY.......................................................................................... 28 2.1. Những đóng góp chính ................................................................................. 28 2.1.1 Phật giáo đối với đạo đức ......................................................................... 28 2.1.2 Phật giáo đối với lối sống, nếp sống.......................................................... 35 2.1.3 Phật giáo đối với phong tục tập quán ........................................................ 40 2.1.3.1Tập tục đi chùa cầu may ...................................................................... 41 2.1.3.2Tập tục Cầu siêu và Làm chay ............................................................. 43 2.1.3.3Tập tục coi ngày giờ ............................................................................ 45 2.1.3.4Tập tục dựng cây nêu ngày tết ............................................................. 46 2.1.4 Phật giáo đối với văn hóa lễ hội ................................................................ 47 3 2.1.4.1 Lễ hội báo hiếu Vu Lan ....................................................................... 48 2.1.4.2 Lễ hội chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ................................................ 50 2.1.4.3 Lễ hội tâm linh Đền Sòng, Phố Cát ..................................................... 51 2.1.4.4 Lễ hội Bánh Chưng Bánh Dày ............................................................ 52 2.1.5 Phật giáo đối với công tác từ thiện xã hội ................................................. 54 2.2. Những thách thức của quá trình hội nhập và phát triển ............................ 57 2.2.1 Sự lệch lạc trong nhận thức của Tăng Ni Phật tử ...................................... 57 2.2.2 Hiện tượng mê tín trong hoạt động lễ nghi nhà chùa ................................. 58 2.2.3 Nhu cầu tham dự vào tiến trình hội nhập quốc tế ...................................... 58 2.3. Những hoạt động của Phật giáo Thanh Hoá trong quá trình hội nhập và phát triển.............................................................................................................. 61 2.3.1 Chăm lo đào tạo Tăng Ni Phật tử trong toàn tỉnh ..................................... 61 2.3.2 Xây dựng, củng cố và phát triển các Ban đại diện Phật giáo ..................... 63 2.3.3 Củng cố và phát triển tín đồ Phật tử .......................................................... 65 CHƢƠNG 3: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO THANH HOÁ ĐỐI VỚI VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT CỦA TỈNH NHÀ TỪ NĂM 1984 ĐẾN NAY .............. 68 3.1. Phật giáo đối với Văn học ............................................................................ 68 3.2. Phật giáo đối với kiến trúc, điêu khắc chùa chiền ...................................... 73 3.2.1.Kiến trúc điêu khắc Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Văn Lộc, Hậu Lộc,Thanh Hóa) ................................................................................................. 73 3.2.2. Kiến trúc điêu khắc chùa Hoa Long (Vĩnh Thịnh, Vĩnh lộc, Thanh Hóa) .. 76 3.2.3. Kiến trúc điêu khắc chùa Đót Tiên (Du Xuyên, Thanh Hải, Tĩnh Gia, Thanh Hóa)........................................................................................................ 77 3.2.4. Kiến trúc điêu khác chùa Mật Đa (Phường Nam Ngạn, Thành phố Thanh Hóa ) ................................................................................................................. 79 3.2.5.Kiến trúc điêu khắc chùa Đại Bi (Phường Đông Vệ, Thành Phố Thanh Hóa )....................................................................................................... 80 3.2.6. Kiến trúc điêu khắc chùa Thanh Hà (Phường Trường Thi, Thành phố Thanh Hóa)........................................................................................................ 81 4 3.2.7. Sự thay đổi trong chất lượng xây dựng chùa hiện nay .............................. 83 3.3. Phật giáo đối với Âm nhạc ........................................................................... 85 3.4. Phật giáo đối với Sân Khấu .......................................................................... 87 PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................. 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 101 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 107 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài: 1.1 Lý do chọn lựa đề tài: Phật giáo du nhập vào Việt Nam đến nay đã hơn 2000 năm, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Phật giáo đã có nhiều đóng góp tích cực đối với sự phát triển của xã hội cũng nhƣ đời sống tinh thần của nhân dân. Trong những cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù xâm lƣợc của dân tộc, Phật giáo cùng với lực lƣợng tín đồ của mình đã tham gia tích cực vào công cuộc kháng chiến, thống nhất đất nƣớc; Đồng thời góp phần phục hồi hòa bình, gìn giữ nền độc lập dân tộc. Trong đời sống tinh thần của dân tộc, Phật giáo đã ảnh hƣởng sâu sắc đến đời sống văn hóa - xã hội, góp phần xây dựng nền tảng đạo đức, lối sống lành mạnh cho nhiều thế hệ ngƣời Việt. Nội dung giáo lý Phật giáo thể hiện triết lý giáo dục con ngƣời phải sống tận chân, tận thiện, tận mỹ. Chính những giá trị đạo đức này đã ngày càng khẳng định vai trò của Đạo Phật trong việc giáo dục hoàn thiện nhân cách đạo đức con ngƣời, đồng thời giúp cho Phật giáo ngày càng tạo lập đƣợc cơ sở thực tiễn vững chắc cho sự tồn tại và phát triển của mình trên đất nƣớc Việt Nam. Thanh Hóa là một địa phƣơng có nền văn hóa lâu đời, từ văn hóa Đa Bút đến văn hóa Đông Sơn trải dài mấy ngàn năm. Khi Phật giáo du nhập vào Thanh Hóa, đƣợc ngƣời dân Thanh Hoá tiếp nhận một cách tự nhiên và nhanh chóng hòa hợp với tín ngƣỡng bản địa, khiến cho nó ăn sâu bám rễ, phát triển tạo nên sự hòa đồng giữa văn hóa Phật giáo với văn hóa tín ngƣỡng bản địa trong nhiều thiên niên kỷ. Do đó, ngay từ thời Lý, Trần, Phật giáo đã phát triển rộng khắp ở các miền trung du, đồng bằng trong tỉnh. Dấu ấn Phật giáo Thanh Hóa qua các thời kỳ phát triển đƣợc đánh dấu bằng hệ thống chùa chiền dày đặc (269 ngôi chùa trong toàn tỉnh). Đặc biệt là các ngôi chùa từ thời Lý, Trần vẫn tồn tại đến ngày hôm nay nhƣ chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh, chùa Hoa Long, chùa Hƣơng Nghiêm, chùa Linh Xứng 6 …Điều này minh chứng cho sự ảnh hƣởng của Phật giáo đối với ngƣời dân Thanh Hóa là rất sâu đậm, không phải địa phƣơng nào cũng có đƣợc Ngày 01 tháng 11 năm 1984, Giáo hội Phật giáo tỉnh Thanh Hóa đƣợc thành lập, đánh dấu sự trƣởng thành và phát triển của Phật giáo Thanh Hóa. Kể từ sau khi thành lập, đặc biệt là trong giai đoạn hiên nay. Phật giáo Thanh Hóa đã tham gia và có những đóng góp to lớn trong mọi lĩnh vực hoạt động của tỉnh nhà nhƣ: Chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa xã hội... Điều này, khẳng định vị trí, vai trò không nhỏ của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của ngƣời dân cũng nhƣ trong công cuộc xây dựng quê hƣơng Thanh Hóa Để nêu bật lên đƣợc vai trò và những đóng góp có giá trị tích cực của Phật giáo đối với tỉnh nhà, thì việc nghiên cứu khảo sát một cách đầy đủ và có hệ thống về Phật giáo ở Thanh Hóa là một việc làm cần thiết. Việc làm này sẽ giúp cho nhân dân Thanh Hoá nói chung và giới Tăng Ni Phật tử Thanh Hoá nói riêng tự hào về Phật giáo Thanh Hoá với một quá trình phát triển dài lâu cùng với những đóng góp rất thiết thực cho đất nƣớc, cho dân tộc trong bao nhiêu năm qua mà đặc biệt là sau khi Tỉnh hội Phật giáo Thanh Hoá đƣợc thành lập cho đến nay. Việc làm này sẽ góp phần đƣa ra những giải pháp để Phật giáo phát huy hơn nữa những đóng góp hiệu quả đối với công cuộc xây dựng và phát triển xã hội, đặc biệt trong việc xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh cho nhân dân trong tỉnh. Đây chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài “Vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của người dân Thanh Hóa từ năm 1984 đến nay” làm luận văn tốt nghiệp, với hy vọng giải mã thêm các lớp trầm tích văn hóa Phật giáo ở Thanh Hóa và phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo này vào sự nghiệp dựng xây phát triển đất nƣớc Việt Nam dân giàu nƣớc mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. 1.2 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: -Ý nghĩa khoa học: Luận văn đã khái quát đƣợc quá trình du nhập và phát triển Phật giáo vào Thanh Hóa, nêu lên vai trò của Phật giáo trên một số lĩnh vực trong đời sống văn hóa của ngƣời dân tỉnh Thanh. Đồng thời cũng đƣa ra một số giải pháp chủ yếu 7 nhằm phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế của Phật giáo trong việc xây dựng đời sống văn hóa của nhân dân Thanh Hóa, góp phần xây dựng đời sống văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay. Từ đó góp phần xây dựng những luận cứ khoa học nhằm củng cố và phát triển Phật giáo Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu có nội dung liên quan đến Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng, cũng nhƣ sử dụng làm tài liệu tham khảo để giảng dạy về tôn giáo ở các trƣờng đại học, cao đẳng và trƣờng chính trị tỉnh. Ngoài ra luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, bồi dƣỡng, tập huấn đối với cán bộ làm công tác tôn giáo, công tác vận động quần chúng nói chung và ở Thanh Hóa nói riêng 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Nghiên cứu vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá của ngƣời dân Việt Nam nói chung và ngƣời dân Thanh Hóa nói riêng là một đề tài rộng lớn. Đã có một số công trình nghiên cứu và đạt những kết quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trình sau: Nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam Năm 1984, tiến sĩ Perter D.Samtina viết cuốn “Fundamentals of Buddhism” (Nền tảng của đạo Phật). Cuốn sách đƣợc Thích Tâm Quang dịch sang tiếng Việt năm 1996. Trong cuốn sách này, tác giả trình bày 12 bài giảng về lịch sử ra đời của đạo Phật và những giáo lý cơ bản của đạo Phật nhƣ: Tứ diệu đế, nhân quả, nghiệp, ngũ uẩn… Đây là những nội dung đƣợc trình bày từ quan niệm của một Phật tử Phƣơng Tây, có hiểu biết sâu sắc về giáo lý Phật giáo, với nhiều nội dung phong phú, nhất là những quan niệm về nhân sinh của đạo Phật nguyên thủy. Năm 1986, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam – Viện Triết học xuất bản cuốn “Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam”, tập hợp 25 bài tham luận của các nhà nghiên cứu có tên tuổi trong giới khoa học Việt Nam nhƣ Trần 8 Văn Giàu, Nguyễn Tài Thƣ, Nguyễn Đức Sự, Trần Bạch Đằng, Hà Văn Tấn, Phan Đại Doãn, Trần Đình Hựu…Trong tập bài tham luận này, các tác giả đã phân tích và làm sáng tỏ mối quan hệ tác động qua lại giữa Phật giáo và lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, tính chất của Phật giáo và Phật giáo Việt Nam. Đồng thời cũng đề cập đến một số tông phái Phật giáo Việt Nam, ảnh hƣởng chủ nghĩa yêu nƣớc tới văn hóa Việt Nam… Năm 1988, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuốn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Viện Triết học do PGS Nguyễn Tài Thƣ chủ biên. Cuốn sách đề cập đến quá trình du nhập và Phát triển Phật giáo vào Việt Nam từ đầu công nguyên cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Năm 1992, Hòa Thƣợng Thích Thanh Từ viết cuốn “ Phật giáo với dân tộc”, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách này tác giả giới thiệu 3 đề tài lớn: Phần 1. Phật giáo trong mạch sống dân tộc, phần 2. Vài nét chính luân lý Phật giáo, phần 3. Đạo Phật và tuổi trẻ. Năm 1995, Nhà xuất bản Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam xuất bản cuốn “Đạo đức học Phật giáo” bao gồm những bài tham luận của nhiều tác giả. Nội dung chủ yếu của cuốn sách đƣợc các tác giả đề cập là những cơ sở và các phạm trù đạo đức của Phật giáo, những phân tích để cắt nghĩa rõ thêm nội dung của chúng nhƣ giới, hạnh, nguyện, thiện, ác... Năm 1996, Giáo sƣ Nguyễn Phan Quang viết Cuốn “Có một nền đạo lý Việt Nam” Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn sách giới thiệu đến sự hòa nhập của đạo đức Phật giáo trong đạo lý dân gian Việt Nam. Từ đó giúp ngƣời đọc nhận thức đƣợc vai trò cũng nhƣ những đóng góp tích cực của Phật giáo đối với nền đạo đức dân tộc. Năm 1996, Giáo sƣ Trần Lâm Biền viết cuốn “Chùa Việt”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông Tin. Tác giả đã khái quát lịch sử các Chùa Việt và quá trình thâm nhập Phật Giáo vào Việt Nam thông qua hệ thống chùa chiền; những nghiên cứu tính chất văn hoá, Nghệ thuật, Kiến trúc và phong cách tƣợng Phật tại các chùa Việt Nam từ thời Lý đến thế kỷ 10. 9 Năm 1997, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản cuốn “Ảnh hƣởng của các hệ tƣ tƣởng và tôn giáo đối với con ngƣời Việt Nam hiện nay” do Giáo sƣ Nguyễn Tài Thƣ chủ biên. Phần viết về Phật giáo, các tác giả đã tập trung vào các khái niệm từ, bi, hỉ, xả cùng các giá trị tƣ tƣởng của Phật giáo với tƣ tƣởng của con ngƣời Việt Nam. Năm 2000, Thanh Lê viết cuốn “Văn hóa và lối sống”, Nhà xuất bản Thanh Niên. Tác giả đã hệ thống hóa vấn đề văn hóa và lối sống nhƣ là một hành trang của thanh niên vào thế kỷ XXI. Trong đó phân tích thực trạng suy đồi của lối sống thanh niên và đƣa ra một số giải pháp nhằm chống lại tình trạng suy đồi và lối sống sa đọa này. Năm 2002, Phó Giáo sƣ Tiến sĩ Nguyễn Hùng Hậu viết cuốn “Đại cƣơng triết học Phật giáo Việt Nam”, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Nội dung chủ yếu của cuốn sách là sự khái quát những nét cơ bản về quá trình du nhập cũng nhƣ ảnh hƣởng của Phật giáo với dân tộc Việt Nam. Năm 2006, Nhà xuất bản Thanh Niên xuất bản cuốn “Chùa Cổ Việt Nam” do Vũ Ngọc Khánh chủ biên. Cuốn sách tập chung giới thiệu các ngôi chùa cổ Việt Nam trong đó có một số ngôi chùa tiêu biểu của Thanh Hóa. Năm 2007, Nguyễn Đức Lữ trong cuốn “Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” đã đánh giá các giá trị truyền thống của Phật giáo trong tƣơng quan với các tôn giáo, tƣ tƣởng tín ngƣỡng và các trào lƣu tƣ tƣởng khác. Từ đó tác giả cho rằng, trong công cuộc đổi mới đất nƣớc, trƣớc xu hƣớng toàn cầu hóa, Phật giáo cần biết tự điều chỉnh để thích ứng với xã hội Việt Nam và nhân loại thời hiện đại, cùng đất nƣớc bƣớc trên lộ trình đổi mới trong bối cảnh lịch sử mới. Nghiên cứu về Phật giáo Thanh Hóa Năm 1984, Nhà xuất bản văn hoá thông tin xuất bản cuốn “Lịch sử Thanh Hóa” tập 2, do Ban nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa giới thiệu. Phần nói về Phật giáo đã trình bày quá trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Thanh Hóa. 2000, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin xuất bản cuốn “Địa chí Thanh Hoá” tập 1, do nhiều tác giả trong ban nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa viết, phần viết về 10 “Những tôn giáo phổ cập ở Thanh Hóa chung với tình hình cả nƣớc”, đã giới thiệu về những ngƣời có công khởi dựng và phát triển Phật giáo ở Thanh Hóa và giới thiệu về các nhà sƣ nổi tiếng của Thanh Hóa. Năm 2008, TS. Mai Thị Hồng Hải với Báo cáo tổng kết khoa học đề tài “Vận dụng lý thuyết văn hóa vùng và phân vùng văn hóa nhằm quản lý, bảo tồn và phát huy sắc thái văn hóa tỉnh Thanh Hóa”, trong phần về tôn giáo tín ngƣỡng có giới thiệu về quá trình du nhập Phật giáo vào Thanh Hóa đồng thời giới thiệu về một số chùa nổi tiếng ở Thanh Hóa…. Năm 2009, Nhà xuất bản Thanh Hóa xuất bản cuốn “Kỷ yếu tọa đàm kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thanh Hóa”, bao gồm những bài viết, báo cáo về quá trình hình thành, phát triển và những thành tựu đạt đƣợc của tỉnh hội Phật giáo Thanh Hóa qua 25 năm thành lập (1984-2009). Năm 2009, Nhà xuất bản Thanh Hóa xuất bản cuốn “Chùa xứ Thanh”, tập 1 của tỉnh hội Phật giáo Thanh Hóa bao gồm nhiều tác giả viết, chủ yếu giới thiệu về lịch sử các ngôi chùa trong toàn tỉnh. Năm 2010, Nhà xuất bản Thanh Hóa xuất bản cuốn “Chùa xứ Thanh”, tập 2 của tỉnh hội Phật giáo Thanh Hóa bao gồm nhiều tác giả viết, chủ yếu giới thiệu về lịch sử các ngôi chùa trong toàn tỉnh. Năm 2010, Trịnh Quốc Tuấn viết cuốn “Về Quê Thanh - Tiếp cận từ lịch sử văn hóa xứ Thanh”, Nhà xuất bản Thanh Hóa. Phần viết về Phật giáo, tác giả đã tập trung tìm hiểu sự đồng hành của Phật giáo cùng dân tộc, Phật giáo Thanh Hóa với công cuộc đổi mới quê hƣơng, chặng đƣờng 25 năm phát triển của Phật giáo Thanh Hóa. Ngoài ra còn có rất nhiều công trình, các bài viết khác gián tiếp bàn về ảnh hƣởng của Phật giáo tới đạo đức, lối sống, văn hóa, nghệ thuật, tƣ duy ... của con ngƣời Việt Nam ở các vùng, miền khác nhau trên các tạp chí Phật học, nghiên cứu tôn giáo và một số tạp chí khác... Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều khẳng định, qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển ở Việt Nam. Phật giáo đã có ảnh hƣởng sâu đậm trong đời sống văn 11 hóa của ngƣời Việt. Các công trình nghiên cứu đó đã đề cập đến Phật giáo trên nhiều góc độ lịch sử, tƣ tƣởng, văn hóa khác nhau, mang tính tổng quát trên phạm vi cả nƣớc, hay riêng từng khu vực. Riêng vấn đề xác định “Vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của ngƣời dân Thanh Hóa từ năm 1984 đến nay” cho đến nay vẫn chƣa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách cụ thể, có hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu Phật giáo và và vai trò của nó đối với đời sống văn hóa của ngƣời dân Thanh Hóa từ năm 1984 đến nay vẫn còn là một lĩnh vực còn bở ngở, mang tính chất mới mẻ, đặt ra nhiều yêu cầu và khó khăn đòi hỏi sự nỗ lực nhiều mặt của ngƣời viết. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu: luận văn chủ yếu nghiên cứu vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của nhân dân Thanh Hóa trong giai đoạn từ năm 1984 đến nay. Phạm vi nghiên cứu: Phật giáo và vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của ngƣời dân Thanh Hóa trong giai đoạn từ năm 1984 đến nay là một vấn đề rất rộng lớn. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu về vai trò của Phật giáo Thanh Hóa đối với phƣơng diện đời sống sinh hoạt cộng đồng và phƣơng diện tƣ tƣởng, văn học – nghệ thuật của nhân dân Thanh Hóa từ năm 1984 đến nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau đây: Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết, đọc các nguồn tài liệu liên quan Phƣơng pháp điền dã: đƣợc tác giả xem nhƣ một công cụ cơ bản trong thu thập khai thác các thông tin về các hoạt động, những nghi lễ và giá trị vật chất, tinh thần của Giáo hội Phật giáo Thanh Hóa. Phƣơng pháp tổng hợp, hệ thống, phân tích. Các phƣơng pháp này đƣợc áp dụng trong việc xử lý các thông tin đƣợc khai thác, nghiên cứu từ các bài viết và công trình nghiên cứu khoa học về Phật giáo nói chung, cũng nhƣ Phật giáo tỉnh Thanh Hóa nói riêng để trình bày trong luận văn. 12 5. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng: Chƣơng 1: Phật giáo ở Thanh Hóa nhìn từ góc độ lịch sử Chƣơng 2: Vai trò của Phật giáo Thanh Hóa đối với đời sống sinh hoạt cộng đồng và tƣ tƣởng của nhân dân từ năm 1984 đến nay Chƣơng 3: Vai trò của Phật giáo Thanh Hoá đối với văn học - nghệ thuật của tỉnh nhà từ năm 1984 đến nay 13 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 PHẬT GIÁO Ở THANH HÓA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỊCH SỬ 1.1 Khái quát chung về lịch sử Phật giáo ở Thanh Hóa. Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, vào khoảng thế kỷ VI (trƣớc Công nguyên) ở miền Bắc Ấn Độ do Thái tử Tất Đạt Đa (Siddharta: 563 - 483 trƣớc công nguyên), con trai của Tịnh Phạn Vƣơng (Suđhodana) trị vì một xứ nhỏ ở trung lƣu sông Hằng là Ca Ty La Vệ (nƣớc Nê Pan ngày nay) sáng lập. Cuộc sống giàu sang nơi cung đình khiến ông không hề hay biết những gì đang diễn ra với bao bi kịch kiếp ngƣời ngoài xã hội. Cho đến khi trực tiếp đi ra ngoài thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ của kiếp ngƣời, Thái tử Tất Đạt Đa quyết noi gƣơng các đạo sĩ tu theo lối sống khổ hạnh. Năm 19 tuổi, ông bỏ nhà ra đi để trở thành một ẩn tu. Sau 6 năm khổ hạnh, ông chợt nhận thấy rằng, lối tu đó cũng không giải thoát con ngƣời khỏi nổi đau sinh, lão, bệnh, tử. Vì theo ông, tu khổ hạnh hay chủ chƣơng khoái lạc cũng đều là những cực đoan phi lý nhƣ nhau. Bằng sự kiên trì và nhạy cảm trí tuệ, cuối cùng ông cũng đã phát hiện ra con đƣờng “trung đạo”, một con đƣờng đúng đắn nhất dẫn con ngƣời đến sự giải thoát. Bằng lối tu đó, sau 49 ngày chìm đắm trong những tƣ duy sâu thẳm, ông tuyên bố đã đạt đến chân lý, đã hiểu đƣợc bản chất của sự tồn tại nhân sinh và bắt đầu sự nghiệp hoằng hóa của mình, thu nạp đệ tử, thành lập các tăng đoàn Phật giáo. Từ đó ông đƣợc gọi là Thích Ca Mầu Ni – tức là ngƣời đã giác ngộ chân lý đầu tiên. Từ Ấn Độ, Phật giáo đã lan truyền đến nhiều châu lục, ảnh hƣởng đến đời sống văn hóa tinh thần của nhiều quốc gia. Phật giáo đƣợc truyền bá chủ yếu chia làm hai lộ tuyến là Nam truyền và Bắc truyền. Về phƣơng Bắc thì gọi là Bắc phƣơng Phật giáo hay là Bắc tông Phật giáo; còn gọi là Đại thừa Phật giáo hay Phật giáo phát triển phái đại chúng bộ, gồm có các nƣớc và các vùng miền, lãnh thổ nhƣ: Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Nhật, Việt Nam... Kinh điển chủ yếu là chữ Phạn (Sanskrinit). Về phƣơng Nam thì gọi là Nam phƣơng Phật giáo 14 hay Nam tông Phật giáo, còn gọi là Tiểu thừa Phật giáo, hay Phật giáo Nguyên thủy, phái thƣợng tọa bộ, gồm có các nƣớc và các vùng miền, lãnh thổ nhƣ: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, Nam Dƣơng… kinh điển chủ yếu là chữ Pali (Palit). Trong quá trình truyền bá, đạo Phật đã kết hợp với tín ngƣỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều trƣờng phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Theo sử sách thì Phật giáo truyền bá vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên, theo hai con đƣờng: đƣờng thủy và đƣờng bộ. Đƣờng thủy bắt đầu từ Ấn Độ, theo các thuyền buôn dọc theo Nam Dƣơng đến bán đảo Đông Dƣơng ngày nay, rồi vào Việt Nam. Đƣờng bộ thông qua các nhà sƣ Ấn Độ đến Bắc Trung Quốc và qua Triều Tiên, vào Nhật Bản và xuống nƣớc ta. Chuyện cổ tích Chữ Đồng Tử học đạo của một nhà sƣ Ấn Độ, các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Ma Nƣơng Phật Mẫu xuất hiện cùng thời với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189 đã minh chứng cho dấu ấn của đạo Phật thời kỳ đầu truyền bá tại Việt Nam. Cho đến khoảng thế kỷ thứ II (sau công nguyên), nƣớc ta đã hình thành trung tâm Phật giáo Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay) là trụ sở Phật giáo quan trọng và lớn nhất của cả nƣớc. Hòa cùng dòng chảy của cả nƣớc, Phật giáo du nhập vào Thanh Hóa cũng rất sớm, dung hội cả Bắc Tông (Đại thừa) và Nam Tông (Tiểu thừa). Từ buổi đầu du nhập, Phật giáo đã hòa quyện cùng với sắc thái văn hóa xứ Thanh, tạo cho Phật Giáo Thanh Hóa có những sắc thái riêng, dung hội các dòng tƣ tƣởng và tín ngƣỡng địa phƣơng, nhƣng không làm biến dạng những nét riêng có trong Hoằng Dƣơng Phật pháp của Phật giáo. Đối với sự du nhập của Phật giáo ở Thanh Hóa, hiện nay chƣa có tài liệu nào nói chính xác mốc thời gian Phật giáo có mặt tại nơi đây. Nhƣng qua sử sách ghi chép lại, qua các văn bia ở chùa cổ thời Lý, Trần và qua sự phân tích các dấu viết liên quan đến Phật giáo thời kỳ đầu có mặt trên đất Thanh Hóa, chúng ta có thể khẳng định rằng Phật giáo du nhập vào Thanh Hóa từ những thế kỷ đầu sau công 15 nguyên. Thời kỳ này, Thanh Hóa chịu ảnh hƣởng trực tiếp Phật giáo từ Ấn Độ sang thông qua đƣờng biển. Các nhà sƣ Ấn Độ đã theo chân các thuyền lái buôn đi dọc bờ biển Nam Dƣơng đến bán đảo Đông Dƣơng, và Thanh Hóa là một trong những địa điểm dừng chân của các nhà sƣ Ấn Độ để truyền đạo. Điều này đƣợc minh chứng qua hai dấu tích liên quan đến Phật giáo buổi đầu du nhập vào Thanh Hóa đó là vết chân Phật ở đền Độc Cƣớc và đặc trƣng những tƣợng ngƣời đƣợc tìm thấy ở Lạch Trƣờng ( huyện Hậu Lộc – Thanh Hóa). Đền Độc Cƣớc nằm trên mỏm Cổ Giải dãy Trƣờng Lệ (Sầm Sơn, Thanh Hóa) và thờ vị thần chỉ có nửa ngƣời bên phải, chỉ có một mắt, một tay, một chân (gọi là thần Độc Cƣớc). Theo truyền thuyết vị thần này đã tự xé mình làm hai phần, nửa ở dƣới biển đánh bọn cƣớp biển, còn nửa kia để trên bờ đánh bọn cƣớp cạn để cứu nhân dân. Thực ra vị thần này đã đƣợc đƣa vào Phật Điện thờ cúng nhiều nơi. Trong một bản Diên Quang tam Muội Tạo Tƣợng, đã xếp thần Độc Cƣớc vào hàng cuối cùng trong Phật điện. Trong tám đạo sắc hiện có ở Độc Cƣớc Sơn từ năm 1783 – 1924, đã phong Độc Cƣớc Tiêu Thần, Độc Cƣớc tiêu thƣợng đẳng thần, Độc Cƣớc chi Thần. Nói về mối quan hệ giữa thần Độc Cƣớc với Phật giáo, Ban nghiên cứu Lịch sử Thanh Hóa đã nhận định: “Mối liên hệ giữa thần Độc Cƣớc ở Thanh Hóa với Phật giáo là ở chỗ khi truyền Phật giáo vào Việt Nam, các nhà sƣ Ấn Độ đã thờ thần một bàn chân biểu thị cho Đạo, diễn ra trong các năm 36, 37, 84, 159, 183…” [1, Tr.79]. Để chứng minh vấn đề này, chúng ta ngƣợc dòng lịch sử sẽ thấy, thiết chế của đạo Phật ở Việt Nam ban đầu chƣa phải là chùa chiền, tƣợng pháp mà khởi đầu việc thờ Phật bắt đầu từ thờ dấu chân Phật Tổ. Điều đó còn truyền lại câu chuyện nhà sƣ Cà Sa Đồ Lê ở chùa Dâu (Bắc Ninh) dựng một chân giảng kinh kệ và xoay mình theo hƣớng mặt trời. Tục thờ thần Độc Cƣớc chính là ảnh xạ của tục thờ dấu chân của Đạo Phật. Những di vật đƣợc tìm thấy ở Lạch Trƣờng, Hậu Lộc (Đây là một trong những cửa biển lớn của khu vực Bắc Trung bộ, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế chính trị sầm uất của một vùng xứ Thanh xƣa kia), đặc biệt là “cây đèn đồng Lạch 16 Trƣờng” đƣợc nhà khảo cổ học Thụy Điển, ông O. Janse tìm thấy năm 1935, trong một ngôi mộ gạch có niên đại vào những thế kỷ đầu Công nguyên. Cây đèn đồng này có một đặc điểm kỳ lạ là: Vừa là đèn, vừa là tƣợng mang dáng vẻ của một ngƣời đàn ông, nhƣng hình dáng của ngƣời đàn ông này lại không giống với hình dáng của ngƣời đàn ông Việt xƣa nay, mà giống với ngƣời đàn ông ở các vùng Trung Á hay Ấn Độ, với các đặc điểm nhƣ: Râu quai nón, mái tóc hình xoáy ốc, sống mũi nổi cao, môi trễ, rốn lồi… Theo lý giải của ông Janse, nhân vật chính của cây đèn hình ngƣời quỳ này thiếu đi tất cả đặc điểm của ngƣời Trung Hoa mà mang đặc điểm của Phật Buddha của Ấn Độ. Sự hiện diện của các di vật này là minh chứng lịch sử cho sự diễn ra một cơ tầng Việt Ấn đậm nét trong giai đoạn đầu Phật giáo du nhập vào Thanh Hóa. Bên cạnh đó, thông qua các dữ liệu lịch sử đƣợc ghi chép trong sử sách, văn bia…thì từ thế kỷ thứ VII trở đi, Ái Châu (tên gọi của tỉnh Thanh Hóa giai đoạn đầu) nói riêng và Giao Châu nói chung đã bắt đầu du nhập hai phái Thiền tông của Phật giáo Trung Quốc, đó là phái Nam Phƣơng và phái Quan Bích. Hai phái Thiền tông này là cơ sở chủ yếu của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ độc lập sau này. Theo nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Hãn thì sƣ Pháp Hiền ( ? – 626, thuộc đời Đƣờng của Trung Quốc) đã “đi giảng đạo, dựng chùa khắp mọi nơi ở Phong Châu (Sơn Tây) Hoan Châu (Nghệ An), Tràng Châu (Ninh Bình) và Ái Châu (Thanh Hoá)”. Đồng thời, theo Thiền uyển tập anh ngữ lục, thì sƣ Pháp Hiền, đệ tử của phái Nam Phƣơng, cũng đã cho xây nhiều tháp ở các chùa tại Trƣờng Châu, Ái Châu (Thanh Hoá)…để đựng 5 hoàn xá lị Phật do Tùy Cao Tổ ban sang. Cuốn Đại Đường cầu pháp cao tăng truyện của tác giả Nghĩa Tĩnh, có ghi tên 6 vị sƣ Việt Nam từng sang Ấn Độ cầu pháp thỉnh kinh, trong đó có hai vị sƣ quê ở Ái Châu là Pháp sƣ Trí Hành và Thiền sƣ Đại Thặng Đăng. Hai vị sƣ này đều thông hiểu chữ Phạn, có phạn danh và bƣớc chân của họ đã trải dài từ Trung Hoa đến Ấn Độ. Pháp sƣ Trí Hành tên phạm là Prajnadeva, đã từng xuống Nam Hải đến nƣớc Ấn Độ, hoạt động truyền bá ở phía Bắc Hằng Hà và mất ở chùa Tính Giả vào khoảng năm 50 tuổi. Thiền sƣ Đại Thặng Đăng có tên phạm Mahayana- Pradija, thủa bé theo cha 17 mẹ đi thuyền đến lƣu vực sông Menam rồi mới xuất gia. Sau theo sứ nhà Đƣờng là Diễn Tự vào kinh đô nhà Đƣờng học đạo với tam tạng Pháp sƣ Huyền Trang (đời Đƣờng Thái Tông 627- 649). Ở Trƣờng An vài năm, sƣ đã xem hết sách kinh mà vẫn muốn đi lễ thánh tích, liền vƣợt biển sang Srilanca qua Nam Ấn, Đông Ấn, Trung Ấn rồi đến Malaca. Sƣ viên tịch ở chùa Bát nết bàn (Parinirnana, Kucinagara) lúc 60 tuổi… Thông qua các cứ liệu lịch sử nêu trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, vào khoảng thế kỷ thứ VI, thứ VII sau công nguyên, ở Ái Châu (Thanh Hoá), Đạo Phật đã thịnh hành, với những “ngôi chùa nổi tiếng đƣợc ban xá lị để dựng tháp thờ” [47, Tr. 664]. Nhƣng thời kỳ này, Phật giáo Thanh Hóa không hình thành một môn phái riêng biệt, không có những trung tâm lớn với cả một hệ thống nhƣ các địa phƣơng khác trên cả nƣớc, mà chỉ dừng lại ở những hang, chùa nhỏ hẹp. Điểm khác biệt rõ rệt là Phật giáo Thanh Hóa buổi đầu, thích nghi với những cƣ dân vùng biển hơn là những ngƣời dân làm nông nghiệp ở vùng Bắc Bộ. [1, Tr. 79,80 ] Thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê, triều đình đều coi Phật giáo là một tôn giáo chính thức và tạo điều kiện mở rộng và phát triển Đạo Phật. Do đó, Phật giáo đã lan rộng đến nhiều vùng đất nƣớc mà trung tâm là Bắc sông Hồng với các chùa nổi tiếng nhƣ Luy Lâu, Kiến Sơ... đồng thời có thêm các trung tâm mới ở Nam sông Hồng nhƣ Đại La (thời Lý là Thăng Long), chùa Khai Quốc (Trấn Quốc, Hà Nội); ảnh hƣởng của Phật giáo cũng không ngừng đƣợc mở rộng trong đời sống nhân dân, kết hợp chặt chẽ với tín ngƣỡng dân gian cổ truyền... Trong điều kiện nhƣ vậy, Phật giáo ở Thanh Hóa cũng đã có bƣớc phát triển mới. Thời kỳ này, cạnh các cửa biển Lạch Trƣờng (Hậu Lộc), Bạch Cầu, Thần Phù (Nga Sơn), Hà Trung, Đông Sơn, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc… đã có các ngôi chùa lớn đƣợc tạo dựng điển hình nhƣ chùa Hƣơng Nghiêm, chùa Trịnh Nghiêm, và chùa Minh Nghiêm (thuộc huyện Thiệu Hoá và Đông Sơn ngày nay)…Các chùa này ra đời sớm và không ngừng đƣợc tu sửa, trùng tu qua các giai đoạn lịch sử. Theo sử liệu, thời Tiền Lê, khi Vua Lê Hoàn đi tuần du đến Giang Ngũ huyện, thấy chùa chiền đổ nát liền cho tu sửa lại. Đến thời Lý, khi Vua Lý Thái Tông đi tuần phƣơng Nam, tới Ái Châu, ghé thăm cảnh 18 chùa, thấy cột kèo đã gãy cũng bỏ sức trùng tu. Những sử liệu này cho thấy, đến trƣớc thế kỷ X, nhiều ngôi chùa đã ra đời trên đất Thanh Hóa, đánh dấu sự du nhập và phát triển từ rất sớm của Đạo Phật ở tỉnh Thanh. Thời Lý, Trần, xã hội Việt Nam đã đạt đến sự ổn định, Nhà nƣớc Trung ƣơng tập quyền đƣợc tổ chức và ngày càng hoàn bị. Vua Lý Công Uẩn, ngƣời sáng lập ra nhà Lý vốn là một thiền sƣ đạo hạnh. Do đó, khi lên ngôi, Nhà vua đã ban nhiều sắc lệnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Phật giáo phát triển. Dƣới sự ủng hộ và cho phép của nhà vua, chùa chiền đƣợc mở rộng, số lƣợng Tăng Ni Phật tử ngày càng tăng lên. Nhà vua còn sai sứ sang Trung Quốc xin kinh Tam Tạng về truyền dạy trong chùa, mở rộng đến chúng sinh. Do đó, trong triều đình thì đạo Phật là rƣờng cột, ngoài xã hội thì tràn ngập không khí đạo Phật, “dân chúng quá nửa làm sãi, chỗ nào cũng có chùa chiền” (lời bàn của Lê Văn Hƣu trong Đại Việt Sử ký toàn thƣ). Đây cũng là thời kỳ vàng son của Phật giáo xứ Thanh, hàng loạt các ngôi chùa đƣợc xây dựng mới hoặc tu sửa lại, các sinh hoạt văn hóa cũng nhƣ tập tục dân gian đều mang đậm sắc thái Đạo Phật, điều này góp phần phong phú hơn đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân xứ Thanh. Trong thời kỳ này, vùng đồng bằng và ven biển phía Bắc Thanh Hóa đã trở thành một trung tâm Phật giáo lớn của khu vực, với các cổ tự nổi tiếng nhƣ: Chùa Hƣơng Nghiêm (Giáp Bối Lý) một kiến trúc bề thế với tâm niệm “ngàn năm không mai một” nhƣ văn bia ở chùa đã ghi tạc; chùa Báo Ân (núi An Hoạch) đƣợc Lý Thƣờng Kiệt sai Vũ Thùa Thao đi dò tìm đá suốt 19 năm mới xây cất bằng sự hƣng công của nhân dân cả vùng; chùa Linh Xứng xây dựng từ năm 1008 đến năm 1010 dƣới chân núi Ngƣỡng Sơn (nay là xã Hà Ngọc, Hà Trung) hoành tráng tới mức “trước của chính treo chuông vàng, một tiếng chày kình ngân vang khắp chốn” (Thơ văn Lý – Trần); chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Hậu Lộc) đƣợc trùng tu trên nền cũ, năm 1116 Lý Nhân Tông đi tuần du Phƣơng Nam đã nghỉ lại Thanh Hóa. Để kỷ niệm chuyến đi này của nhà vua, Chu Công đã xuất lĩnh dân cƣ, già trẻ giúp sức xây dựng lại chùa; chùa Đông Sơn (ở làng Đông Sơn, TP Thanh Hóa) dựng dƣới chân núi Long Đại do danh sƣ Quan Thiệu họ Phạm trụ trì xây cất ở một vùng sơn thủy hữu tình, là chốn tiêu dao của vua Trần 19 Dụ Tông, Phạm Sƣ Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông…; chùa Hƣng Phúc (Quảng Hùng, Quảng Xƣơng) là ngôi chùa không chỉ là nơi tu hành, tụng kinh niệm Phật, mà còn là chứng tích ghi nhớ chiến công của quân và dân Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông năm 1285… Từ thời Lê Sơ trở đi, Nho giáo đƣợc triều đình trọng dụng, ngày càng khẳng định vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội ngƣời Việt. Phật giáo không còn giữ vai trò quốc giáo, nhƣng vốn đã ăn sâu bám rễ trong tinh thần, tình cảm ngƣời dân, nên vẫn lƣu truyền với đạo đức truyền thống của nhân dân cả nƣớc nói chung, và của ngƣời dân quê Thanh nói riêng. Thời Lê Sơ với những thành tựu rực rỡ sau kháng chiến chống Minh thắng lợi, đã xây dựng một chế độ phong kiến Trung ƣơng tập quyền vững mạnh, tạo cho đất nƣớc một thời “Thiên hạ âu ca”. Tuy nhiên, giai đoạn cuối, nhà Lê đã để mất ngôi về tay nhà Mạc, dẫn đến tình trạng chiến tranh Nam Bắc triều tranh giành quyền lực liên miên. Chiến tranh Nam Bắc triều đã đẩy ngƣời dân vào cảnh loạn ly, khốn đốn. Đây cũng là thời kỳ mà tƣ tƣởng, tình cảm của nhân dân đối với Phật giáo đƣợc hồi sinh, họ đã tìm thấy ở Đạo Phật niềm an ủi tinh thần trong cảnh đất nƣớc loạn lạc, cuộc sống khổ cực, lầm than. Các quan niệm của Đạo Phật nhƣ: Đời là bể khổ, thế gian vô thƣờng, từ bi cứu khổ, nhân quả nghiệp báo... đƣợc nhân dân tiếp nhận và biến hóa theo sự tƣởng tƣợng trong quan niệm đạo đức dân gian. Trên đất Thanh Hóa, hàng loạt các ngôi chùa đƣợc tu sửa, dựng mới. Tiêu biểu là chùa Hoa Long (Vĩnh Thịnh, Vĩnh Lộc), đƣợc xây dựng với những mảng kiến trúc gỗ, đá đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc, trở thành một trong những ngôi chùa tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc chùa chiền Việt Nam. Dƣới thời Nguyễn, Nho giáo đƣợc Nhà nƣớc ra sức đề cao, triều đình đã tìm cách đƣa lên vị trí độc tôn và bài xích, đả kích các tôn giáo khác. Để hƣớng triều thần và nhân dân tập trung và trung thành với tƣ tƣởng trung quân, có những vị vua thậm chí đã xa lánh, hoài nghi đạo Phật. Mặc dù không đƣợc triều đình xem trọng, nhƣng Phật giáo vẫn đƣợc nhân dân tôn trọng, tiếp thu và phát triển nhƣ một truyền thống tín ngƣỡng đã có. Một loạt các chùa cũ đã đƣợc nhân dân đóng góp và bỏ công sức trùng tu nhƣ: Chùa Dâu, Bút Tháp, Phật Tích, Tây Phƣơng... Ở Thanh 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan