Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự (qua thực tiến tỉnh thanh...

Tài liệu Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự (qua thực tiến tỉnh thanh hóa)

.PDF
109
6307
14

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ TRUNG KIÊN VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ (QUA THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA) Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số Công trình đƣợc hoàn thành tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí úc Phản biện 1: Phản biện 2: : 60 38 01 Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. tóm tắt luận văn thạc sĩ luật học hà nội - 2012 1 Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tƣ liệu - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG 7 LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Nội dung và đặc điểm của lĩnh vực thi hành án dân sự 7 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự 7 1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự 10 1.1.2.1. Thi hành án dân sự mang bản chất hành chính - tư pháp 10 1.1.2.2. Chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự là Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và đương sự (người phải thi hành án, người được thi hành án) 12 1.1.2.3. Đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành án của các bên đương sự 13 1.1.2.4. Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự 14 1.2. Quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân sự 15 1.2.1. Sơ lược lịch sử quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự 15 1.2.2. Khái niệm chung về quản lý nhà nước 17 1.2.3. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi 19 4 hành án dân sự 1.2.4. Các nguyên tắc quản lý 19 1.2.5. Hình thức, phương pháp quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân sự 22 1.2.6. Nội dung cụ thể và thủ tục quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân sự 23 1.2.7. Chủ thể quản lý 27 1.3. Khung pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay ở nước ta 28 1.4. Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự và vai trò hỗ trợ của Nhà nước 34 Chương 2: 37 VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở THANH HÓA HIỆN NAY 2.1. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa 37 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa 37 2.1.2. Sơ lược quá trình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa 39 2.1.3. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa 44 2.1.3.1. Hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự 44 2.1.3.2. Hoạt động tổ chức, cán bộ 46 2.1.3.3. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự 49 2.1.3.4. Về cơ sở vật chất 50 2.1.3.5. Hoạt động phối hợp trong thi hành án dân sự và vai trò chỉ đạo của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp 51 2.2. Thực trạng vai trò của nhà nước và quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân sự tại Thanh Hóa 54 2.2.1. Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự tại Thanh Hóa hiện nay 56 5 2.2.2. Thực trạng về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại Thanh Hóa 62 2.2.2.1. Quản lý nhà nước về chuyên môn, nghiệp vụ 62 2.2.2.2. Quản lý nhà nước về tổ chức cán bộ 65 2.2.2.3. Quản lý nhà nước về cơ sở vật chất 67 2.2.2.4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự 68 2.2.2.5. Xử lý vi phạm và các hình thức trách nhiệm trong lĩnh vực thi hành án dân sự 69 2.2.2.6. Quản lý nhà nước một số mặt công tác khác 70 Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÕ 75 CỦA NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THANH HÓA 3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự 75 3.2. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngành thi hành án dân sự 83 3.3. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hoàn thiện chế độ chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức, người lao động trong ngành 88 3.4. Tăng cường quản lý nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự và phương hướng, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa 90 3.5. Xã hội hóa lĩnh vực thi hành án dân sự 94 KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT THADS : Thi hành án dân sự UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Kết quả thi hành ỏn dõn sự về việc 44 2.2 Kết quả thi hành ỏn dõn sự về tiền 45 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động của Nhà nước để đưa bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, của các cơ quan có thẩm quyền khác được tôn trọng và thực hiện trên thực tế nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững kỷ cương, phép nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Chính vì vậy, thi hành án nói chung, THADS nói riêng đã trở thành một nguyên tắc hiến định. Điều 136 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 ghi nhận: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [36]. Điều 4 Luật THADS 2008 quy định "Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án" [41]. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta chính thức khởi xướng và lãnh đạo đổi mới đất nước. Việc xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã làm thay đổi sâu rộng mọi mặt đời sống xã hội, đưa nước ta sang một giai đoạn phát triển mới. Các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, các giao lưu kinh tế, dân sự trong nước và quốc tế phát triển đa dạng, phong phú. Công cuộc đổi mới đất nước làm xuất hiện những yêu cầu khách quan, tất yếu phải cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà nước để phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ trương cải cách bộ máy Nhà nước nhằm hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội 9 bằng pháp luật, đề cao tính dân chủ và các giá trị nhân văn. Trong bối cảnh chung đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về việc cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan THADS nói riêng như: Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS; Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 về tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS do Thủ tướng Chính phủ ban hành; Luật THADS năm 2008… Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ngày 06/10/1992, Pháp lệnh THADS năm 1993, Chỉ thị số 266/CT-TTg ngày 02/6/1993 của Thủ tướng Chính phủ, công tác THADS được Tòa án chuyển giao cho Bộ Tư pháp thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương. Gần 20 năm qua, công tác THADS đã có chuyển biến tích cực, hệ thống văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy từng bước được hoàn thiện, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư, kết quả thi hành án năm sau luôn cao hơn năm trước. Theo thống kê của Bộ Tư pháp: Kết quả thi hành án dân sự (về việc, về tiền và tỷ lệ việc chuyển sang năm sau/ tổng số việc có điều kiện thi hành) từ 2007 2010 như sau: Năm 2007: 69% về việc; 55% về tiền; chuyển sang năm sau: 25,5%. Năm 2008: 70,96% về việc; 45,66% về tiền; chuyển sang năm sau: 29%. Năm 2009: 81,05% về việc, 70,54% về tiền; chuyển sang năm sau: 18,95%. Năm 2010: 86,35% về việc, 80,10% về tiền; chuyển sang năm sau: 13,64% [4, tr. 8].. Xã hội hóa lĩnh vực THADS bước đầu thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thu được kết quả tốt; hoạt động giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đi vào nề nếp, nâng cao về chất lượng; từng bước khẳng định và củng cố được vị thế, uy tín của các cơ quan THADS, xứng đáng với sự tin cậy, quan tâm của Đảng, của Nhà nước. Đạt được kết quả như trên nói lên sự cố gắng, nỗ lực của 10 toàn ngành Tư pháp nói chung, của cán bộ, công chức lực lượng THADS nói riêng, bên cạnh đó là sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền, sự phối hợp của các ngành, tổ chức hữu quan trong THADS. Tuy nhiên, công tác THADS hiện nay vẫn còn bộc lộ những tồn tại và hạn chế như: hệ thống văn bản pháp luật về THADS thiếu đồng bộ, một số quy định pháp luật còn mang tính hình thức, khó áp dụng trong thực tế thi hành án; việc kiện toàn tổ chức, bộ máy theo quy định còn chậm; cơ sở vật chất vẫn còn nhiều khó khăn; tình trạng khiếu nại, tố cáo có diễn biến phức tạp, kéo dài; hoạt động phối hợp trong THADS có lúc, có nơi chưa được quan tâm, chú trọng và thiếu hiệu quả; kết quả công tác THADS hàng năm tăng chậm, không bền vững, án tồn đọng chuyển sang năm sau còn nhiều; một số tổ chức, cá nhân chưa nhận thức và coi trọng công tác THADS; vẫn còn số ít cấp ủy, chính quyền và đoàn thể ở địa phương chưa thực sự quan tâm, chú trọng đến công tác THADS. Vì vậy, hiệu quả của công tác THADS chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, chưa củng cố được lòng tin của quần chúng nhân và đảm bảo được tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng trên, đó là vai trò của Nhà nước đối với công tác THADS vẫn còn hạn chế, quản lý nhà nước về công tác THADS tỏ ra bất cập, chồng chéo. Xuất phát từ thực tiễn đó tác giả lựa chọn đề tài "Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)" là đề tài luận văn cao học Luật của mình. Đây là một vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều khoa học chuyên ngành khác nhau như: Nhà nước và pháp luật; quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước… Tuy nhiên, với khả năng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề đặt ra chỉ tập trung trong những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong lĩnh vực THADS, đồng thời kiến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước, tạo động lực thúc đẩy hoạt động THADS nói riêng và hoạt động thi hành án nói chung phát triển hơn. 11 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm gần đây trước những đòi hỏi khách quan, cấp thiết của công tác THADS đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực THADS như: Tìm hiểu pháp luật thi hành án dân sự của Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 1999; Kỹ năng thi hành án dân sự năm 2010 của Học viện Tư pháp biên soạn; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98-027/ĐT do Cục THADS - Bộ Tư pháp thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài "Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện. Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ Luật học "Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự" của tác giả Hoàng Kim Chiến; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Lê Xuân Hồng; Luận văn thạc sĩ luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam". Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật Thi hành án dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội và các trường Đại học có chuyên ngành Luật; một số bài viết đăng trên các tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…Các công trình nêu trên đã nghiên cứu về lĩnh vực THADS ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau, ít nhiều cũng đã có đề cập đến vấn đề vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về nội dung này. 12 3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực THADS, luận văn đưa ra một số phương hướng và giải pháp nâng cao vài trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể sau - Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS trong điều kiện ở nước ta hiện nay. - Đánh giá đúng đắn, toàn diện thực trạng vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS và nguyên nhân của thực trạng đó. - Kiến nghị những giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy công tác THADS nói riêng, hoạt động thi hành án nói chung đạt hiệu quả cao hơn. Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi thực tiễn công tác THADS của tỉnh Thanh Hóa. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề đặt ra chỉ giới hạn trong những nội dung cơ bản về vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực THADS để tìm ra giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước, góp phần hoàn thiện, phát triển hoạt động thi hành án nói chung và THADS nói riêng trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. 13 Tác giả luận văn dùng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, lịch sử, luật học so sánh để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài. 5. Điểm mới của luận văn Luận văn không tập trung phân tích sâu những vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ trong công tác THADS mà nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, thực trạng, nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước cũng như hiệu quả công tác trong lĩnh vực thi hành án nói chung, THADS nói riêng. 6. Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu Hiện nay, hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS. Vì vậy, Luận văn nghiên cứu về vấn đề này trong điều kiện hiện tại cũng đã có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với hoạt động THADS nói riêng và thi hành án nói chung. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về vai trò của Nhà nước và quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án; sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập và đặc biệt là cho việc từng bước hoàn thiện pháp luật về thi hành án trong bối cảnh hiện nay ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Chương 2: Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở Thanh Hóa hiện nay. Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại Thanh Hóa. 14 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Quan niệm về THADS là đề tài tranh luận chưa có hồi kết trên diễn đàn khoa học pháp lý. Có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và cách tiếp cận khác nhau về THADS. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một quan niệm thống nhất về THADS. Qua nghiên cứu tài liệu, qua tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học pháp lý và những người làm công tác pháp luật hiện tại có một số quan điểm cơ bản sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng. Bởi vì, thi hành án là để thực hiện mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ mới dừng lại ở việc làm rõ đúng hay sai, phải hay trái trên văn bản giấy tờ. Nếu muốn chân lý được thực hiện trên thực tế cần phải chờ kết quả của công tác thi hành án. Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử, ở giai đoạn này, cơ quan thi hành án được áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để đưa bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, của các cơ quan có thẩm quyền khác trở thành hiện thực trong đời sống thực tế. Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác về bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức và quản lý. Quan điểm thứ hai khẳng định, thi hành án là hoạt động hành chính tư pháp. Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi Tòa án nhân danh Nhà nước ra phán quyết. Thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì: 15 Thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [42, tr. 21]. Đặc thù trong các quan hệ thủ tục thi hành án (đây là một vấn đề dễ dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng) có thể bao gồm cả quan hệ mang tính chất tố tụng và quan hệ mang tính hành chính - tư pháp, nhưng các quan hệ mang tính hành chính - tư pháp là chủ yếu hơn (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động…). Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc, Nhà nước có thể ban hành các quy định để xã hội hóa hoạt động này. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa. Quan điểm thứ ba, xác định, thi hành án là hoạt động tư pháp. Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa rộng là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án giữ vị trí trung tâm. Thi hành án là hoạt động tiếp theo của quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử. Bởi vì, gốc của hoạt động thi hành án là Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án và các quyết định được đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật. Cơ quan thi hành án phải thi hành đúng theo phán quyết của Tòa án không được suy diễn, làm trái. Tuy chịu sự chi phối như trên, nhưng ở giai đoạn thi hành án, tính chất tố tụng đã chấm dứt. Bởi lẽ, khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, chân lý đã được làm sáng tỏ, có tội hay vô tội, đúng hay sai đã được phán quyết rõ ràng. Việc tổ chức thi hành các phán quyết của Tòa án không thuộc chức năng của cơ quan xét xử, cũng không chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà chịu sự điều chỉnh của pháp luật thi hành án. Thi hành án cũng không mang tính chất hành chính, bởi 16 hành chính là hoạt động chấp hành, điều hành, các quyết định hành chính đưa ra trên cơ sở mệnh lệnh có tính bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp dưới. Trong khi đó, thi hành án là hoạt động thực hiện đúng phán quyết của Tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính, thực chất hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành án chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan thi hành án là tổ chức thi hành án theo đúng quy định của pháp luật. Mỗi quan điểm trên đều có cơ sở khoa học và hạt nhân hợp lý riêng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp là hợp lý hơn cả. Bởi lẽ, thi hành án không chỉ đơn thuần là hoạt động mang tính hành chính, hay tư pháp, không phải là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng. Bản chất của hoạt động thi hành án thể hiện rõ cả hai đặc điểm đó là tính hành chính và tính tư pháp. Vì vậy, nên coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp. Để làm rõ khái niệm THADS, chúng ta phải hiểu như thế nào về "dân sự" trong THADS. Hiện có hai nhóm ý kiến khác nhau như sau: Ý kiến thứ nhất, xác định "dân sự" theo nghĩa hẹp. Cơ sở để đưa ra ý kiến này xuất phát từ quy định tại Điều 1 của Bộ luật Dân sự năm 2005 cho rằng: quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản trong giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự trong thi hành án bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự như: quyết định về tài sản trong vụ án hình sự, hành chính, quyết định giải quyết tranh chấp kinh tế hoặc thương mại của trọng tài được tiến hành theo trình tự, thủ tục riêng. Ý kiến thứ hai cho rằng, phải hiểu khái niệm "dân sự" ở đây theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại 17 bản án, quyết định có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định. Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi lẽ theo quy định của pháp luật hiện hành ở nước ta có nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự, thủ tục khác nhau (như tố tụng dân sự, kinh tế, hành chính, lao động…) nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục THADS. Điều này cũng phù hợp với pháp luật của nhiều nước trên thế giới: việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (luật dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động) được thực hiện theo một thủ tục chung quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy, phạm vi THADS phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự (như hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự khác), phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại, bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam (Điều 1 Luật THADS năm 2008). Từ sự phân tích nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm THADS như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế. 1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự 1.1.2.1. Thi hành án dân sự mang bản chất hành chính - tư pháp Tính chất tư pháp trong hoạt động thi hành án được thể hiện như sau: Thi hành án là hoạt động tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, trước hết đó là hoạt 18 động nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án, đồng thời bao gồm cả các hoạt động thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Điều này thể hiện rõ trong việc thi hành quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án nhằm đảm bảo cho việc xét xử, cũng như đảm bảo cho việc thi hành án sau này, mặc dù chưa có kết quả xét xử của Tòa án. Cơ sở của hoạt động THADS là các bản án, quyết định của Tòa án và của cơ quan có thẩm quyền theo quy định được đưa ra thi hành. Mục đích của của hoạt động THADS là đảm bảo cho phán quyết của Tòa án và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện trong đời sống thực tế. Hơn nữa, theo quy định của Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng chính là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (Điều 137). Theo quy định của Luật THADS năm 2008 "Viện kiểm sát các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự…" [41]. Nghĩa là, ngay trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất như Hiến pháp, Luật cũng đã khẳng định THADS là hoạt động tư pháp. Tính chất tư pháp của hoạt động thi hành án còn được thể hiện như sau: Trong quá trình thi hành án, người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận và tự định đoạt với nhau về cách thức thi hành án, nhà nước khuyến khích các bên đương sự tự nguyện thi hành án. Quan hệ "tư" đó làm cho tính chất tư pháp của hoạt động THADS nổi bật, chỉ khi các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về phương thức thi hành án và người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thì mới bị cưỡng chế thi hành án (gồm cả quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại theo quy định của Luật THADS năm 2008). Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của mình, tức là có tính độc lập rất cao trong hoạt động nghiệp vụ. 19 Mặt khác, yếu tố hành chính của hoạt động thi hành án thể hiện ở chỗ, Chấp hành viên phải tuân theo sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và của thủ trưởng cơ quan THADS. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu như Chấp hành viên có vi phạm thủ tục thi hành án dẫn tới khiếu nại của đương sự, thì việc giải quyết khiếu nại thực hiện thông qua thủ tục hành chính được quy định trong Luật THADS năm 2008, mà không xem xét, giải quyết như trình tự tố tụng. Khác với mối quan hệ của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử được quy định chặt chẽ trong luật tố tụng. Quan hệ giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan hữu quan khác theo quy định của Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn, đó là những quan hệ mang bản chất hành chính, có tính chấp hành và điều hành. Trong quá trình THADS, để buộc người phải thi hành án chấp hành các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án và của cơ quan có thẩm quyền theo quy định, hoạt động của Chấp hành viên phải có tính kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử phạt… là những tính chất của hoạt động quản lý hành chính. 1.1.2.2. Chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự là Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và đương sự (người phải thi hành án, người được thi hành án) Quan hệ THADS luôn tồn tại ba chủ thể bắt buộc là cơ quan THADS, Chấp hành viên và các bên đương sự (người phải thi hành án, người được thi hành án) hình thành trên cơ sở thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Cơ quan THADS và Chấp hành viên là chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước, có quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để buộc các bên đương sự trong THADS phải nghiêm chỉnh chấp hành các phán quyết của Tòa án và quyết định của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và trật tự pháp luật XHCN. Trong THADS, tính chủ động trong hoạt động tác nghiệp của Chấp hành viên luôn được đề cao. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, 20 Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án, được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín (Điều 20, Luật THADS năm 2008). Kể từ thời điểm được thủ trưởng cơ quan THADS phân công tổ chức thi hành vụ việc, hầu như Chấp hành viên có quyền chủ động rất lớn trong hoạt động nghiệp vụ để thi hành dứt điểm vụ việc. Trừ một số việc thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan THADS như ra các quyết định ủy thác, trả đơn, đình chỉ, tạm đình chỉ, hoãn thi hành án, trả lại tiền, tài sản theo quyết định của Bản án, thành lập Hội đồng tiêu hủy vật chứng (theo sự đề xuất của Chấp hành viên)…còn lại Chấp hành viên được quyền chủ động trong việc thiết lập hồ sơ, thông báo, xác minh thi hành án, triệu tập đương sự, đôn đốc giải quyết việc thi hành án, đặc biệt là chủ động trong việc ra các quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế và biện pháp bảo đảm thi hành án, xử lý tài sản kê biên, trực tiếp ký kết hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá, với tổ chức bán đấu giá tài sản…Nói tóm lại, trong quy trình giải quyết vụ việc THADS, ngoài phần việc thuộc thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan THADS như đã nêu, Chấp hành viên có quyền chủ động rất cao trong việc tổ chức thi hành dứt điểm Bản án, quyết định của Tòa án. Về nguyên tắc, tính chủ động, độc lập của Chấp hành viên trong hoạt động nghiệp vụ luôn được tôn trọng, bảo vệ. 1.1.2.3. Đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành án của các bên đương sự Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng, hòa giải trong quan hệ dân sự. Đối với hoạt động THADS, cơ quan thi hành án phải chủ động ra quyết định thi hành án các khoản: hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (khoản 1, Điều 36 Luật THADS năm 2008), ngoài ra cơ quan thi hành án chỉ tổ chức thi hành án trên cơ sở yêu cầu của người phải thi 21 hành án, người được thi hành án. Mặt khác, cơ quan thi hành án và Chấp hành viên phải tôn trọng và đảm bảo cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa thuận và tự nguyện thi hành án. Thỏa thuận về thi hành án của đương sự trong THADS không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận thi hành án. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận được công nhận. Nói cách khác, cơ quan thi hành án và Chấp hành viên chỉ được tổ chức thi hành án trong phạm vi yêu cầu hợp pháp của đương sự, đồng thời phải tôn trọng thỏa thuận hợp pháp của đương sự về phương thức thi hành án như: thời gian, địa điểm, tài sản thậm chí cả thỏa thuận hoãn thi hành án, thỏa thuận rút đơn từ bỏ quyền yêu cầu thi hành án…Đây là đặc điểm nói lên sự khác nhau cơ bản giữa THADS với thi hành án hình sự và thi hành án hành chính phi tài sản. 1.1.2.4. Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự Với chức năng thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Trình tự, thủ tục THADS là một cơ chế chặt chẽ theo quy định của pháp luật THADS nhằm phục vụ cho chức năng thi hành án. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, thủ tục THADS phải đảm bảo tính chính xác cao độ, bởi lẽ hoạt động thi hành án là để hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ THADS, vì vậy, nếu cơ quan thi hành án, Chấp hành viên áp dụng pháp luật THADS không chính xác sẽ dẫn đến hậu quả thực tế rất khó khắc phục (khác với trình tự tố tụng tại Tòa, còn có thủ tục xét lại Bản án, Quyết định). Việc cưỡng chế thi hành án được xem là biện pháp cuối cùng để thi hành dứt điểm vụ việc, Chấp hành viên có quyền sử dụng biện pháp cưỡng chế nhưng phải đảm bảo các thủ tục theo quy định, không được áp dụng biện pháp cưỡng chế tùy tiện. Bên cạnh đó, Nhà nước luôn khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án, kể cả khi đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nhưng "trước khi mở cuộc đấu giá 01 ngày người phải thi hành án có quyền nhận lại tài sản nếu nộp đủ số tiền 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan