Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của nhân tố văn hóa trong xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay...

Tài liệu Vai trò của nhân tố văn hóa trong xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay

.PDF
91
61072
165

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3 Chương 1 Ý THỨC CÔNG DÂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ VĂN HOÁ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH Ý THỨC CÔNG DÂN ............................... 11 1.1.. Công dân và ý thức công dân ................................................................ 11 1.1.1. Khái niệm công dân ............................................................................ 11 1.1.2. Khái niệm ý thức công dân ................................................................. 22 1.2. Nhân tố văn hoá với việc hình thành ý thức công dân ............................ 29 1.2.1. Khái lược về những nhân tố tác động đến sự hình thành ý thức công dân ............................................................................................................... 29 1.2.2. Văn hóa và sự hình thành ý thức công dân ......................................... 34 Chương 2 NHÂN TỐ VĂN HOÁ TRONG XÂY DỰNG Ý THỨC............. 42 CÔNG DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - VẤN ĐỀ VÀ KHUYẾN NGHỊ .. 42 2.1. Xây dựng ý thức công dân: vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay ........................................................................................... 42 2.2. Một số phương diện tác động của nhân tố văn hoá đến sự hình thành ý thức công dân ở Việt Nam hiện nay ............................................................. 47 2.2.1. Tác động của văn hoá truyền thống đến sự hình thành ý thức công dân ở Việt Nam hiện nay ..................................................................................... 48 2.2.2. Tác động của những giá trị văn hoá mới đến sự hình thành ý thức công dân ở Việt Nam hiện nay .............................................................................. 67 2.3. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của nhân tố văn hoá trong xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay ..................................................... 74 2.3.1. Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự hình thành tư cách công dân và ý thức công dân ................................................................ 74 2.3.2. Phát huy mặt tích cực của những giá trị truyền thống đối với sự hình thành ý thức công dân .................................................................................. 77 1 2.3.3. Đổi mới phương thức giáo dục ý thức công dân ................................. 81 KẾT LUẬN .................................................................................................. 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 88 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội, từ phát triển kinh tế đến phát triển xã hội, từ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân đến mở rộng quá trình dân chủ hoá, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Thực tế thì, chính tư duy đổi mới với việc đề cao và phát huy tối đa vai trò của người dân trong việc xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu kể trên. Vai trò trung tâm, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của con người đã được khẳng định. Tuy nhiên, con người không chỉ là động lực, mà quan trọng hơn, còn là mục tiêu của sự phát triển. Xét đến cùng, mọi sự phát triển kinh tế - xã hội đều là nhằm mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người, như mục tiêu xây dựng đất nước mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra: xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dân chủ là giai đoạn phát triển cao của xã hội loài người. Trong xã hội dân chủ, công dân có vị thế rất đặc biệt. Công dân vừa có vị thế chủ thể, nhưng cũng đồng thời là đối tượng quản lý của thể chế. Chính vì vậy, tính tích cực chủ quan của mỗi công dân có tác động đặc biệt đối với sự vận động của xã hội. Nói cách khác, để xây dựng thành công một xã hội Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, như văn kiện của Đảng đã khẳng định, thì ngoài những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, điều cũng rất quan trọng là mỗi người dân phải có ý thức đầy đủ về vai trò làm chủ của mình và tham gia tích cực, chủ động vào quá trình xây dựng, bảo vệ đất nước. Xây dựng ý thức công dân chính là một trong những điều kiện quan trọng của sự hình thành tính tích cực của người dân trong quá trình đổi mới đất nước nhằm đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người. Nhưng đó là 3 quá trình lâu dài và có không ít khó khăn, nhất là với điều kiện của Việt Nam: từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, lại trải qua hai cuộc chiến tranh giành độc lập và bảo vệ tổ quốc lâu dài. Trên thực tế, quá trình xây dựng một xã hội Việt Nam theo hướng hiện đại, xã hội chủ nghĩa, dân chủ mới diễn ra trong gần bốn thập kỷ. Đó là khoảng thời gian còn tương đối ngắn để hình thành “con người công dân” đúng nghĩa. Người Việt Nam truyền thống vốn quen sống với tập tục, tôn ti của xã hội phong kiến, nay với tư cách là công dân của một xã hội dân chủ, phải xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là điều không dễ. Do vậy, quá trình ấy đòi hỏi phải phối hợp nhiều biện pháp, nhiều cách thức khác nhau mới có thể hình thành ý thức độc lập, tự chủ, tự giác và tuân thủ luật pháp vốn là những đặc điểm không thể thiếu của con người công dân. Chẳng hạn, cần xây dựng những điều kiện kinh tế - xã hội làm cơ sở để xây dựng một xã hội dân chủ, cần tiến hành tuyên truyền, phổ biến và giáo dục đến mỗi công dân về quyền lợi, trách nhiệm của họ trong đất nước, cũng như về cách thức để thực hiện quyền lợi và trách nhiệm đó. Bản thân việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức công dân cũng cần được tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau nhằm đạt đến hiệu quả cao nhất, như sử dụng công cụ luật pháp với các chế tài thích hợp để hình thành nên ở công dân ý thức về việc thực hiện vai trò và trách nhiệm công dân của mình; kết hợp với việc sử dụng các biện pháp giáo dục công dân trong nhà trường, qua các phương tiện thông tin đại chúng...Trong các con đường giáo dục nên ý thức công dân, văn hoá là con đường cần chú ý. Bởi, với tư cách là chủ thể, đồng thời là “vật mang” văn hoá, con người hoạt động, tác động đến môi trường xung quanh dựa trên những chuẩn thức văn hoá những giá trị đã trở thành tiềm thức, đã trở thành tập quán mà mỗi người được thừa hưởng từ truyền thống và giáo dục. Chính vì vậy, việc thông qua công cụ văn hoá để chuyển tải những nội dung mới của việc xây dựng ý thức công dân 4 không những khiến cho mỗi người dân có thể dễ dàng tiếp cận và hiểu được vai trò, trách nhiệm công dân của mình mà còn có thể góp phần nhanh chóng hình thành thái độ đúng đắn của các công dân trong việc thực hiện vai trò và trách nhiệm ấy đối với xã hội. Những luận chứng trên cho thấy việc nghiên cứu về vai trò của nhân tố văn hoá trong xây dựng ý thức công dân ở Việt Nam là yêu cầu bức thiết hiện nay. Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Vai trò của nhân tố văn hoá trong xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu Những năm gần đây, vấn đề công dân và giáo dục ý thức công dân cũng đã được chú ý nghiên cứu. Tuy nhiên, trên thực tế, ở Việt Nam cho đến nay, vẫn rất thiếu những công trình nghiên cứu kỹ càng về chủ đề xây dựng ý thức công dân, mặc dù ý nghĩa quan trọng của nó là điều đã được nhiều tác giả nhấn mạnh. Có thể dễ nhận thấy điều đó qua đặc điểm: phần lớn chủ đề này được đề cập rải rác trong các công trình nghiên cứu về pháp luật, về nhà nước pháp quyền. Ở đây chúng tôi sẽ điểm qua ở những công trình chính như sau: - Trần Ngọc Đường - Chu Văn Thành (1994): Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Trong cuốn sách, các tác giả đã chỉ ra bản chất của mối quan hệ giữa cá nhân công dân với nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các đảm bảo pháp lý của cá nhân công dân trong mối quan hệ với nhà nước theo Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù các vấn đề này được xem xét dưới góc độ luật học, song những phân tích của các tác giả về khái niệm công dân và bản chất của mối quan hệ giữa cá nhân công dân với nhà nước là rất đáng chú ý. - Đào Trí Úc(cb) (1995): Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đề tài Khoa học công nghệ cấp nhà nước KX - 07 - 17 5 Cuốn sách tập hợp các nghiên cứu xung quanh vấn đề quá trình hình thành ý thức pháp luật của con người Việt Nam - một bộ phận quan trọng cấu thành ý thức công dân. Trên cơ sở các điều tra xã hội học ở nhiều đối tượng khác nhau và từ việc nghiên cứu các tài liệu lý luận, các tác giả đã chỉ ra hiện trạng ý thức và lối sống theo pháp luật của con người Việt Nam, làm sáng tỏ những ảnh hưởng của phương thức sản xuất, của văn hoá, đạo đức và tập quán truyền thống, của điều kiện phát triển đất nước đến ý thức và lối sống theo pháp luật của con người Việt Nam, đồng thời đề xuất những biện pháp nhất định nhằm xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật cho các tầng lớp dân cư. - Đào Trí Úc (cb) (2005): Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Cuốn sách tập hợp kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học tham gia đề tài KHXH.05.05. Qua việc phân tích lịch sử, đặc trưng, hiện thực của nhà nước pháp quyền ở các nước tư sản, phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về nhà nước và pháp luật, chỉ ra các tiền đề tư tưởng của nhà nước pháp quyền Việt Nam, các tác giả đi tới làm rõ những giải pháp, những điều kiện cần thiết cho việc bảo đảm, duy trì bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Mặc dù công trình này không trực tiếp bàn đến vấn đề xây dựng ý thức công dân ở Việt Nam hiện nay, nhưng thông qua việc nghiên cứu thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ ở Việt Nam hiện nay, công trình đã gián tiếp đề cập đến vai trò của công dân, ý thức công dân và việc xây dựng ý thức công dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. - Bùi Ngọc Sơn (2004): Xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hoá Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội Trong cuốn sách, tác giả đã chỉ ra sự tác động của các yếu tố văn hoá truyền thống của dân tộc đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. 6 Từ đó, tác giả chỉ ra những phương hướng cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hoá Việt Nam. Mặc dù cuốn sách không đề cập trực tiếp đến vấn đề công dân và ý thức công dân, song những phân tích của tác giả về tác động của yếu tố văn hoá truyền thống đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền cũng cho thấy một khía cạnh của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay - khía cạnh văn hoá. Do việc xây dựng nhà nước pháp quyền muốn thành công thì cần chú ý đến vai trò của chủ thể của nhà nước đó - các công dân, cho nên đây là tài liệu có tính gợi mở đối với việc xây dựng ý thức công dân ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, còn có thể kể đến các công trình khác liên quan đến vấn đề công dân và ý thức công dân, chẳng hạn như: Võ Khánh Vinh (2003): Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước trong nhà nước pháp quyền và vai trò của nó trong việc xác định mô hình tổng thể nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2; Nguyễn Hữu Khiển (2006): Trách nhiệm công dân trong nhà nước pháp quyền, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 129… Văn hoá, do vai trò và khả năng tác động đặc biệt của nó đối với con người và xã hội loài người, cũng là một trong những vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong những năm qua, vấn đề văn hoá và vai trò của văn hoá đối với sự phát triển xã hội, trong đó có con người đã được đề cập đến trong nhiều công trình khoa học lớn. Tiêu biểu là: - Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (cb) (1996): Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Đề tài Khoa học công nghệ cấp nhà nước KX - 07 - 02 Trong công trình này, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của các truyền thống Việt Nam, phân tích nội dung cấu thành của truyền thống Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đối chiếu với con người Việt Nam hiện nay, với tư cách là mục tiêu và động lực 7 của sự phát triển kinh tế - xã hội, đánh giá một cách khách quan mặt mạnh và mặt yếu của di sản truyền thống, đưa ra những khuyến nghị về phương hướng và giải pháp giáo dục, phát huy các giá trị truyền thống trong thời hiện đại. Có thể nói, đây là công trình bàn rất kỹ đến vai trò của các giá trị văn hoá truyền thống đối với sự phát triển của con người Việt Nam hiện đại - con người của xã hội dân chủ. - Hồ Sĩ Quý (1999): Tìm hiểu về văn hoá và văn minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Trên cơ sở phân tích sự tương đồng và dị biệt giữa hai khái niệm văn hoá và văn minh, khẳng định cách nhìn văn hoá đối với sự vận động và phát triển xã hội, tác giả đi đến lý giải về vai trò của nhân tố văn hoá trong nền văn minh, về văn hoá với định hướng giá trị xã hội và truyền thống, văn hoá và tiến bộ xã hội…Từ đây, tác giả đi đến khẳng định, xã hội muốn có hạnh phúc thì công bằng xã hội phải là bạn đồng hành với sự tiến triển của văn minh. Đó cũng là khía cạnh văn hoá của sự phát triển. Cũng từ đây, tác giả đi đến khẳng định vai trò của việc phát huy những ưu trội trong bản sắc văn hoá Việt Nam trong xã hội hiện nay. Ngoài ra, còn có thể kể đến các công trình nghiên cứu khác tập trung làm rõ khái niệm văn hoá và khẳng định vai trò của văn hoá đối với sự phát triển của xã hội và con người như: Nguyễn Văn Huyên (2006): Văn hoá - mục tiêu và động lực của sự phát triển, Tạp chí Cộng sản, số 114; Phan Ngọc (1998): Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội; Nguyễn Huy Hoàng (2002): Mấy vấn đề triết học văn hoá, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội… Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề xây dựng ý thức công dân cũng như vấn đề văn hoá và vai trò của văn hoá đối với sự phát triển xã hội nói chung và đối với sự phát triển xã hội Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào chỉ ra một cách trực tiếp và hệ thống 8 về vai trò, tác động của nhân tố văn hoá trong xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn là luận giải tác động của nhân tố văn hoá trong việc xây dựng ý thức công dân, từ đó đề ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn hướng đến giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau: - Làm rõ khái niệm và tính cấp thiết của việc xây dựng ý thức công dân trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. - Nghiên cứu vai trò của nhân tố văn hoá với việc xây dựng ý thức công dân, từ đó, chỉ ra những tác động của văn hoá Việt Nam trong quá trình xây dựng ý thức công dân hiện nay. - Đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của nhân tố văn hoá trong xây dựng ý thức công dân trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu sự tác động của nhân tố văn hóa đến sự hình thành ý thức công dân trong điều kiện hiện nay ở nước ta. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: + Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người; về văn hoá và vai trò của nhân tố văn hoá đối với sự phát triển xã hội và con người. + Kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề văn hoá và vai trò của nó đối với việc xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay. 9 Cơ sở phương pháp luận: + Phép biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá với sự phát triển xã hội, con người. + Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về lý luận, tác giả luận văn hướng đến nghiên cứu có tính khái quát về sự tác động của nhân tố văn hóa đến xây dựng ý thức công dân. - Những giải pháp về xây dựng ý thức công dân có thể dùng để tham khảo trong giáo dục công dân ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. 10 Chương 1 Ý THỨC CÔNG DÂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ VĂN HOÁ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH Ý THỨC CÔNG DÂN 1.1.. Công dân và ý thức công dân 1.1.1. Khái niệm công dân Từ khi xuất hiện, triết học đã nghiên cứu về con người với tư cách là chủ đề trọng tâm. Song chỉ đến khi triết học Mác ra đời, vấn đề con người mới có được một sự lý giải khoa học và toàn diện trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Triết học Mác xem xét con người trong sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, trong đó, mặt xã hội là cơ bản nhất quy định bản chất của con người. Khẳng định điều này, Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. [6, 11] Phương pháp luận được rút ra từ luận điểm trên của C. Mác là nghiên cứu con người phải xuất phát từ những con người hiện thực, nghĩa là những con người cụ thể trong thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thể hiện rõ nhất bản chất của con người là hoạt động lao động sản xuất tạo ra các sản phẩm thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của con người. Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn đó, con người đã cải biến tự nhiên, xã hội, cải biến chính bản thân mình và làm nên lịch sử xã hội loài người. Hoạt động sáng tạo của con người ngoài yếu tố chủ quan còn bị giới hạn bởi những điều kiện của lịch sử: trình độ của lực lượng sản xuất, các thiết chế chính trị - xã hội, văn hoá… Điều này được triết học Mác xác nhận trong mệnh đề: con người vừa là chủ thể sáng tạo của lịch sử, lại vừa là sản phẩm của lịch sử. Tính chủ thể của con người thể hiện ở hoạt động có ý thức của nó trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách chủ thể lịch sử, con người chủ động, tích cực 11 trong hoạt động chinh phục tự nhiên, đấu tranh xã hội, xây dựng và tổ chức các hoạt động khác nhau của bản thân. Là sản phẩm của lịch sử, tất cả mọi hoạt động của con người không thể tách rời những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Chính vì vậy, để phát triển và hoàn thiện con người, cần phải tạo ra những hoàn cảnh, môi trường xã hội ngày càng mang tính nhân văn như là điều kiện để con người tham gia tích cực vào việc kiến tạo các quá trình lịch sử. Lịch sử phát triển xã hội loài người thực chất cũng là lịch sử của quá trình giải phóng con người. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, người lao động bị coi chỉ như công cụ biết nói. Trong xã hội phong kiến, dù đã được giải phóng về thân thể, nhưng đa số người dân vẫn không có được quyền quyết định đối với vận mệnh của bản thân do những trói buộc về ý thức hệ, thể chế chính trị và cả văn hóa. Trong điều kiện như vậy, cả điều kiện khách quan và chủ quan để người dân có thể tác động đến công việc của chính quyền là cánh cửa vô cùng hẹp. Trên thực tế, công việc nhà nước, công việc chung của xã hội đều nằm trong tay tầng lớp thượng lưu. Và quan hệ chủ đạo giữa người dân và người cầm quyền là quan hệ “quân - thần”. Đó là quan hệ lấy sự tuân phục một chiều của người dân với người cầm quyền là chiều vận động cơ bản. Chính vì vậy, người dân chưa hình thành ý thức tích cực, chủ động tham gia vào các công việc chung của cộng đồng xã hội cũng là điều hiển nhiên. Từ những nhận định trên có thể thấy, để chuyển từ con người nô lệ, thần dân sang con người công dân là hệ quả của quá trình biến đổi xã hội lớn (cách mạng) về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Trên phương diện này thắng lợi của cách mạng tư sản là mốc quan trọng của lịch sử phát triển con người công dân bởi sức mạnh giải phóng người dân của nó. Từ địa vị là thần dân, mỗi người dân đã được thừa nhận nhận về mặt pháp lý các quyền tự do, dân chủ, đã được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển năng lực làm chủ xã hội. Tuy nhiên với những giới hạn giai cấp của nó, cuộc cách mạng tư sản không thể giải 12 quyết trọn vẹn những rào cản để người dân phát triển đầy đủ năng lực làm chủ xã hội của mình. Về lịch sử nhận thức, có thể thấy, khái niệm công dân đã phôi thai từ thời cổ đại Hy Lạp – La Mã và được nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng đề cập đến. Ở đây chúng tôi chỉ điểm qua quan niệm của Arixtốt. Khái niệm công dân được Arixtốt trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Chính trị” – một cuốn sách đặc sắc về triết học chính trị, chính trị học và về xã hội của ông. Đại thể quan điểm của ông có thể tóm tắt ở những điểm chính sau: thứ nhất, cũng như nhiều nhà tư tưởng khác (và cũng là quan niệm phổ biến ở Hy Lạp – La Mã thời kỳ cổ đại nói chung) về ngoại diên, khái niệm công dân chỉ bao hàm những người “tự do” của một quốc gia (Thành bang - Polis) nhất định, nghĩa là nô lệ và kiều dân bị loại trừ trong khái niệm công dân; thứ hai, về nội hàm khái niệm, công dân là người có quyền tham gia và có quyền quyết định một cách bình đẳng các công việc liên quan đến chính trị (thảo luận, biểu quyết những chính sách, những quyết định chính trị quan trọng của quốc gia, và có quyền tham chính), đến đời sống chung của cộng đồng. Tiêu chí tiếp theo của con người công dân được ông chỉ ra đó là sự thực hiện các nghĩa vụ của họ với quốc gia. Khẳng định điều này, Arixtốt muốn nhấn mạnh đến tiêu chí quyền và nghĩa vụ của công dân với nhà nước và ngược lại. Một người chỉ có thể trở thành một công dân khi anh ta có nghĩa vụ và phải thực hiện nghĩa vụ đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia mà anh ta đang sống. Thực hiện được điều đó thì anh ta trở thành một công dân tốt. Đồng thời, chính thể tương thích, trong quan niệm của ông, chỉ có thể là chính thể cộng hòa. Những ý tưởng đó của các nhà tư tưởng thời kỳ cổ đại Hy Lạp – La Mã dù mới là những nền tảng ban đầu cho sự hình thành quan niệm về công dân, nhưng giá trị của chúng là không thể phủ nhận. Đánh giá những đóng góp to lớn của các nhà tư tưởng thời kỳ Hy Lạp La Mã cổ đại, Ph.Ăngghen viết: “Không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và đế chế La Mã thì không có châu Âu hiện đại”. [7, 254] 13 Ở thời kỳ trung cổ phương Tây, về cơ bản, những di sản của tư tưởng triết học chính trị cổ đại về công dân hầu như bị vứt bỏ. Trong nhà nước quân chủ, con người được chia ra nhiều thứ bậc khác nhau với những đặc quyền, đặc lợi tuỳ thuộc vào địa vị, thứ bậc của mình. Tuy nhiên, dù ở thứ bậc nào thì người dân cũng không có tư cách công dân. Hệ thống tư tưởng, thiết chế và luật pháp của nó khẳng định người dân với tư cách là “thần dân”, và họ thuộc sở hữu của một vị quân vương. Vì vậy, nghĩa vụ của người dân là phục tùng đối với vị vua của mình. Trong một xã hội như thế, số phận của người dân phụ thuộc vào con người cá nhân của các ông vua. Nếu đó là ông vua đức độ, nhân từ, biết chăm lo cho dân thì những điều tốt đẹp mà người dân được hưởng ấy cũng là ân huệ từ vua chứ không phải là quyền chính đáng của người dân. Quan hệ đó là quan hệ một chiều. Ở thời kỳ cận đại, cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, những tư tưởng về giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc của chế độ phong kiến đã nảy nở và phát triển mạnh mẽ. Cùng với điều đó, quan niệm về công dân đã có bước phát triển mới. Đóng góp lớn cho điều đó trước hết thuộc về các nhà triết học, nhà tư tưởng tiêu biểu của chủ nghĩa tự do như Spinoza, Hobbs, Locke, Montesquieu, Rousseau, Tocqueville, Mill… Khi khẳng định chế độ dân chủ là hình thức nhà nước tốt nhất vì chỉ trong nhà nước dân chủ các quyền tự nhiên của con người (quyền sở hữu, quyền tự do, quyền được hạnh phúc…) mới thực sự được đảm bảo, các nhà tư tưởng của trường phái nêu trên đã tiến một bước quan trọng trong quan niệm về công dân. Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” J. Locke đã đưa ra luận điểm quan trọng mà sau này trở thành cơ sở không chỉ cho lý thuyết về công dân mà cả lý thuyết về nhà nước pháp quyền: thứ nhất, mọi người sinh ra đều có các quyền tự nhiên “bình đẳng và bất khả chuyển nhượng”; thứ hai, về bản chất nhà nước và luật pháp là công cụ bảo vệ và thực thi quyền của các 14 công dân. Ông nhận xét: Tự do của con người dưới một chính quyền, là có một quy tắc để tất cả sống theo đó, nó tồn tại thường trực và chung cho mọi người trong xã hội, được định ra từ quyền lực lập pháp đã được xã hội dựng lên. Đó là quyền tự do được làm theo ý muốn riêng trong mọi trường hợp, nếu như ý muốn đó không bị luật pháp ngăn cấm và không phụ thuộc vào ý chí độc đoán thường xuyên, không xác định và không rõ ràng của người khác. [Xem: 27, 57- 58] Cùng dòng tư tưởng này, ở T.Hobbs và J.S.Mill cũng có những luận điểm đáng chú ý. Từ quan niệm về bản tính tự nhiên của con người, Hobbs luận chứng rằng nhà nước là sản phẩm của sự sáng tạo cao nhất của con người để quản lý, điều hành sự phát triển xã hội, và một trong những sứ mệnh quan trọng của nhà nước là bảo vệ và mở rộng tự do chính đáng của mỗi con người. Còn J.S.Mill nhấn mạnh điểm sau đây của khái niệm công dân: cá nhân có thể làm những gì không hại đến người khác; tự do cá nhân phụ thuộc vào hai điều kiện là trình độ dân trí và sự nghiêm minh của pháp luật. Điểm nhấn khác của sự phát triển quan niệm về công dân chính là những khảo luận của các nhà tư tưởng về mối quan hệ giữa khái niệm nhà nước pháp quyền và khái niệm công dân. S.L.Montesquieu là người đã kế thừa và hoàn thiện lý luận về nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng tư tưởng của lý thuyết pháp quyền tự nhiên. Vấn đề chiếm sự quan tâm hàng đầu của ông chính là tìm kiếm một thiết chế, mô hình chính trị có thể thực thi và bảo vệ bảo vệ quyền của các công dân. Theo ông, mô hình thích hợp nhất đó là mô hình tam quyền phân lập, tức là quyền lực nhà nước cần được cấu trúc thành ba loại: lập pháp, hành pháp và tư pháp, mỗi quyền giao cho một cơ quan. Quyền lập pháp giao cho nghị viện, quyền hành pháp giao cho chính phủ, quyền tư pháp giao cho toà án. Theo ông, sự phân chia quyền lực và hạn chế lẫn nhau là điều kiện chủ yếu bảo đảm cho quyền tự do chính trị trong quan hệ của nó với thể chế nhà nước. 15 Ông khẳng định: “Không một cơ quan nào vượt lên những cơ quan kia, và không một cơ quan nào có thể tước đoạt quyền cá nhân của công dân” [Trích theo 41, 51]. Đồng thời, ông nhấn mạnh: quyền tự do chính trị của công dân không phải là ở chỗ được làm mọi điều theo ý muốn, mà “tự do là quyền được làm những điều mà luật cho phép. Nếu một công dân làm điều trái luật thì anh ta không còn được tự do nữa, vì nếu để anh ta tự do làm thì mọi người đều được làm trái luật cả”. [29, 105] Học thuyết của Montesquieu và Locke về phân quyền với tư cách là thiết chế bảo đảm quyền lợi và tự do cho công dân đã có những ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với các luận điểm lý thuyết về nhà nước pháp quyền tiếp theo, mà còn đối với nền lập hiến tư sản thời kỳ đầu và chính sách pháp luật nhà nước. Sự phát triển tiếp theo của quan niệm về công dân có vai trò lớn của J.J. Rousseau. Ông cho rằng, bước quá độ chuyển sang trạng thái tự do được đánh dấu bằng sự ký kết khế ước xã hội. Theo khế ước đó, mỗi người dân tự nguyện ký kết với nhau một thoả thuận ủy quyền hình thành chủ quyền tối thượng (ý chí tối cao) do nhà nước đại diện từ tổng các quyền của công dân. Cho nên về bản chất quyền lực nhà nước chính là quyền lực của các công dân. Chính nhờ vậy mà các quyền của công dân như quyền tự do, quyền sống và tài sản của mỗi cá nhân sẽ được đảm bảo bằng sức mạnh chung của cả cộng đồng. Nhờ vậy, các quyền và tự do của công dân mang tính pháp lý. Rousseau lập luận, trên cơ sở của khế ước xã hội dần dần hình thành nên liên minh của những công dân tự do và bình đẳng, hình thành nên chế độ cộng hoà. Trong đó, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân chứ không phải quốc vương, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc uỷ quyền cho các đại biểu của mình trong bộ máy nhà nước. Tham gia vào nhà nước, vào khế ước xã hội, con người từ bỏ trạng thái tự nhiên để bước sang trạng thái dân sự. Công dân có trách nhiệm với nhà nước thế nào thì nhà nước 16 có trách nhiệm với công dân như thế ấy: “Những mối dây ràng buộc chúng ta vào cơ thể xã hội chỉ là cưỡng chế khi nào nó là sự ràng buộc cả hai phía, có đi có lại. Tính chất của nó là trong khi thực hiện sự ràng buộc, người ta vừa làm cho kẻ khác lại vừa làm cho chính mình” [40, 87] Khi khẳng định hình thức nhà nước tốt nhất là chế độ dân chủ nhằm bảo đảm cho quyền lợi và tự do thực sự của con người, các nhà tư tưởng đã gián tiếp đề cập đến việc khẳng định con người là tự do và có quyền làm chủ xã hội. Đây chính là tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của nhà nước pháp quyền tư sản trong hiện thực. Trong nhà nước pháp quyền tư sản, lần đầu tiên trong lịch sử, con người đã bước từ địa vị thần dân sang địa vị người công dân. Người công dân trong Nhà nước pháp quyền là con người, mà các quyền cơ bản, thiêng liêng nhất của nó như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền sở hữu tài sản…được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật. Về lý thuyết, mỗi cá nhân có thể phát triển bình đẳng và tự do trước pháp luật, có đủ cơ hội pháp lý để phát huy mọi khả năng của mình. Nhà nước cam kết và tôn trọng trên thực tế và bằng pháp luật các quyền và lợi ích hợp pháp, danh dự và nhân phẩm của công dân. Mặc dù có những hạn chế, song, chủ nghĩa tư bản thực sự đã mang lại một bước giải phóng lớn đối với con người. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một bước phát triển cao hơn nhà nước pháp quyền tư sản, nhằm hướng đến một cuộc sống tự do, công bằng, dân chủ thực sự cho mỗi công dân. Trong quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với công dân, cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau, được ghi nhận, bảo đảm thực hiện bằng hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp Việt Nam năm 1992, tại điều 51 đã khẳng định: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội” [46, 142]. Mối quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và công dân được thể hiện trên hai mặt sau đây: 17 Thứ nhất, nhà nước với công dân. Ở đây, nhà nước mang hai tư cách: vừa là tổ chức công quyền quản lý công dân bằng pháp luật, vừa là công cụ hữu hiệu nhất đảm bảo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ở tư cách thứ nhất, nhà nước có quyền đối với công dân trong việc xác định bằng pháp luật các quyền và nghĩa vụ công dân, yêu cầu công dân phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội, kiểm tra, giám sát công dân trong việc sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ của họ. Ở tư cách thứ hai, nhà nước có nghĩa vụ đối với công dân: nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất pháp luật mà mình đã ban hành, bảo đảm mọi điều kiện thuận lợi cho công dân thật sự được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi chúng bị xâm hại… Thứ hai, công dân đối với nhà nước. Ở đây, công dân cũng có hai tư cách: vừa là chủ thể của quyền lực nhà nước (người làm chủ đất nước), vừa là đối tượng chi phối, quản lý của quyền lực đó. Với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, công dân có quyền đối với nhà nước - quyền thiết lập các cơ quan đại diện cho quyền lực của mình và bãi miễn đại biểu không còn tín nhiệm đối với cử tri, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương… Ở tư cách thứ hai, công dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước: trung thành với tổ quốc, bảo vệ tổ quốc, tôn trọng và bảo vệ tài sản của nhà nước, lợi ích công cộng… Nội dung trên của khái niệm công dân là sự pháp lý hóa quan hệ giữa cá nhân công dân với nhà nước và xã hội. Điều đó thể hiện nhà nước ghi nhận và thừa nhận cá nhân có các quyền và nghĩa vụ công dân như thế nào trong mối quan hệ với nhà nước được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Vì thế, điều 50 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội 18 được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. [46, 141] Như vậy, công dân là khái niệm để chỉ cá nhân trong các mối quan hệ cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất với một nhà nước nhất định được thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật của nhà nước đó. Nội dung của khái niệm công dân chính là địa vị pháp lý giữa cá nhân công dân trong mối quan hệ với nhà nước và xã hội. Điều đó có nghĩa là, không phải cá nhân trong mối quan hệ với bất kỳ nhà nước nào cũng có tư cách công dân, mà chỉ khi nhà nước đó thừa nhận bằng hiến pháp và pháp luật những quyền và nghĩa vụ của cá nhân đó với tư cách là công dân của mình thì khi đó họ mới có tư cách công dân. Vì thế, nếu con người sinh ra tự nó đã trở thành cá nhân thì để trở thành công dân người đó phải đáp ứng những yêu cầu nhất định do pháp luật của Nhà nước quy định. Những yêu cầu đó phụ thuộc vào pháp luật của mỗi nước. Ở nước ta, danh hiệu công dân ra đời cùng với sự thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Đây chính là một trong những thành quả vĩ đại mà nhân dân ta giành được trong cách mạng. Theo pháp luật hiện hành của nước ta, đối với những người mới sinh ra, có hai nguyên tắc để xác định họ có phải là công dân Việt Nam hay không. Đó là nguyên tắc theo huyết thống và nguyên tắc theo lãnh thổ. Theo nguyên tắc huyết thống, một người sẽ là công dân Việt Nam nếu cha là công dân Việt Nam. Trong trường hợp cha không rõ là ai hay không thuộc quốc tịch nào mà mẹ là công dân Việt Nam thì người đó vẫn là công dân Việt Nam. Theo nguyên tắc lãnh thổ, một người sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không rõ là ai hay không thuộc quốc tịch nào thì người đó vẫn là công dân Việt Nam. Quốc tịch thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước và công dân, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ công dân. Vì vậy, xác định một người có quốc tịch Việt Nam hay không liên quan trực tiếp đến việc xác định quyền và 19 nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 49 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam ngày 26/6/1988 nêu rõ: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam. Như vậy, pháp luật nước ta không thừa nhận công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài. Ngoài trường hợp do sinh ra, Luật quốc tịch Việt Nam còn quy định các điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam cho những công dân nước ngoài và người không có quốc tịch đang cư trú ở Việt Nam tự nguyện tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam (điều 7), các điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam đối với những người đã mất quốc tịch Việt Nam nếu có lý do chính đáng (điều 8, 9, 10, 11). Các quy định pháp lý về mất quốc tịch Việt Nam, bị tước quốc tịch Việt Nam, được vào quốc tịch Việt Nam, được trở lại quốc tịch Việt Nam thể hiện trong Luật quốc tịch nước ta đều phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Những cá nhân có quốc tịch Việt Nam đều là công dân Việt Nam, dù ở trong nước hay nước ngoài đều được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm các quyền của công dân và công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội. [Xem 15, 8 - 9] Có ý thức và năng lực thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình là một trong những đặc điểm quan trọng để nhận biết một công dân. Nhưng đặc điểm quan trọng nhất của người công dân phải đề cập tới là ý thức, tính tích cực, chủ động của bản thân họ trong việc tham gia quản lý xã hội, tham gia vào các công việc chung của cộng đồng. Phạm vi cộng đồng ở đây không chỉ được giới hạn hẹp trong mỗi gia đình, làng xóm, tập thể nhỏ mà rộng lớn hơn, là xã hội, đất nước, và trong điều kiện toàn cầu hoá ngày nay, đó là toàn thế giới. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan